intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

“Học thật”: Nhân tố quyết định để có “thi thật”/“tài năng thật”

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

13
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "“Học thật”: Nhân tố quyết định để có “thi thật”/“tài năng thật”" nhằm trình bày một số nhận thức về vấn đề “Học thật” từ thu hoạch ý tưởng của các bậc tiền nhân và tư duy thời đại. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: “Học thật”: Nhân tố quyết định để có “thi thật”/“tài năng thật”

  1. “HỌC THẬT”: NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐỂ CÓ “THI THẬT”/ TÀI NĂNG THẬT” PGS.TS. Đặng Quốc Bảo* 1 Ngày 06/05/2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ thị cho Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện yêu cầu “Học thật/Thi thật/Nhân tài thật”. Sau đó Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đã nêu một số kế hoạch cho ngành để thực hiện yêu cầu của Thủ tướng. “Học thật” là nhân tố quyết định để có “Thi thật/Tài năng thật”. Trong bài này, xin trình bày một số nhận thức về vấn đề “Học thật” từ thu hoạch ý tưởng của các bậc tiền nhân và tư duy thời đại. 1. “CÁI GẮN BÓ” VÀ “CÁI ĐỐI LẬP” VỚI PHẠM TRÙ “THẬT” TRONG CUỘC SỐNG Cái “Thật” trong cuộc sống thường được gọi là cái “Chân”. Nhân tố “Chân” bao giờ cũng phải gắn với nhân tố “Thiện” và nhân tố “Mỹ” (Cái lành, cái đẹp) ngày nay có người còn yêu cầu phải gắn với cái có ích lợi tạo nên hệ giá trị bộ bốn “Chân - Thiện - Mỹ - Lợi”. Cái “Thật” đối lập với cái “Giả” (Giả dối), đối lập với cái “Ảo” (Mộng ảo, phù phiếm), đối lập với cái “Ngụy” (Ngụy biện, ngụy tạo). “Học thật” không bao giờ dung hòa với cái học giả dối, cái học phù phiếm và cái học ngụy tạo. 2. KHỔNG TỬ BÀN VỀ VIỆC HỌC ĐỂ CÓ NHÂN CÁCH Khổng Tử (551 - 479 TCN) được đương thời coi là bậc Vạn Thế Sư Biểu. Ông có lời huấn đức: ● “Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tế dã ngu ● Hiếu trí bất hiếu học, kỳ tế dã đãng ● Hiếu dũng bất hiếu học, kỳ thế dã loạn Nguyên Giám đốc Học viện Quản lý Giáo dục. *
  2. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 15 ● Hiếu tín bất hiếu học, kỳ tế dã tặc ● Hiếu trực bất hiếu học, kỳ tế dã giảo ● Hiếu cương bất hiếu học, kỳ tế dã cuồng” Học giả Phan Ngọc thu hoạch 6 điều trên với nhận thức sau: “Thích làm điều Nhân mà không học thì ngu si Thích làm điều Trí mà không học thì dễ trở thành kẻ lông bông Thích làm người Dũng mà không học thì dễ làm loạn Thích làm người Tín mà không học thì dễ sai lệch Thích làm người Thẳng thắn mà không học thì trở thành kẻ gian giảo Thích làm người Cương quyết mà không học thì trở thành kẻ ngông cuồng” Thu hoạch lời Khổng Tử có thể xây dựng khung mẫu (Paradigm) sau: Nhân Tín Cương Học Trí Dũng Trực 3. “HỌC” TRONG BIỂU ĐẠT VỀ BỐN TRỤ CỘT TỪ “BỐN NỀN VĂN HÓA” 3.1. Bốn trụ cột của việc học theo quan điểm của Nho gia phương Đông Học để thực hiện “Tu - Tề - Trị - Bình” Nho gia phương Đông có lời khuyên người đi học (Kẻ sĩ) thực hiện 4 điều sau: ● Học để biết cách tu dưỡng bản thân (Tu thân) ● Học để biết lo toan cho gia đình (Tề gia) ● Học để có lý tưởng làm cho đất nước hưng trị (Quốc: Trị) ● Học để biết cách góp phần làm cho thiên hạ thanh bình (Thiên hạ: Bình)
  3. 16 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Cùng 4 điều nêu trên, trong sách Đại học, Nho gia còn lưu ý người đi học phải quán triệt: Cách vật - Trí tri - Thành ý - Chính tâm (Nghĩa là: Muốn cải cách sự vật phải hiểu biết mọi điều, muốn hiểu biết phải thành ý, muốn thành ý phải chính tâm, chính tâm để tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Tu thân Bình Học Tề Gia Thiên Hạ Trị Quốc Nhà cách mạng Tôn Dật Tiên trong sách Tam dân chủ nghĩa có nhận xét: “Nói về Cách vật, Trí tri, Thành ý, Chính tâm, Tu thân, Tề gia, Trị Quốc, Bình thiên hạ mà trong sách “Đại học” đã giải thích dù cho những nhà chính trị đại tài của nước ngoài cũng vẫn chưa có ai nghĩ tới và nói đến một cách mạch lạc rõ ràng như vậy”. (Dẫn lại từ Bản sắc văn hóa Việt Nam của Phan Ngọc, NXB Văn học, H., tr.446) 3.2. Học giả Mỹ Alvin Toffler xác định: “Học cách tích lũy, học cách gắn kết, học cách chọn lựa, học cách thích ứng” Bước vào kỷ nguyên công nghiệp phát triển, những năm 70 của thế kỷ XX, học giả Mỹ Alvin Toffler xuất bản bộ ba sách Cú sốc tương lai, Thăng trầm quyền lực và Làn sóng thứ ba làm sôi nổi tư duy nhân loại. Theo ông, con người của xã hội hiện đại phải biết cách học để: ● Tích lũy kiến thức. ● Gắn kết kiến thức. ● Chọn lựa được kiến thức cần thiết cho bản thân. ● Dùng kiến thức đã có đưa bản thân thích ứng với ngoại cảnh. Tích lũy Thích ứng Học Gắn kết Chọn lựa
  4. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 17 Chu trình Học để “Tích lũy - Gắn kết - Chọn lựa - Thích ứng” đảm bảo cho việc học đạt được hiệu quả cao ở bối cảnh mới. Đồng thời với lời bàn của Alvin Toffler, nhà trường châu Âu thế kỷ XX nêu công thức “3C” cho người học, bao gồm: C1 = Collectory/ tích lũy nhiều C2 = Caculatory/ xử lý tinh C3 = Communicatory/ giao lưu rộng 3.3. Jacques Delors/ UNESCO với thông điệp: “Học để biết, học để làm, học để chung sống với nhau, học để làm người” Năm 1996, ông Jacques Delors - Chủ tịch Ủy ban Giáo dục của UNESCO cùng các cộng sự từ nhiều nước đã công bố báo cáo Học tập - Một kho báu tiềm ẩn trong đó xác định bốn trụ cột của “Học” là: ● Học để biết. ● Học để làm. ● Học để biết cách chung sống với nhau. ● Học để làm người. Để biết Để làm Để làm Học người Để chung sống với nhau Học để biết cách chung sống với nhau còn được diễn đạt qua các mệnh đề “Học để biết cách khoan dung nhau”, “Học để biết tôn trọng sự khác biệt”. “Học để làm người” từng được Edgar Faure, một nhà chính trị uy tín của châu Âu đề xuất từ năm 1972 trong báo cáo “Học để làm người - Thế giới giáo dục hôm nay và ngày mai”. Ông khẳng định làm người là phấn đấu có nhân cách: “Năng lực tự chủ, sự xét đoán thông minh và trách nhiệm của cá nhân trong việc cùng người khác, cùng cộng đồng phấn đấu xây dựng được xã hội học tập mà ở đó không một tài năng nào bị gạt bỏ”. “Học để làm việc, làm người” từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu cho học viên Trường Đảng Cao cấp tháng 09/1949. Người gắn ý tưởng này với việc rèn luyện “Cần - Kiệm - Liêm - Chính”.
  5. 18 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Ông Trần Văn Nhung – Nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã gửi tư liệu này cho UNESCO. Tổ chức này phúc đáp: Ý tưởng việc học do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra làm phong phú cho di sản việc học của nhân loại. 3.4. Dân tộc Việt xác định 4 trụ cột của việc học: “Học ăn - Học nói - Học gói - Học mở” với hàm ý - “Học ăn”: Học cách lĩnh hội - “Học nói”: Học cách diễn đạt - “Học mở”: Học cách khai triển - “Học gói”: Học cách kết thúc vấn đề Ăn Mở Học Nói Gói Suy ngẫm ra ngày nay, từ cháu bé lên 3 đến nhà chính trị tuổi ngoài thất thập vẫn cần lưu ý “Học ăn – Học nói – Học gói – Học mở”. Trong “Học gói – Học mở” còn có minh triết biết thế nào là đủ, biết đến đâu phải dừng. Bà mẹ Việt Nam có lời khuyên con: “Học đi chỉ có một năm, Học dừng học đến mòn răng chưa thành”. 4. HỒ CHÍ MINH TỔNG KẾT VIỆC HỌC ĐẠT TỚI GIÁ TRỊ CHÂN CHÍNH TRONG MƯỜI MỘT TỪ Ngày 21/07/1956 đến thăm một lớp học của trí thức Thủ đô đặt tại một trường đại học của Hà Nội, Bác Hồ có lời tâm tình: “Thời gian các bạn đến nghiên cứu ở trường này tương đối ngắn ngủi, cho nên không thể yêu cầu quá cao, quá nhiều. Những điều các bạn nghiên cứu được ở đây có thể ví như một hạt nhân bé nhỏ. Sau này, các bạn sẽ tiếp tục săn sóc vun xới làm cho hạt nhân ấy mọc thành công và dần dần nở hoa kết quả. Theo ý riêng của tôi, thì hạt nhân ấy có thể Tóm tắt trong 11 chữ “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân”.
  6. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 19 Người nhấn mạnh thêm: “Nói Tóm tắt: Minh minh đức là chính tâm Thân dân tức là phục vụ nhân dân Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết Nói một cách khác, tức là: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, tr.377) Trong lời tâm tình này, Hồ Chí Minh đã kết hợp và phát triển ý tưởng của hai bậc tiên hiền: Tăng Tử (505 -435 TCN), học trò xuất sắc của Khổng Tử và Phạm Trọng Yêm (990-1052), nhà chính trị văn hóa nổi tiếng đời Tống đã minh định yêu cầu có trong đạo đức của nhà chính trị giáo dục hiện đại. Hồ Chí Minh khôi phục phạm trù “Thân dân”, vốn là thông điệp gốc của chân Nho thay cho “Tân dân” từng được Hán Nho, Tống Nho quảng bá. Sách Đại học (một cuốn sách nền tảng trong Tứ thư) mà các đời sau lưu hành khi dẫn lại ý tưởng của Tăng Tử có diễn đạt: “Đại học chi đạo Tại minh minh đức Tại tân dân Tại chỉ ư chí thiện”. Với sự giải thích: “Hai chữ Đại học ở đây có nghĩa là đạo học rộng lớn với học vấn uyên bác tinh sâu. Minh minh đức là phát huy tiềm năng đức sáng, đức tốt, tính thiện của con người, Tân dân là đổi mới lòng dân, đổi mới cách nghĩ của dân, bỏ cũ thay mới, bỏ ác thay thiện, khiến mọi người có thể bỏ dần xấu mà làm điều tốt”. Ý kiến trên là tích cực, song dễ làm cho kẻ sĩ và nhà chính trị giáo dục có tâm thế, thái độ: Đứng trên dân, ban ơn cho dân. “Thân dân” mà Hồ Chí Minh khôi phục lại ý tưởng của các bậc chân Nho, đặc biệt là của Phạm Trọng Yêm: lo trước dân, hưởng sau dân và đến Người không chỉ bó hẹp ở nghĩa “Thương dân”. Nó mang một chất mới cao quý hơn nhiều trong văn hóa chính trị của nước Việt Nam mới mà Hồ Chí Minh cùng các đồng chí của mình đã ra sức kiến tạo từ ngày 2/9/1945.
  7. 20 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 5. “HỌC THẬT” TRONG ĐỜI SỐNG VIỆT ĐỂ ĐẠT TỚI MỤC TIÊU “CON HƠN CHA LÀ NHÀ CÓ PHÚC” Trong đời sống hiện nay thường có lời kêu gọi: Giáo dục thường xuyên – Đào tạo liên tục – Học tập suốt đời. Có nhà văn hóa Việt từng phát biểu: “Cái nợ khác có khi trả hết, nợ học là nợ chung thân vậy” (Thượng chi văn tập, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2016, tr 15). Đọc những lời trên lại liên hệ tới lời huấn đức của Bác Hồ năm 1961: “Tôi năm nay 71 tuổi ngày nào cũng phải học... công việc cứ tiến mãi, không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau. Chúng ta là đảng viên già, hiểu biết của chúng ta hồi 30 tuổi so với sự hiểu biết của lớp trẻ bây giờ... thì chúng mình dốt lắm... Tôi cũng dốt lắm, nếu thế hệ già khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Các cháu không hơn là bệt - bệt là không tốt. Người ta thường nói “Con hơn cha là nhà có phúc”. Ta hiểu như thế nhưng không có tư tưởng thụt lùi nạnh kẹ...”. (Viết ngày 09/12/1961 Toàn tập, Tập 13, tr.273) Xã hội Việt ngày nay đang có mong ước kiến tạo được nền giáo dục chia sẻ, để đi tới nền giáo dục chia sẻ cần có nhiều điều, song điều cốt yếu là con người phải biết sống Minh triết. Trong Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, tại bàn thờ của vua Lý Thánh Tông có đôi câu đối sau: “Dục anh tài nhi sử năng, Quốc Tử Giám cao huyền mô khải Dưỡng minh triết dĩ kế trị, Thăng Long kinh trường tụ tinh hoa” (Nuôi nấng anh tài để sử dụng năng lực của họ, Quốc Tử Giám nêu cao mẫu mực Phát triển minh triết tìm kế sách cho đất nước thịnh trị. Kinh đô Thăng Long đời đời hội tụ được tinh hoa) 6. GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ “HỌC THẬT” CÓ LẼ SỐNG 4 ”H + T + C” Sự phát triển quan trọng nhất của một con người là nhân cách/tư cách Nhân cách/tư cách được hiểu một cách khái quát:  Cốt cách làm người.  Phẩm cách làm người.  Cách thức nên người. Nhân cách con người Việt vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải hài hòa cả 3 mặt: Giữ gìn được “Nhân tính” (Sống theo đạo làm người)
  8. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 21 Bảo tồn được “Quốc tính” (Sống theo truyền thống dân tộc Việt). Khẳng định được “Cá tính” (Sống theo bản sắc tiến tới bản lĩnh) Mỗi con người phải có phẩm chất nói chung một cách tích cực. Từ phẩm chất có “Lối sống tốt đẹp” và có “Lẽ sống cao quý”. Phạm trù “lẽ sống” được Từ điển tiếng Việt minh định: “Điều thường thấy ở đời được coi là hợp với quy luật với đạo lý”. Khi đề cập quan điểm sống, lối sống là nói những điều to tát. Còn khi đề cập “lẽ sống” dù có bình dị hơn nhưng trong đó đã bao hàm “quan điểm sống và lối sống” đồng thời cũng đề cập tới lý tưởng sống.  Bốn phạm trù “H” trong “lẽ sống” do thầy Hà Thế Ngữ và thầy Hoàng Ngọc Hiến đề cập Thầy Hà Thế Ngữ (1929-1990), thầy Hoàng Ngọc Hiến (1930-2011) là hai người thầy khả kính của giới Giáo dục học Việt Nam. Sinh thời các thầy cho môn đệ những lời huấn đức được cô đọng trong 4 phạm trù “H”: “H1”: Sống hiện thực, đừng mơ mộng viển vông. “H2”: Sống hiện đại, đừng nhếch nhác, luộm thuộm. “H3”: Sống hoài bão, đừng bèo dạt mây trôi. “H4”: Sống hẳn hoi, đừng thiếu sự chu đáo, tử tế. Thầy Hoàng Ngọc Hiến có bình luận rất sâu sắc về sống “hẳn hoi”: “Hẳn hoi” không phải là một tiêu chuẩn quá cao: không phải thật giỏi mới hẳn hoi, không phải thật đàng hoàng, thật dũng cảm, thật “đạo cao, đức trọng” mới hẳn hoi… “Hẳn hoi” là một phẩm chất có thể đặt ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi bình diện: ăn mặc hẳn hoi, nhà cửa hẳn hoi, lời lẽ hẳn hoi, một người thầy hẳn hoi, một người cha hẳn hoi, một người lãnh đạo hẳn hoi, học vấn hẳn hoi, làm ăn hẳn hoi… Xã hội nào cũng có kỷ cương và lễ nghi, người hẳn hoi tiếp nhận tinh thần của kỷ cương và lễ nghi với/ do lòng tự trọng chứ không bị lệ thuộc một cách mù quáng vào những quy ước của kỷ cương và lễ nghi. Xã hội nào cũng có tôn ty trật tự, người hẳn hoi không gò mình vào trật tự này nhưng rất có ý thức về lẽ phải của thứ bậc. Vài mươi năm trước đây với bộ phim nổi tiếng về người Hà Nội, Trần Văn Thủy đã làm sống lại phẩm chất “tử tế” trong ý thức đạo đức của xã hội. Tuy nhiên, phẩm chất này dường như vẫn chưa được chính thức công nhận, đạo đức và hành vi được
  9. 22 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP kiểm điểm theo nhiều chuẩn mực trừ chuẩn mực “người tử tế”. Phẩm chất “hẳn hoi” cũng có số phận tương tự. Một hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân loại là những gì không được người ta nhớ đến thì dần dà sẽ biến mất. Xã hội không quan tâm đến “sự tử tế”, “sự hẳn hoi” thì dần dà những người tử tế, hẳn hoi sẽ biến mất; ngược lại, xã hội còn nhớ đến những phẩm hạnh này, thì những người hẳn hoi, tử tế xuất hiện khắp nơi. Thầy Hà Thế Ngữ thường nhắc học trò: “Phải theo tấm gương của tiền nhân nhưng phải nhớ lời khuyên của Thiền sư Quảng Nghiêm: “Nam nhi tự hướng xung thiên chí Hưu hướng Như Lai hành xử hành” (Làm trai có chí xông trời thẳm Đừng nhọc lòng theo bước chân của Như Lai) (Thiền sư Quảng Nghiêm (1121-1190). Ông quê ở Bắc Ninh, sống ở đời Lý rất được Nhân dân kính trọng) Bốn phạm trù “T” theo lời huấn đức của thầy Nguyễn Khắc Viện  Thầy Nguyễn Khắc Viện (1913-1997) là trưởng nam của Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm, người đề ra phương châm “Tứ tôn” cho vua Thành Thái với nội dung: “Tôn tộc đại quy Tôn lộc đại suy Tôn tài đại thịnh Tôn nịnh đại nguy” (Tôn trọng dân tộc, dòng tộc mình thì đem lại sự đoàn kết Tôn trọng bổng lộc, tài lộc thì đó là mầm mống của sự suy đồi Tôn trọng người hiền tài thì đem lại sự thịnh trị Tôn trọng bọn cơ hội xiểm nịnh thì đem lại nguy cơ cho sự tan vỡ…) Thầy Nguyễn Khắc Viện tích hợp trong cuộc đời hai nền văn hóa Đông – Tây. Ông có phương châm sống “4T” như sau và truyền cảm hứng của mình cho đồng chí cho môn đệ cùng thực hiện: • “T1”: - Có lòng tự trọng bản thân • “T2”: - Tạo cho mình một cái thế đứng vững giữa xã hội tự lập cố gắng không nhờ vả ai.
  10. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 23 • “T3”: - Nuôi dưỡng cái tình người cho phong phú, gắn bó trước hết với gia đình, họ tộc và đất nước. • “T4”: - Tạo cho mình có tâm ổn định, mình làm chủ lấy mình, đời dù có sóng gió, cái tâm mình vẫn vững vàng. Trong một lần nói chuyện tại Viện Khoa học Giáo dục cuối những năm 70 của thế kỷ trước, ông nhắc đến “Ba điều” mà Bảng nhãn Lê Quý Đôn đã nói trong “Kiến văn tiểu lục”: Con người cần “biết sợ - biết xấu hổ - biết chịu khó/ chịu khổ”. “Biết sợ” theo Nguyễn Khắc Viện nhấn mạnh: “Sợ làm sai đạo lý”, “Sợ làm sai pháp lý”, “Sợ làm sai công lý”. Bốn phạm trù “C” theo quan điểm của GS. Klaus Schwab  Ông là Giám đốc điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) trong bài nói chuyện đầu năm 2017 khi nhân loại sôi nổi bước vào cách mạng công nghiệp 4.0, ông có nêu: “Chúng ta đang trong thời khắc lối rẽ của lịch sử, khi phải đối mặt với những bất ổn về kinh tế, chính trị, di cư, khủng bố và có những rạn nứt về thể chế, đạo đức, năng lực, lãnh đạo, v.v…”. Ông đề ra bốn phạm trù C mà bất cứ người hiện đại nào, dù thuộc dân tộc nào, dù làm nghề gì cũng cần rèn luyện. • C1: Critical thinking/ Tư duy phê phán • C2: Creative/ Năng lực sáng tạo • C3: Communication/ Năng lực giao tiếp • C4: Collaboration/ Năng lực hợp tác Ý tưởng trên của Klaus Schwab được học giả người Israel – Yuval Noah Harari nồng nhiệt tán thành. Trong một tác phẩm ấn tượng: Hai mươi mốt bài học cho thế kỷ XXI (do Nhã Nam và NXB Thế giới ấn hành năm 2019). Harari biểu lộ quan điểm: “Nhiều chuyên gia sư phạm cho rằng trường học nên chuyển sang việc dạy “bốn chữ C”, tức tư duy phản biện, giao tiếp, hợp tác và sáng tạo (critical thinking, communication, collaboration, creativity). Nói rộng hơn, họ tin là trường học nên giảm bớt các kỹ năng kỹ thuật và nhấn mạnh vào các kỹ năng sống đa mục đích. Quan trọng hơn cả sẽ là khả năng đối phó với thay đổi, học điều mới và duy trì cân bằng tâm lý trong các tình huống xa lạ. Để theo kịp thế giới năm 2050, bạn sẽ không chỉ cần sáng tạo các ý tưởng và sản phẩm mới mà trên hết, bạn sẽ cần tự đổi mới mình hết lần này đến lần khác.”
  11. 24 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Harari cho rằng đi vào bối cảnh mới có tác động của cách mạng công nghiệp 4.0. Con người không lo đói rét, thất nghiệp mà lo sự “vô dụng” trong cuộc đời Mô hình (Paradigm) về “lẽ sống” cho thế hệ trẻ trong bối cảnh hiện đại:  Tổng hợp các lời huấn đức trên có thể xây dựng công thức và Paradigm sau đề cập đến “Lẽ sống” cho thế hệ trẻ trong bối cảnh hiện đại: * Công thức về “Lẽ sống” cuộc đời: F (lscđ) = f (4H + 4T + 4C) “4H”: • H1: Sống hiện thực • H2: Sống hiện đại • H3: Sống hoài bão • H4: Sống hẳn hoi “4T”: • “T1”: - Sống Tự trọng, tự tin • “T2”: - Sống có Thế tự lập • “T3”: - Sống có Tình gắn bó • “T4”: - Sống có Tâm ổn định “4C”: • C1: Critical thinking/ Tư duy phê phán • C2: Creative/ Năng lực sáng tạo • C3: Communication/ Năng lực giao tiếp • C4: Collaboration/ Năng lực hợp tác Paradigm về “lẽ sống cuộc đời”.
  12. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 25 C1 T1 C2 H1 H2 T4 T2 Lẽ sống cuộc đời H4 H3 C4 C3 T3 Một nhà giáo dục tiếp nhận công thức trên có sự bàn luận: Con người phải biết biến H (hàng) thành T (tiền) rồi thành C (của) và tiếp tục phát triển cho sự hưng thịnh của bản thân của gia đình của cộng đồng đất nước. H -> T -> C -> H’ –> T’ –> C’… với yêu cầu: (H’>H; T’ > T; C’ > C) Những lời huấn đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc học 1. Học bây giờ với học dưới chế độ thực dân, phong kiến khác hẳn nhau. Bây giờ phải học để: - Yêu Tổ quốc: cái gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chúng ta kiên quyết chống lại. - Yêu nhân dân: việc gì hay người nào phạm đến lợi ích chung của nhân dân, chúng ta kiên quyết chống lại. - Yêu lao động: ai khinh rẻ lao động, chúng ta kiên quyết chống lại - Yêu khoa học: cái gì trái với khoa học, chúng ta kiên quyết chống lại. - Yêu đạo đức: chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần kiệm; xóa bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động (Nói chuyện với nam nữ thanh niên học sinh các trường trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An và Trưng Vương (Hà Nội), ngày 18-12-1954, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t9, tr. 178-179) 2. Học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh. (Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô ngày 5-9-1954, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t9, tr.46) 3. Học chủ nghĩa Mác - Lênin không phải nhắc như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn ở Việt Nam. Nói đến
  13. 26 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam là nói đến chủ trương, chính sách của Đảng. (Bài nói chuyện về Bản tổng cương và Điều lệ của Đảng, ngày 10-5-1950, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.6, tr.368) 4. Học có tốt, hành mới tốt, học và hành tốt mới làm tròn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng. (Bài nói tại Đại hội Thanh niên Thủ đô, ngày 30-9-1964, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.14, tr. 386) 5. Học cũng thế, dạy cũng thế. Thanh niên là chủ lực quân trong phong trào Bình dân học vụ. Bất kỳ ở đâu cũng phải làm cho thanh niên hiểu rõ nhiệm vụ đó. Học, thanh niên cũng phải làm đầu tàu, dạy, thanh niên cũng phải làm đầu tàu. (Huấn thị tại Đại hội sơ kết công tác Bình dân học vụ 6 tháng đầu năm 1956, ngày 16-7-1956, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.10, tr.368) 6. Học để làm gì? a) Học để sửa chữa tư tưởng: Hăng hái theo cách mạng điều đó rất hay. Nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế cần phải học tập để sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được. b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng: Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn. c) Học để tin tưởng Tin tưởng vào đoàn thể Tin tưởng vào nhân dân. Tin tưởng vào tương lai của dân tộc. Tin tưởng vào tương lai cách mạng. Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết, hy sinh. d) Học để hành: Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy. (Nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập ngày 6-5-1950, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tr.360-361) 7. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ.
  14. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 27 Học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, (Lời ghi ở trang đầu quyển sổ vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương tháng 9-1949, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tr.208) 8. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn. (Đạo đức cách mạng, tạp chí Học tập, số 12-1958, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 11, tr.611) 9. Học để phụng sự ai? Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà. (Nói chuyện với nam nữ thanh niên học sinh các trường trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An và Trưng Vương (Hà Nội), ngày 18-12-1954, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 9, tr.179). 10. Học hành là vô cùng. Học càng nhiều biết càng nhiều càng tốt, vậy tôi khuyên đồng bào trong xã gắng học thêm thường thức như làm tính, lịch sử, địa dư, chính trị, vệ sinh. (Thư gửi đồng bào xã Duyên Trang, huyện Tiên Hưng, Thái Bình ngày 13-11-1947, Hồ Chí Minh toàn tập Sđd tập 5, tr.349) 11. Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình là đã biết đủ rồi, biết hết rồi. (Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 1, Trường Đại học Nhân dân Việt Nam ngày 21-7-1956, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 10, tr.377) 12. Học không bao giờ cùng. Học để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy phải học thêm. (Thư gửi quân nhân học báo, báo Quân nhân học báo, số 1, tháng 6-1949, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 6, tr.61) 13. Học lý luận không phải để nói mép, nhưng biết lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Học là để áp dụng vào việc làm. Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng. (Nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập, tháng 5-1950, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 6, tr.357) 14. Học ở đâu? Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn. (Nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập ngày 6-5-1950, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 6, tr.361)
  15. 28 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 15. Học phải đi đôi với hành: Khi ở nhà, phải thương yêu cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ về công việc, giúp đỡ về tinh thần (Học được điều gì về tình hình trong nước và thế giới thì nói lại cho cha mẹ nghe). Ở trường thì phải đoàn kết, giúp đỡ anh chị em, thi đua học tập. Phải đoàn kết giữa thầy và trò, làm cho trường mình luôn luôn tiến bộ. Ở xã hội: các cháu có thể giúp được nhiều việc có ích. Thí dụ: tuyên truyền vệ sinh, giúp đỡ các em nhi đồng, xung phong dạy bình dân học vụ, v.v... (Nói chuyện với nam nữ thanh niên học sinh các trường trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An và Trưng Vương (Hà Nội), ngày 18-12-1954, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 9, tr.179) 16. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. “Đạo đức cách mạng”, Tạp chí Học tập, số 12-1958, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 11, tr.611) 17. Học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận, chỉnh đốn tổ chức – là những việc cần kíp của Đảng. (Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, ngày 11-2-1951, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 7, tr.33) 18. Học tập làm cho mỗi đảng viên nâng cao quyết tâm phấn đấu suốt đời cho lý tưởng cộng sản, biến quyết tâm đó thành hành động thực tế trong lao động sản xuất, trong chiến đấu và trong đời sống hàng ngày. (Bài nói ở lớp huấn luyện đảng viên mới, ngày 14-5-1966, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 15, tr. 114) 19. Học tập lý luận thì nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận (Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa 1 Trường Nguyễn Ái Quốc ngày 7-9-1957, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 11, tr.95) 20. Học tập thì theo nguyên tắc kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau. (Sửa đổi lối làm việc, tháng 10-1947, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 312) 21. Học tập trong việc làm hằng ngày, trong việc lớn cũng như trong việc nhỏ, việc cao cũng như việc thấp. (Bài nói tại lớp chỉnh Đảng Trung ương khóa 2, tháng 3-1953, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 8, tr.100) 22. Học tập tốt là chính trị, văn hoá đều phải gắn liền với lao động sản xuất, không học dông dài. (Bài nói chuyện với cán bộ và học sinh Trường Sư phạm miền núi Nghệ ngày 9-12-1961, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 3, tr.270) 23. Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy. (Nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập, tháng 5-1950, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 6, tr.361) 24. Học, thanh niên cũng phải làm đầu tàu, dạy, thanh niên cũng phải làm đầu tàu (Huấn thị tại Đại hội sơ kết công tác Bình dân học vụ sáu tháng đầu năm 1956 ngày 16-7-1956, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tâp 10, tr.368)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2