Taïp chí KHOA HOÏC ÑHSP TP.HCM Soá 9 naêm 2006<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
“THU RỪNG”<br />
MỘT CẤU TRÚC KHÔNG GIAN LẠ TRONG THƠ HUY CẬN<br />
<br />
<br />
NGUYỄN THỊ KIM ỬNG*<br />
<br />
<br />
1. Nhà thơ Xuân Diệu trong lời đề tựa giới thiệu tập Lửa thiêng của Huy Cận<br />
xuất bản năm 1940 đã nhận xét Huy Cận là thi sĩ của “thiên nhiên” trước khi ông<br />
phân tích “nỗi sầu đời” trong thơ người bạn thân : “Đời xưa có một thi sĩ lành<br />
như suối nước ngọt, hiền như cái lá xanh ; gần chàng người ta cảm nghe một nỗi<br />
hoà vui, như đứng giữa thiên nhiên, tâm hồn thơi thới. Thi sĩ xưa làm những bài<br />
thơ bao la như lòng tạo vật … Ấy là Huy Cận đó, nhưng một thi sĩ “thiên nhiên”<br />
như chàng thì ở thời nào chẳng được, ở thời nay cũng như ở thời xưa ; chàng<br />
như không ở trong thời gian mà chỉ trong không gian ; người ta muốn tưởng linh<br />
hồn Huy Cận là đám mây kia, là nỗi hắt hiu trong cõi trời, là hơi gió nhớ<br />
thương …”.<br />
Lí lẽ để Xuân Diệu nhận xét Huy Cận là thi sĩ “thiên nhiên” cũng là điều dễ<br />
cảm nhận, bởi gần như trong 50 bài thơ tuyển chọn, hình ảnh thiên nhiên hiện lên<br />
như những bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp, phóng khoáng. Đó là không gian<br />
mùa trong thơ Huy Cận. Thiên nhiên chuyển đổi theo bốn mùa với các cung bậc<br />
tình cảm và cảm hứng khác nhau. Trong Lửa thiêng, Huy Cận viết về mùa xuân<br />
khoảng 04 bài, hạ : 03 bài, thu : 02 bài, đông : 02 bài. Dấu ấn tình cảm nhẹ nhàng<br />
của thời học sinh và tình yêu lãng mạn, đằm thắm của tuổi trẻ được nhà thơ gửi<br />
gắm nhiều nhất qua không gian mùa xuân, mùa hạ (Xuân, Đi giữa đường<br />
thơm). Mùa đông trong thơ Huy Cận được nhận xét là sự thể hiện cảm xúc da<br />
diết và tính triết lí sâu sắc về kiếp người (Nhạc sầu, …). Dung hoà hơn, lồng<br />
trong tâm trạng u buồn đau đáu của “một chiếc linh hồn nhỏ/mang mang thiên cổ<br />
sầu …” (Ê chề) là sự rung động và cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước không<br />
gian mùa thu thật buồn, đẹp, sâu lắng.<br />
<br />
<br />
*<br />
Ban Văn hoá Văn nghệ, Báo Sài Gòn Giải phóng<br />
<br />
104<br />
Taïp chí KHOA HOÏC ÑHSP TP.HCM Nguyeãn Thị Kim ÖÛng<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Thu rừng là bài thơ tiêu biểu với hình ảnh, ý, tình, âm điệu, nhạc điệu, cấu<br />
trúc thơ lạ, tạo được sự lan tỏa êm ái trong tâm tình con người và cả cảm xúc<br />
rung động mạnh mẽ, chất chứa nỗi u buồn man mác :<br />
Bỗng dưng buồn bã không gian<br />
Mây bay lũng thấp, giăng màn âm u<br />
Nai cao gót lẫn trong mù<br />
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về<br />
Sắc trời trôi nhạt dưới khe<br />
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng<br />
Sầu thu lên vút song song<br />
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu<br />
Non xanh ngây cả buồn chiều<br />
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.<br />
2. 10 câu thơ lục bát gói gọn toàn cảnh không gian chớm thu thật mới mẻ. Sự<br />
mới mẻ này bao gồm cả nội dung lẫn hình thức. Dự cảm cái mới đầu tiên là dấu<br />
hiệu đổi thay của thời tiết. Nhưng, để cắt nghĩa cho cảm xúc và cảm hứng vì sao<br />
nỗi buồn bất chợt đến là điều khó giải bày. Thời gian đang trôi, “mây bay lũng<br />
thấp” lãng đãng, nhịp thơ chầm chậm ; còn không gian, dường như có lúc đứt<br />
nối khi thiên nhiên chuyển đổi sắc màu từ khung cảnh bình thường bỗng chuyển<br />
sang u trầm :<br />
Bỗng dưng buồn bã không gian,<br />
Mây bay lũng thấp, giăng màn âm u.<br />
Sau sự báo hiệu thời tiết chuyển mùa trong không gian, hoạt động, cuộc<br />
sống của chim muông, cây lá chịu tác động của thiên nhiên có lẽ cũng là dấu hiệu<br />
đứng thứ hai. Cho nên, sự xuất hiện của một chú nai từng bước khoan thai trên<br />
lối đi quen thuộc, vừa có vẻ háo hức vừa có vẻ điềm nhiên đón đợi mùa thu như<br />
được nhìn nhận là một “nhân chứng” dự cảm cho phút giao mùa của trời và đất.<br />
Trong khoảnh khắc, sự thay đổi nhịp điệu thơ 2/2/2 của câu thơ lục đầu tiên<br />
<br />
<br />
105<br />
Taïp chí KHOA HOÏC ÑHSP TP.HCM Soá 9 naêm 2006<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
“Bỗng dưng/buồn bã/không gian” bỗng chuyển nhanh thành nhịp 3/3 của câu thơ<br />
lục phía dưới, diễn tả sự quan sát, phát hiện của nhà thơ về “nhân vật nai” vừa quen<br />
thuộc, vừa thấp thoáng ẩn hiện rất lạ :<br />
Nai cao gót/ lẫn trong mù<br />
Nhịp thơ không kịp dừng lại. Câu thơ tám chữ tiếp theo đã chuyển sang nhịp<br />
điệu chậm 2/2/2/2 như mô tả bước chân nai nhẹ nhàng, lặng lẽ xuống từng bậc, từng<br />
bậc đá núi :<br />
Xuống rừng\<br />
nẻo thuộc\<br />
nhìn thu\<br />
mới về\<br />
Hai câu thơ mô tả từng động tác khá sinh động của “nai cao gót” độc hành<br />
trong cảnh thu sương mù. Êm nhẹ, thanh thoát và chắc chắn rằng bước chân nai ở<br />
đây sẽ không làm vang động không gian như chú nai “hồn nhiên” của Lưu Trọng<br />
Lư trong bài thơ Tiếng thu (Con nai vàng ngơ ngác/ Đạp trên lá vàng khô ?). Cảm<br />
nhận về sắc thu, cả hai nhà thơ Lưu Trọng Lư và Huy Cận không hẹn mà gặp đã<br />
“nhập tịch” chú nai trong văn chương phương Tây sang văn chương Việt Nam.<br />
Hình tượng “con nai” gắn liền với “mùa thu”, góp phần làm lạ, phong phú thêm<br />
nghệ thuật Thơ Mới Việt Nam đầu thế kỷ XX.<br />
Không gian trong Thu rừng đang dịch chuyển theo góc nhìn từ xa đến gần<br />
của nhà thơ. Ở đây, thử vận dụng nguyên lí song hành (parallélism) theo thi học cấu<br />
trúc Nga của Roman Jakobson, có thể sẽ cho thấy sự phát lộ một không gian hiện<br />
thực và không gian tâm tưởng được Huy Cận thể hiện khá đa dạng qua từ, âm điệu,<br />
nhịp điệu, ngữ pháp thơ …<br />
Sắc trời trôi nhạt dưới khe >< Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng<br />
Chính hai câu thơ song hành đã tạo nên một bức tranh đẹp, gọn gàng với cảnh<br />
sắc, hình ảnh thật sinh động. Khung cảnh được phác thảo như một bức tranh thủy<br />
mặc – đường nét đơn giản, độ đậm nhạt thanh thoát. Cũng với những câu thơ lục bát<br />
này, thử phân tích cách sử dụng cấu trúc câu ngắn (chủ từ – động từ) của Huy Cận.<br />
<br />
<br />
106<br />
Taïp chí KHOA HOÏC ÑHSP TP.HCM Nguyeãn Thị Kim ÖÛng<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Xét về ý nghĩa, động từ chỉ hành động và động từ diễn đạt trạng thái (trôi, đi, rụng,<br />
nghe) đang tạo nhịp điệu nhanh, gợi tả theo ngữ cảnh :<br />
“sắc trời trôi nhạt dưới khe” ;<br />
“chim/đi”,<br />
“ lá/rụng”,<br />
“cành/nghe lạnh lùng”.<br />
Rõ ràng cách mô tả một không gian mùa thu chuyển động tốc độ nhanh, gần<br />
như liên tục, mạch thơ như đang bay đi. Thế nhưng, “cái động” ở đây chỉ là cảm<br />
giác, là không gian tâm tưởng. Thật ra, không ai có thể xác định thời gian chim đã<br />
bay tự bao giờ … ? Lá đã rụng tự bao giờ … ? Có điều, dẫu là không gian tâm<br />
tưởng nhưng tính chân thực trong câu thơ là xác đáng, khung cảnh vẫn có thực.<br />
Âm điệu được mô tả thinh u, êm ái đến như vô thanh. Nhà thơ đã nghe âm thanh<br />
của tạo vật bằng trái tim của mình : Chim đi lá rụng, cành nghe lạnh lùng. Ở đây,<br />
khó mà tìm một âm thanh nhỏ, kể cả tiếng “vèo” nhẹ nhàng, khẽ khàng như chiếc<br />
lá bay “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” của Nguyễn Khuyến hay tiếng “vèo” đi<br />
nhanh của từng chiếc lá rụng “Vèo trông lá rụng ngoài sân” của Tản Đà, ...<br />
Mạch thơ vẫn tiếp diễn theo nguyên lý song hành qua bốn câu thơ cuối :<br />
Sầu thu lên vút song song >< Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia<br />
Khi ngoại cảnh tác động đến nội tâm, hồn thơ của Huy Cận càng bộc lộ thấm<br />
thía nỗi buồn bã, cô đơn của con người. Cảnh và người như hoà quyện qua cụm từ<br />
đối xứng, láy đi láy lại, hết sức dạt dào và da diết :<br />
Sầu thu lên vút song song,<br />
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.<br />
Sự tăng cấp của nỗi buồn lan tỏa theo không gian và dằng dặc theo thời gian.<br />
Trong mắt nhà thơ dãy núi xanh xa xa cũng đắm say trước phong cảnh buồn và<br />
đẹp của chiều thu. Đặc biệt, từ “ngây” trong hai câu thơ cuối của bài thơ có hấp<br />
lực tạo nên khung cảnh đầy cảm xúc ngất ngây, cộng hưởng của tạo vật trước cảnh<br />
sắc, trước cái đẹp hoang sơ, thuần khiết của trời và đất, của một chiều thu<br />
muộn, …<br />
<br />
<br />
107<br />
Taïp chí KHOA HOÏC ÑHSP TP.HCM Soá 9 naêm 2006<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Non xanh ngây cả buồn chiều<br />
Từ “ngây” đặc sắc như thi nhãn của toàn bộ bài thơ. Đằng sau sự mô tả<br />
này, nhà thơ còn gửi gắm một mạch nguồn cảm xúc về nỗi sầu đời khá thâm trầm<br />
và hé lộ tính chất triết lí về nhân sinh, về vũ trụ của một hồn thơ mang âm điệu<br />
hồn thơ Đường. Từ trên cao nhìn xuống – trong mắt nhà thơ – cõi nhân gian phía<br />
dưới tưởng như bị đắm chìm trong sương mù chiều thu mịt mờ … Nỗi buồn như<br />
nhoà đi, hoà tan trong cái đẹp hoang sơ. Còn cái đẹp cũng muốn vùi đi vì nỗi<br />
buồn mênh mông và chịu một sức tác động vô hình mạnh mẽ qua cảm giác lặng<br />
im, buồn bã. Nhịp điệu 2/2/2/2 của câu thơ lơi dần và rơi xuống :<br />
Nhân gian\<br />
e cũng\<br />
tiêu điều\<br />
dưới kia …<br />
Như độ nén cuối cùng, từ “tiêu điều” đã bật ra, bộc lộ cảm xúc sầu thu tột<br />
cùng và sự rung động tuyệt vời của nhà thơ trước cảnh sắc tiêu tao – một không<br />
gian thu rừng tinh khôi, riêng một góc trời trong cõi người ta …<br />
3. Trong thơ ca Việt Nam, mùa thu vừa là cảm hứng vừa là đề tài sáng tác của<br />
nhiều nhà thơ. Nguyễn Du nhiều lần mô tả mùa thu trong thơ Kiều ; Nguyễn<br />
Khuyến có ba bài Thu ẩm, Thu vịnh, Thu điếu. Các nhà thơ sau này như Tản<br />
Đà, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, … đều để lại dấu ấn với những bài<br />
thơ về mùa thu. Điều đáng nói ở đây, trong cách thể hiện nghệ thuật, các nhà thơ<br />
xưa nay vẫn mô tả thế giới từ ngoại cảnh đến nội tâm đều theo xu hướng<br />
“lên cao” (đăng cao), “trông lên”, theo một cấu trúc đi lên không gian vũ trụ<br />
cao rộng, hoặc xoay quanh không gian thực tại cuộc sống hay cả không gian tâm<br />
tưởng theo luật phối cảnh “xa, gần” của hội họa : Trời cao xanh ngắt. Ô kìa/Hai<br />
con hạc trắng bay về Bồng lai (Tiếng sáo thiên thai – Thế Lữ) ; Hôm nay trời<br />
nhẹ lên cao/Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn (Chiều – Xuân Diệu) ;<br />
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài (Nhớ hờ – Huy Cận), …<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
108<br />
Taïp chí KHOA HOÏC ÑHSP TP.HCM Nguyeãn Thị Kim ÖÛng<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Ba bài thơ cảm tác về mùa thu của Nguyễn Khuyến, bao trùm lên tất cả vẫn là<br />
không gian mùa thu của một vùng nông thôn Bắc Bộ (ao xanh, ngõ trúc,<br />
gian nhà, ...). Trong những bức tranh đồng quê của Nguyễn Khuyến, không gian<br />
bầu trời từ dưới trông lên, luôn được nhà thơ chú trọng. Đề cập ba lần trong ba thời<br />
khắc khác nhau, nhưng không gian bầu trời bao giờ cũng là không gian tĩnh ; sắc<br />
xanh trong veo bao giờ cũng được giữ làm “gam” màu chủ đạo : Trời thu xanh<br />
ngắt mấy tầng cao (Thu vịnh), Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt (Thu điếu), Da<br />
trời ai nhuộm mà xanh ngắt (Thu ẩm). Ra đời sau nhà thơ Nguyễn Khuyến không<br />
lâu nhưng không gian mùa thu trong thơ Tản Đà đã thay đổi với những diễn biến<br />
của cuộc sống luôn đổi thay nơi không gian phố thị : Trận gió thu phong rụng lá<br />
vàng/Lá bay hàng xóm lá bay sang/Vàng bay mấy lá năm già nữa/Hờ hững ai xui<br />
thiếp phụ chàng/Trận gió thu sang rụng lá hồng/Lá bay tường bắc lá sang<br />
đông/Hồng bay mấy lá năm hồ hết/Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không (Gió thu). Còn<br />
Xuân Diệu, nhà thơ được mệnh danh là người sớm tiếp nhận khuynh hướng tân kì<br />
văn chương phương Tây trong sáng tác nhưng tính chất thơ cổ điển vẫn không bứt<br />
lìa trong không gian mùa thu. Cho nên, cũng trong cảm xúc về khung cảnh chớm<br />
thu không gian mùa thu trong bài Đây mùa thu tới vừa phảng phất hình ảnh ước lệ<br />
cổ điển còn sót lại, theo góc nhìn của phương Đông : Rặng liễu đìu hiu đứng chịu<br />
tang/Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng …, vừa nhen nhóm những cảm nhận<br />
cuộc sống hàng ngày theo một góc nhìn và cách sử dùng ngôn ngữ có vẻ “Tây<br />
hoá” khi mô tả không gian vườn cây : Hơn một loài hoa đã rụng cành/Trong vườn<br />
sắc đỏ rũa màu xanh … Nhưng, nhìn chung, cấu trúc các mảng không gian trong<br />
thơ Xuân Diệu là sự kết hợp ở cả không gian lên cao của trời thu, của tiết thu nhưng<br />
không tách rời không gian cuộc sống gần gũi của đời thường : Thỉnh thoảng nàng<br />
trăng tự ngẩn ngơ/Non xa khởi sự nhạt sương mờ …/Ít nhiều thiếu nữ buồn không<br />
nói/Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.<br />
Riêng Huy Cận, nhà thơ cảm nhận, mô tả không gian mùa thu theo góc nhìn<br />
rất lạ của ông. Đó là góc nhìn của một nhà thơ có thời thơ ấu sống ở miền quê sơn<br />
dã, có một tuổi thơ nhiều kỉ niệm sâu sắc. Tâm hồn giàu cảm xúc, biết quan sát, lưu<br />
giữ cảnh vật xung quanh mình một cách tinh tế. Nhiều ấn tượng từ thời trẻ thơ vẫn<br />
in đậm trong kí ức để sau này có thể tạo cho chất thơ nhiều ý tưởng phong phú.<br />
Bài thơ có cấu trúc mới khi nhà thơ miêu tả khung cảnh từ trên cao chuyển động dần<br />
<br />
<br />
109<br />
Taïp chí KHOA HOÏC ÑHSP TP.HCM Soá 9 naêm 2006<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
xuống thấp, từ chi tiết đến khái quát, cuối cùng là xuất hiện cảnh toàn bao la như<br />
cách mô tả không gian của thủ pháp điện ảnh hiện đại. Rõ ràng, góc không gian của<br />
Huy Cận trong Thu rừng là cách nhìn từ vùng cao, từ mây giăng xuống lũng thấp ;<br />
từ nai cao gót xuống rừng nhìn thu ; từ rừng cao nhìn bóng mây trôi nhạt dưới khe ;<br />
từ non xa nhìn xuống nhân gian tiêu điều phía dưới, … Với cấu trúc từ cao xuống<br />
thấp, Huy Cận đã một lần mô tả tương tự Anh khắp rừng cao xuống lũng sâu/Tìm<br />
em, đi hái lộc xanh đầu … (Hồn xuân)…<br />
Góc nhìn lạ trong Hồn xuân, một lần nữa đã được lặp lại và xây dựng hoàn<br />
chỉnh trong cấu trúc không gian Thu rừng. Đó cũng là sự khám phá của nhà thơ<br />
Huy Cận về không gian vũ trụ với nét đặc sắc mới, độc đáo, lạ hẳn trong thơ ca ;<br />
góp phần làm phong phú thêm tiến trình hiện đại hoá thơ ca Việt Nam thế kỉ XX.<br />
<br />
<br />
Tài liệu tham khảo<br />
[1]. Huy Cận (1967), Lửa thiêng, tái bản miền Nam, Hoa Tiên phát hành, Sài Gòn.<br />
<br />
[2]. Xuân Diệu (2001), Tuyển tập 1, NXB Văn học, Hà Nội.<br />
<br />
[3]. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, NXB Văn học và<br />
Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.<br />
[4]. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.<br />
<br />
[5]. Nguyễn Phan (1974), Tình yêu lãng mạn trong đời và thơ Lưu Trọng Lư, Tạp<br />
chí Văn học, số 10-1974, Sài Gòn.<br />
[6]. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập 1,2, NXB Giáo dục, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
110<br />