intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

50 NĂM THỰC NGHIỆM VỀ GIÁO DỤC Ý CHÍ

Chia sẻ: Nguyenquoc Loc | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

178
lượt xem
51
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nếu để trả lời: Học với mục đích làm thuê, viết mướn, làm trâu làm ngựa, thì câu hỏi này bất thành vấn đề. Trái lại, những ai thực hành đúng theo tinh thần Ohsawa lại có một mục đích cao cả: Học để làm người. Nhân đấy vấn đề giáo dục thành hình. Giáo dục theo phương pháp Ohsawa là một nền giáo dục tự nhiên, chẳng cần học hiệu nào, chẳng cần một đại học đường nào, một nền giáo dục không những cần có sau khi sinh ra đời, mà còn chú trọng từ lúc đang nằm trong thai...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: 50 NĂM THỰC NGHIỆM VỀ GIÁO DỤC Ý CHÍ

  1. 50 NĂM THỰC NGHIỆM VỀ GIÁO DỤC Ý CHÍ (“ISHI” KYOIKY GỌU NEN NO JIKKRN HOKOKU) SAKURAZAWA NYOICHI (OHSAWA) A.M Ngô Thành Nhân dịch MỤC LỤC Lời nhà xuất bản Lời người dịch Lời nói đầu Chương I: Căn bản của tất thảy nền giáo dục: Giáo dục ý chí. Chương II: Giáo dục ý chí. Chương III: Nền giáo dục trong thế giới văn minh. Chương IV: Một thế giới mới: Thế giới hoà bình nhờ giáo dục sáng tạo Món ăn đúng phép của các dựng phụ (Phụ nữ có thai) Chương V: Trật tự vũ trụ Chương VI: Kết luận ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­         LỜI NHÀ XUẤT BẢN HỌC ĐỂ LÀM GÌ? Nếu để trả lời: Học với mục đích làm thuê, viết mướn, làm trâu làm ngựa, thì câu hỏi này bất thành vấn đề. Trái lại, những ai thực hành đúng theo tinh thần Ohsawa lại có một mục đích cao cả: Học để làm người.  Nhân đấy vấn đề giáo dục thành hình. Giáo dục theo phương pháp Ohsawa là một nền giáo dục tự nhiên, chẳng cần học hiệu nào, chẳng cần một  đại học đường nào, một nền giáo dục không những cần có sau khi sinh ra đời, mà còn chú trọng từ lúc đang  nằm trong thai mẹ nữa.
  2. Quyển “50 năm thực nghiệm và giáo dục ý chí” này là một la bàn cho những ai muốn tạo một đời sống tự do  vô biên, hạnh phúc vĩnh cửu, công bình tuyệt đối, không những cho mình mà cho các thế hệ mai sau. Quyển sách này là quyển thứ 9 về phương pháp Ohsawa, chúng tôi được hân hạnh xuất bản trong 8 năm  nay. Một điều nên chú ý, quyển sách này được xuất bản, chính là do chỗ khuyến khích của nhiều người về cả vật  chất lẫn tinh thần – đông tay vỗ nên kêu, nhờ đấy những sách của Ohsawa tiên sinh sẽ được lần lượt xuất  bản. LỜI NGƯỜI DỊCH Nghiên cứu về phương pháp Ohsawa, chúng ta thấy Ohsawa tiên sinhh rất phản đối lối học của nhà trường,  cho đó là lối học gò bó bộ não con người, không cho phát triển theo thiên nhiên. Vì thế kẻ học nhà trường  chỉ thành ra bộ máy nói, và cách giáo dục ấy chỉ đúc ra một loạt người nô lệ, chẳng ích gì cho hạnh phúc xã  hội. Tiên sinh nhận thấy rằng sau một thời gian ở nhà trường, người ta ra đời chỉ chăm lo đến làm thuê viết  mướn để kiếm ăn, dành dụm tiền bạc, rồi về già, xây một cảnh nhà chun đụt, thế là mãn nguyện, ngoài ra  không gì nữa. Đại đa số đều thế. Thoát ra ngoài khuôn khổ ấy, tiên sinh là người chẳng tốt nghiệp một  trường học nào, mọi việc đều tự học lấy. Quyển “50 năm thực nghiệm về giáo dục ý chí” này của tiên sinh viết bằng Nhật văn lúc 74 tuổi, chứng tỏ  cách giáo dục hiện đại không những vô ích mà còn có hại nữa. Đây là một cái khuôn vàng cho những ai  muốn học làm con người. Chúng tôi xin dịch để cống hiến cho bạn đọc. A.M Ngô Thành Nhân. LỜI NÓI ĐẦU[/size] Một nền giáo dục hiện đại của phương Tây chỉ là nền giáo dục về kỹ thuật, chức nghiệp, kiếm ăn. Trí phán  đoán của họ chỉ quanh ở giai đoạn 2. Mục đích của nền giáo dục là chinh phục tự nhiên. Từ đầu thế kỷ 19, nền giáo dục của Tây phương đã cho rằng khoa học là điều kiện tối cao của người. Cái mộng tưởng duy nhất của khoa học là làm thế nào đến một ngày sẽ quét sạch cảnh nghèo khổ là cảnh  tai ương ghê gớm nhất ở mặt địa cầu này. Trái lại trước đây 5000 năm, nền giáo dục của Đông phương dạy phải đùa bỡn với cảnh nghèo khổ, xem đấy  là cảnh thanh bạch, thánh trí. Lại còn dạy cho rằng, mỗi khi gặp cảnh khó khăn và đau khổ, phải đem lòng  biết ơn, cho đấy là kẻ dìu dắt mình, vì thế bảo rằng chỉ cần một túp lều đủ che mưa gió là xong, chỉ một vài  vốc cơm rau cho đỡ đói là đủ.
  3. Nền giáo dục của Đông phương còn dạy phải xem cảnh nóng lạnh là bậc nhất mài dũa cho mình thành ra  cứng cỏi, chứ chẳng bao giờ xem cảnh ấy là địch thù. Nền giáo dục ấy bảo không nên giết hại loài vật. Nền  giáo dục Cực đông còn dạy cho chúng ta mỗi khi gặp phải hoàn cảnh nào trái nghịch cũng chịu đựng được  tất thảy, có lòng bao dung, đối đãi cới mọi người cho có vẻ âu yếm, còn đối với bản thân mình phải nghiêm  khắc, phải kính trọng kẻ khác, thương yêu đùm bọc họ, vì rằng mình sống trong đời này, vật gì cũng được  tạo hoá ban không cho một cách vô tận. Người ta phải vui lòng hy sinh cả đời mình để tìm cho ra chân lý,  nghĩa là tìm cho ra một nguyên tắc vạn hữu, hàng ngày đem ra thực hành, nghĩ là tìm cho được chữ Hoà,  Kính, Thanh tịnh thực hành phương pháp ăn ưống đúng phép (chính thực). Nền giáo dục của Cực đông rõ là nền giáo dục sâu sắc về tinh thần, thuận theo cảnh tự nhiên mà đạt tới chỗ  cao cả của trí phán đoán. Thế nhưng ngày sau những nhà chuyên học về lý luận và kiếm ăn, tô vẽ ra một  nền giáo dục “đem hạt giống gieo thành mộng, nở hoa sinh quả gấp đi” (Tane ya me ni Sugu hana ya mi to  naru wo oshieru) vì thế nền giáo dục ngày xưa bị truỵ lạc. Nền giáo dục ấy chỉ hun đúc ra một dân tộc người  máy “trung nhân ái quốc” phục tùng, mô phỏng, chẳng có gì là bộ não độc lập. Cái lối giáo dục nô lệ ấy,  khiến cho các lớp bé thơ mầm non yếu ớt noi theo làm lý tưởng và thực hành theo các bậc thánh hiền là việc  dầu cho kẻ thánh nhân cũng chẳng làm nổi. Chính vì thế, dân tộc Đông phương trong khi vừa thấy thoáng qua được tia sáng của nền văn minh xán lạn  của Tây phương và nền văn minh khoa học lọt vào, liền đón rước lấy thành ra hàng nô lệ, bắt chước theo  một cách mù quáng, hoá thành kẻ trung tín của nền văn minh ấy, vật chất cũng như tinh thần đều bị lôi cuốn  tất thảy đi theo. Nhân đó mà dân tộc của quốc gia say mê nền văn minh ấy trở thành một dân tộc bị chinh  phục. Nước Nhật từ một trăm năm nay chính vì hớn hở đón rước nền giáo dục của Tây phương, dốc tiềm lực để Âu  hoá thành phải gây ra một kết quả tai hại vô tiền trong lịch sử của loài người là cuộc thảm bại năm 1945! Ở  trong trường của Âu Mỹ đúc ra, vì thế ngày nay ta thấy trong nước Nhật diễn ra vô số tội phạm, sinh ra vô số  bệnh tật về tinh thần, bệnh biến ứng, các bệnh về tâm trạng, tinh thần bạc nhược, thân thể chướng ngại, ung  thư, có những đứa bé ngu si vô dụng.. Tổng chi nền giáo dục của Tây phương cũng như của Đông phương đã làm cho quả địa cầu này thành một  chiếc phi cơ hình tròn trong đó chở ba tỷ người, bay vùn vụt qua 10.000 cây số một giờ rúc xuống vực khốn  khổ, nô lệ giặc giã, bệnh tật, rên xiết, bất an. Trước những cảnh ấy không ai có thể để như thế mà nhìn một cách thản nhiên, thành ra phải có một nền  giáo dục mới về sinh lý học và sinh vật học thay thế. CHƯƠNG I: CƠ BẢN CỦA TẤT THẢY NỀN GIÁO DỤC: GIÁO DỤC Ý CHÍ Năm 17 tuổi tôi mắc phải bệnh lao nặng, bị y học Thái tây ruồng bỏ, nhưng nhờ phương pháp trường sinh là  phương pháp cũ kỹ ngày xưa cách đây 5000 năm cứu thoát. Từ ngày 20 tuổi đến nay (74 tuổi) trong thời  gian 54 năm, tôi vô cùng sung sướng, vì thế đem phương pháp này truyền bá ra khắp thế giới. Đây là một  nền giáo dục tự tôi sáng tạo, mà cũng là nền giáo dục cho đại chúng.
  4. Nền y học Cực đông hoàn thành từ 5.000 năm trước, chẳng những không phải là một phương pháp đối  chứng trị liệu, mà còn là một phương pháp trị căn bản hoàn toàn tự nhiên. Vì thế nền y học này cũng là một  phương pháp dưỡng sinh, bất lão trường thọ, diên mệnh tức hại, xử thế, chẳng bao giờ chú ý đến việc trị về  triệu chứng mà là một phương pháp giáo dục nhằm mục đích mở mang trí phán đoán bị che bịt của con  người, một cơ sở tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Bởi vậy phương pháp trường sinh, chỉ là một phương  pháp tu dưỡng đúng phép. Phương pháp giáo dục này trong 3 thần sắc lớn của Nhật bản có nói tới, cũng  như Hán phương nguyên điển, trong ấn độ pháp điển (manu) trong A­Du Vệ Đà Pháp điển và trong Phật  giáo và Thiền đạo, trong tất cả cách ăn uống của các đại tôn giáo. Năm tôn giáo lớn của loài người đều phát xuất từ Đông phương thảy đều làm căn bản cho nhân loại tìm thấy  hạnh phúc, gây dựng hoà bình, là điều kiện căn bản tập đại thành của nhất nguyên luận, lý luận và thực  hành thành ra một. Vì thế nền giáo dục này gồm cả phương pháp làm cho khang kiện, phương pháp sinh lý  học, y học, bệnh lý học. Nhưng trải mấy nghìn năm nền giáo dục này bị suy nhược mờ ám rồi mất tích trong  khi du nhập nền văn minh tân tiến nhị nguyên luận, duy vật luận, nguyên tử luận, kỹ thuật thành ra bao  nhiêu trí phán đoán đều bị cảnh chói chang ảo ảnh phía bên ngoài quyến rũ. Vấn đề cốt yếu nhất của con người là làm thế nào cho sức khoẻ được hoàn toàn. Vì thế cần phải chú trọng  nhất về phương pháp giáo dục sức khoẻ, vệ sinh, dưỡng sinh. Trong thế giới tất thảy các loài sinh vật đều  biết cáh kiểm soát sức khoẻ của mình, chỉ trừ loài người là chẳng biết như thế. Y học Thái tây chỉ một mực  chú trọng về mặt trừ khử triệu chứng, chẳng bao giờ tìm tòi đến nguyên nhân, chẳng để tâm đến việc xác lập  căn bản của sinh mệnh học, do đó mà có chỗ đặc thù tầm thường là thành ra một nền y học kỹ thuật kiếm  ăn (độ thế), hoàn toàn mất hẳn phương diện giáo dục tinh thần. Chính vì thế mà y học hiện đại chỉ quanh  quẩn trong một ngõ bí, mặc dầu phương tiện kỹ thuật của y học ấy vẫn tiến bộ một cách kỳ dị, bảo rằng y  học hiện đại là vạn năng, thế thì tại sao y học hiệp hội (A.M.A. kẻ độc tài của Hoa kỳ, đến tổng thống  Kennedy cũng không kiểm soát nổi) cũng phải bó tay đầu hàng trước 4 chứng bệnh về tâm tạng, biến ứng  tính, tinh thần, ung thư là những chứng bệnh đã giết chết 70,80% dân chúng Hoa Kỳ. Sự thật thì càng tồi tệ hơn thế nữa, vì không những các y sĩ đều bất lực không thể chữa lành được 4 chứng  bệnh ấy, mà họ chỉ làm cho cảnh chết của những kẻ rên xiết về những chứng bệnh phổ thông kéo dài ngày  tháng, vì họ chẳng bao giờ chữa được bệnh cảm mạo thông thường cũng như bệnh cốt thống, đái đường,  ghẻ chốc, hoặc bất kỳ bệnh kinh niên nào khác. Claude Bernard nói: “Y học chân chính chưa hề có”, hoặc  Bergson đã nhìn nhận: “chỗ khiếm khuyết nhất của khoa học là hoàn toàn không biết gì đến sinh mạng”.  Cũng như chính bác sĩ Ailendy tuyên bố: “Pasteur đã được cảnh vinh quang bao trùm hơn cả Napoleon,  nhưng sự thật Pasteur dã làm cho nhân loại hoá ra yếu hèn (nhược thế hoá), phá hoại tan tành cơ cấu đào  thải và đã mạt sát cảnh vinh quang của y học nước Pháp cũng như cảnh vinh quang của lịch sử nước Pháp”. Nền giáo dục của Cực Đông trước nhất là con đường “tu thân”, trọn đời mình tu dưỡng đúng theo sinh vật  học, sinh lý học, tự tập, độc hành. Y học và giáo dục chẳng bao giờ phân tách ra hai đường khác nhau: Tu  dưỡng và tự chứng chỉ gồm vào một gốc. Chính nhờ cái chết của 3 thân thuộc trong gia đình tôi lúc tôi mới 10 tuổi, tôi cố công quyết chí tìm cho ra  nguyên nhân của nỗi thống khổ bất hợp lý ấy, thì nay đã tìm được. Ai ngờ trong khi tôi bắt đầu truyền bá  phương pháp thực tiễn này, tức khắc một vấn đề đại quan trọng thứ nhì phát sinh ra: Ý chí!
  5. Mã Khắc Tư (Marx) phát kiến rằng tất cả tật xấu của xã hội đều do phương pháp phân phối bất quân; Ông ta  muốn có một nền giáo dục mới, tổ chức ra một xã hội chính đáng, nền dùng đến con đường cách mạng. Sau  khi Marx qua đời vừa được 60 năm, chủ nghĩa của ông đã được lan tràn khắp thế giới, nhưng thật ra cảnh  thống khổ của xã hội chẳng gì là cải thiện, trái lại càng ngày càng thêm thống khổ mãi, càng ngày càng diễn  ra cảnh tượng khủng khiếp, toàn thể nhân loại đều run rẩy, sợ sệt, sống trong cảnh bất an và lo âu về nỗi  chiến tranh ngày mai. Những sức khoẻ, tự do hoà bình của cá nhân vẫn bị uy hiếp mãi. Các bệnh viện trở  thành những trung tâm chỉ đạo sinh hoạt cho các đô thị cũng như các tu viện và các học hiệu Cơ đốc giáo  ngày xưa, y học và các cơ quan về y học càng phát triển chừng nào, sự thống khổ và bệnh tật càng thấy gia  tăng chừng ấy, cảnh sát lực càng mạnh thì hạng phạm nhân hung ác càng nhiều. Như thế theo học thuyết  của Marx dầu làm cho cơ cấu của xã hội thay đổi, học thuyết ấy cũng đã quên lãng đường tinh thần của con  người nhất là quên lãng thế giới quan và ý chí của nó, nghĩa là bỏ quên tất cả những gì thiết yếu. Nếu thực hiện cảnh sinh hoạt theo đường chính trực, tất cả bệnh nan trị đều có thể tẩy trừ được hết, tất cả  nỗi bất an đều bỗng nhiên tuyệt tích. Bốn cảnh khổ về sinh lý học, sinh vật học, theo như Phật giáo nói (sinh  lão bệnh tử) đều giải quyết được, các thanh niên đều vui vẻ theo đòi học tập, các tráng niên đều nên sự  nghiệp, càng ngày càng thấy hạnh phúc, gia đình được sáng tươi, nhân sinh được thích thú. Cứ thế mà tiến  tới sẽ chóng thực hiện được thiên hạ an ninh, thế giới hoà bình. Nhưng nỗi khổ vì đa số người, nhất là những  bệnh nhân không có đủ ý chí, đến nỗi chỉ muốn rước đầy bệnh hoạn và cảnh nghèo khổ, nhân đấy mà họ  phải dấn thân vào tội ác. Bởi vậy cần thực hành việc giáo dục ý chí trước khi nói đến việc cải tạo xã hội.  Nhưng sau khi hoàn thành cuộc cách mạng rồi, nếu người ta bỏ lơ việc giáo dục ý chí, thế là đi tới một kết  quả: đúc ra một số người kiếm ăn, một số người máy, một số thờ ơ lãnh đạm, hạng người sinh sống một  cách mù quáng. Do đó bộ não sáng tạo sẽ thay vào bộ não mô phỏng, vì rằng những kẻ sáng tạo lấy mình,  tự mình sáng tạo lấy vận mạng của mình quá ít ỏi. Cơ sở của nền giáo dục là: 1.Tự kiểm soát lấy sức khoẻ của mình. 2.Xác lập ý chí. Muốn giải quyết điều kiện thứ nhất trên này, cần phải theo phương pháp ăn uống đúng phép (chính thực).  Đến giải quyết điều kiện thứ nhì, cần phải làm cho ý chí được cường tráng, nhưng làm cách nào? Đấy chính  là một đại vấn đề.      CHƯƠNG II. GIÁO DỤC Ý CHÍ *Muốn thì được (Vouloir cest pouvoir) ­ Ngạn ngữ phương Tây. *Trong tâm tư luôn luôn nghĩ tới điều thiện tất thành ra thánh hiền (Koku omerba hiziri to naru) ­ Ngạn ngữ  Trung quốc. Ngày xưa, các danh nhân, các nhà tự do, các bậc thánh hiền đều chú trọng hô hào chỗ quan yếu của ý chí.  Chẳng một ai phủ nhận chỗ ấy. Mọi người đều đồng thanh nhận là chân chính. Tuy vậy nhiều kẻ lại thật bại  trong cuộc sinh hoạt thực tế hàng ngày, họ nỗ lực cố công trọn đời hành động theo đường chính trực, đem ý  chi cương cường ra theo đuổi, vì thế có kẻ thành công, nhưng đa số lại kết thúc cuộc đời họ bằng cảnh bi  thảm, vì gặp phải nghịch cảnh khốn cùng, rốt cuộc chẳng khác gì hoa quỳnh một chốc, chỉ là uổng công. Như thế vì sao? Phải chăng trong ý chí vẫn có nhiều chủng loại và nhiều giai đoạn? Ý chí là gì? Ngoài ý chí 
  6. ra, còn có điều kiện gì khác có thể thay đổi vận mạng mình được chăng? Đối với vấn đề này, khoa học vẫn ngậm thinh, im tiếng chẳng thấy đả động gì đến. Như thế cũng là thường  tình, vì quan niệm học vấn của phương Tây hay là quan niệm kỹ thuật chỉ chuyên vào mục đích nghiên cứu  tìm tòi về thế giới tương đối, hữu hạn, biến chuyển vô thường của hình nhi hạ học, nói tóm lại là tìm tòi về vật  chất giới. Tôi thì giải đáp vấn đề ấy chỉ nghiên cứu tới nền học vấn Đông phương tức là nghiên cứu về chỗ  tuyệt đối, vĩnh viễn, hữu thường, chỗ bất biến của hình nhi thượng học (tức tinh thần giới). Giải đáp như sau  này: 1. Ý chí là hình thức tiến hoá của trí phán đoán. 2. Trí phán đoán có 7 giai đoạn: 1­ Mù quáng tức máy móc 2­ Cảm giác 3­ Cảm tình 4­ Trí tính 5­ Xã hội 6­ Tư tưởng 7­ Sức phán đoán tối cao. * Ý chí cũng có 7 giai đoạn: 1­ Cơ ngạ đạo 2­ Súc sinh đạo 3­ Tín 4­ Trí 5­ Lễ 6­ Nghĩa 7­ Nhân * Bảy giai đoạn của trí phán đoán và ý chí tức là quá trình sinh trưởng tự nhiên của sinh mệnh: Hạt giống, cái mộng, thân cây, nhành cây, lá, hoa, hạt, trái. Nghĩa là trí phán đoán hoặc ý chí tức là chính bản thân của sinh mệnh (từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 6 chỉ có  giá trị trong thế giới hữu hạn, tương đối, chỉ duy giai đoạn thứ 7 mới có giá trị trong thế giới tuyệt đối, cho nên  cũng có giá trị trong thế giới hữu hạn) * Tự nhiên sinh trưởng hay là sinh mệnh lực tức là nguyên lý sinh thành phát triển của vũ trụ vạn hữu. * Sinh mệnh lực phát triển được là nhờ sự giao hỗ cảm của hai nguyên lý Âm Dương: tối sáng, ướt khô, cầu  tâm lực, ly tâm lực, khổ sướng, co rút, giãn ra... * Sứ mệnh tối cao của giáo dục là làm cho sáng tỏ bộ mặt thật của bản lai sinh mệnh theo chỗ đạt qua,  nghĩa là ý chí (sức bột phát vô hạn). Người đã có một ý chí cường liệt vô tỷ và một sức khoẻ tuyệt đối tức là 
  7. “Không làm mà thành”, “Không nói mà thuyết phục”, “Chỉ núi, núi rời đi”, “Không đánh mà thắng”, “Chịu bại  để mà thắng”, “Lấy nhu chế cường”, “Bất khả năng thành khả năng”, “Khốn khổ thành vui sướng”. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC VỀ Ý CHÍ. Ý chí bao giờ cũng phát triển một cách tự nhiên và tự do theo 7 giai đoạn. Vì thế, lấy sự giáo dục nhân tạo ra  mặt ngoài áp dụng là vô ích. Loài thú chẳng bao giờ cắp sách tới trường thế mà chúng trưởng thành một  cách hoàn toàn. Chúng chẳng bao giờ như loài người phải bị đau khổ về bệnh tật, chẳng bao giờ tranh giành  nhau, chẳng bao giờ âu sầu ảo não, khốn khổ, chẳng bao giờ có áo đẹp và vật ăn sang trọng đắt tiền, chẳng  bao giờ đêm thân bán sức ra để lãnh lương, chẳng phạm tội ác, chẳng bao giờ có chiến tranh, trọn đời được  tự do và hoà bình. Đến loài thực vật, vi sinh vật cũng thảy như loài thú, cho đến một hạt giống nhở kia cũng  chẳng có một võ khí nào, chẳng có một sức mạnh nào, nó bị chôn vùi dưới đất tối tăm, bị chặn đè lên đủ thứ,  chịu bao nỗi lạnh lẽo, ẩm thấp, thế mà nó tự vươn mình lên, lại bị chà đạp, cày bừa, bị các thú vật hoặc sâu  bọ ăn phá, thé mà càng khốn khổ chừng nào, nó càng mọc mạnh lên chừng ấy. Xem đấy loài người có thể  sống tự do và hoà bình được như thường, nếu họ bắt chước theo cảnh của hạt giống. Trái lại nếu loài người  chỉ tìm thấy sự dễ dàng nhân tạo, nào tiện nghi, lạc thú, sự trợ giúp này khác, của cải dồi dào cầu an, thế là  sinh mệnh lực tự nhiên của mình phải hoá ra bạc nhược. Bởi vậy giáo dục tạo ra điều kiện và cơ hội cho thấu được bản lai khang kiện về sinh vật học tức là cho thấu  triệt được bản lai khang kiện về sinh vật học tức là dạy cho con đường nhắm theo một mục đích cao cả:  “Cảnh hoà”, chính con người đã phát kiến ra từ một triệu năm nay. Con đường này chỉ cần ăn uống cho  đúng phép, biết cách chế biến, biết cách nấu nướng, biết cách ăn. Nhân đấy người ta tự mình phát minh lấy  và kiềm chế được tát cả trí thức căn bản tất yếu cho xã hội sinh hoạt ucả con người, vì rằng quá trình sinh  trưởng của phán đoán lực tự nhiên mà có. Khốn thay, những kẻ không thụ hưởng được nền giáo dục ấy chỉ  là nạn nhân của luật tự nhiên đào thải, chung quy chỉ rước cái hiệu quả của thống khổ và gian truân của thế  gian, đồng thời lắm kẻ sinh ra chán nản thất vọng và ngày càng phạm vào mối tội lỗi thành ra kẻ nô lệ và  bệnh hoạn hàng khốn khổ nô lệ đều là gánh nặng cho xã hội văn minh và đấy là nguyên nhân của chiến  tranh. Truy ra trách nhiệm thì chính trí phán đoán đê hạ của các bậc phụ huynh và của các nhà giáo dục  phải chịu lấy. Tuy vậy tất cả những nỗi khó khăn và thống khổ ấy do trí phán đoán đê hạ sản sinh ra tức là  loại đá thử vàng (thí thạch kim) tối thiết cho những kẻ có một trí phán đoán tối cao, chính thường, vì rằng chỉ  duy những nỗi thống khổ của xã hội mới có thể chuyển hoá được trí phán đoán ra ý chí! Chương III. NỀN GIÁO DỤC TRONG THẾ GIỚI KHOA HỌC VĂN MINH Từ ngày tôi 20 tuổi trở đi cho đến 54 tuổi. Trong khoảng thời gian 20 năm ấy, tôi chú tâm vào việc quan sát  nền giáo dục của các nước Âu Mỹ, nhân đó nhận thấy rõ ràng nền giáo dục của các nước ấy chỉ chú trọng  độc nhất vào nền khoa học giáo dục làm then chốt. Đại bộ phận của nền giáo dục này chỉ là giáo dục về kỹ  thuật để đi về đường giáo dục kiếm ăn (độ thế giáo dục). Thế nghĩa là môt nền giáo dục hình nhi hạ học (vật  chất), chỉ là một nền giáo dục bán phần (1/2) nhất nguyên luận. Nguyên lai khoa học của Tây phương là nền học vấn chỉ nghiên cứu theo hệ thống hình nhi hạ học của các  nhà như Epicure và Democrite, quanh quẩn ở chỗ “thế giới mắt trông được”. Tuy vẫn có các hệ thống giáo  dục căn cứ vào triết lý, tôn giáo, luân lý, và tư tưởng hình nhi thượng học, nhưng thật ra đấy chỉ là loại phụ  tùng hình nhi hạ học của vương quốc. Trước thời kỳ Phục hưng (khoảng TK XV và XVI) nền giáo dục vốn là 
  8. lối tín ngưỡng, thần mật, mê tín, lối giáo dục ấy cho là không thực tế, bất hợp pháp, cho nên bị bỏ ra khỏi  nền giáo dục càng ngày càng phổ cập. Rồi đó nền giáo dục này chẳng bao giờ để ý tới chỗ hình nhi thượng  Tinh thần, Sinh mệnh, tự do, Hạnh phúc, Công bình, Ký ức, Phán đoán, Sức khoẻ, Mỹ thuật, nghệ thuật.  Những cái ấy có được thừa nhận chăng chỉ là giải thích theo phương diện kỹ thuật mà thôi. Bởi vậy nền giáo  dục hiện đại chịu bất lực trước một số thiếu niên thiếu nữ hư thân mất nết càng ngày càng đông và bất lực  trước bệnh ung thư là nguyên nhân của 30% học sinh các trường tiểu học ở Đông kinh bị chết vì bệnh ấy, lại  nữa bệnh đái đường đã lộ diện trong lớp học sinh mới độ 12 tuổi đầu! Nền giáo dục ấy còn chịu bó tay trước  những cuộc chiến loạn và tàn sát, và cả trước tình cảnh nước Mỹ hiện nay trong 10 người đã có 1 người đau  bệnh thần kinh ít nhất chăng mỗi người trong đời cũng một lần mắc phải. Dầu cho Bertrand Russel,  Schweizer, Toynbee, Giáo hoàng La Mã Sartre, hoặc nhà chính trị nào cũng chẳng một ai có một phưong  pháp nào để có thể trị tuyệt căn được nỗi phi đạo tham ngược không tiền trên lịch sử nhân loại. Những bài đầu của các báo chí trong nước văn minh, ngày chí tối đều bàn nói tới những tội ác, nỗi thống khổ  tai nạn, nhưng họ chỉ nói tới chỗ họ trong thấy ở một phần nhỏ xíu của tội ác và chỗ bất lực của nền giáo  dục hiện đại đấy thôi. Cái chứng hiển nhiên là tất thảy những cảnh ấy chẳng bao giờ thấy hoặc ít khi thấy  xảy ra ở những xứ không có cái gọi là nền giáo dục tràn tới. Nền văn minh và giáo dục càng phát triển chừng  nào, những bệnh nhân bất hạnh, những tội ác hung ác xảo càng nhiều thêm chừng ấy. Những khí giới tối tân  là những đại phát minh của khoa học càng làm cho cảnh đại ngược sát, đại phá hoại trong lịch sử không tiền  của nhân loại thêm dồi dào khả năng. Những đại ngược sát ở Auschwitz (Balan) và những quả bom nguyên  tử ở Hiroshima (Quảng đảo) Nagasaki (Trương kỳ), chẳng qua là mới mở màn đây thôi. Thế giới sử hiện đại bắt đầu khai màn chính từ ngày có Công ty Đông Ấn ra đời (Compagnie des Indes)  cùng những cuộc săn bắt hàng nô lệ tại Phi châu, và cuộc đổ bộ tại đảo Goa và Hương Cảng, rồi chiếm lãnh  lấy công cuộc phân chia và việc thực dân hoá các sắc dân (da màu) của người da trắng khiến cho cảnh  thiên quốc trên mặt địa cầu bỗng nhiên tiêu tan mất sạch. Cảnh thiên quốc ấy chính là những cảnh do các  nhà như Kipling Stevenson, hoặc những thuyền viên khởi loạn của chiếc Bounty đã khám phá ra đựơc.  Nghĩa là người Tây phương và những người “văn minh” đã gieo rắc cái mầm sát hại trong toàn cả thế giới,  đưa nhân loại vào cảnh cuối cùng mặc dầu họ vẫn tự hiểu rằng có thể thiết lập một thế giới mỹ lệ và hạnh  phúc gấp mấy kia... Đấy là thiệt tích rất rõ ràng của nền văn minh khoa học và nền giáo dục của nền văn  minh ấy ban bố ra. Nhưng cũng nên biết rằng trong số người phương Tay vẫn có rải rác đôi người có năng lực tự phê phán lấy  mình, nhìn thấy rõ cảnh tối tăm của nhân loại như thế nào, ví dụ như Schupengrae, E.Carpenter, A.Carrel...  đã bộc bạch tiên đoán màn bi kịch tương lai và cảnh chung cuộc của nền văn minh Tây phương và nền giáo  dục của nền văn minh ấy, nên đã lớn tiếng kêu gào trong các tác phẩm của họ như những quyển “La faillite  de la Science Occidentalen” (Chỗ mật lạc của khoa học Tây phương) “La Maladie momme’e civilization”  (con người cái chưa biết tới)...Gần đây nhất như W.Heither (hiện giám đốc Viện lý luận vật lý học Zurich)  cũng như Einstein, ông là người đã thoát khỏi ách độc tài Nazie chạy qua miền tự do trốn tránh, đã viết và  xuất bản quyển “con người và khoa học” (L’homme et la science) ông này dũng cảm chủ trương cần phải  phòng ngừa cảnh tối hậu của nhân loại là một đại bi kịch của lịch sử do khoa học và nền giáo dục hiện đại  gây ra, nên lớn tiếng “nền văn minh khoa học phát triển một cách kỳ dị, thì nay lại phải rơi vào vực tinh thần  tán loạn. Muốn cứu cái thảm hoạ không tiền trên mặt Địa cầu và phòng ngừa cho toàn nhân loại khỏi nỗi diệt  vong ngày mai, trước hết phải cứu vớt cảnh tinh thần tán loạn của nền văn minh và khoa học này. Nền văn  minh khoa học đã đi sai từ lúc bước đầu. Chỗ nghiên cứu của nền văn minh này chỉ nhắm vào mục đích  chiếm lãnh và độc tài trong thế giới hữu hinh, thế giới hình nhi hạ, vật chất, liệp tử...Người ta quên lửng rằng 
  9. vẫn có phần tinh thần vô biên và vũ trụ không gian bao quát, ngoài cái thế giới liệp tử hữu hạn và vô thường  này. Vậy cái quý nhất của nhân loại là cái thế giới không nhìn thấy được, thế giới của tinh thần. Ngay từ bây  giờ, chúng ta phải ngưng hẳn việc nghiên cứu về hình nhi hạ học, phải khởi sự dốc toàn lực vào việc nghiên  cứu về hình nhi thượng học, nghiên cứu về thế giới văn minh, tinh thần, trật tự vũ trụ vô hạn. Nếu không thế  thì không được.” Bây giờ xin đưa ra một phưong pháp cứu vớt toàn nhân loại, toàn thể nền văn minh và khoa học. Tuy nhiên  nghiên cứu về hình nhi thượng học, Tinh thần, ý chí, Chân lý, Trí phán đoán tối cao, Hạnh phúc và Chính  nghĩa, Hoà bình và tự do, Sinh mệnh vô hạn, đều do các nhà tự do của Đông phương tức là các bậc Thánh  hiền đã phát kiến cách đây 5 ngàn năm! Chính vì chỗ đó mà 5 tôn giáo lớn của nhân loại sản sinh. Nhưng  bây giờ các tôn giáo ấy đã thành quá cũ kỹ (cổ sắc thương niên). Chúng ta đã bỏ hẳn đi rồi, chỉ đưa ra một  thế giới theo lối ấn ban mới. Thế giới này chẳng có vẻ chi là hình nhi hạ học, cũng chẳng có vẻ gì là hình nhi  thượng học. Vậy cần phải có một phương pháp rất đơn giản, thực dụng làm cho tất thảy mọi người đều hiểu  được, cả người da trắng lẫn người da màu có thể áp dụng trong công cuộc sinh hoạt thực tế hàng ngày. Đấy chính là phương pháp giáo dục về sinh vật học, sinh lý học thực dụng. Khí cụ duy nhất của nền giáo  dục này là biện chứng thực dụng pháp, chỉ có Âm Dương là con số chưa biết cũng như X và Y của số học có  thể giải đáp được tất cả các vấn đề khó khăn, khiến cho đứa bé con cũng có thể xem qua trong một giờ đã  hiểu được. Trải qua 54 năm tôi đã nghiên cứu thực hành, và khắp thế giới đã có hàng vạn người thực hành. Nhờ chỗ  thực hành của tôi, tôi đã xác nhận môn biện chứng pháp thực dụng này có một danh từ khác nữa là: “Cặp  kính ma pháp” và các người da trắng của thế giới khoa học văn minh cũng đã có hàng mấy vạn người xác  nhận tín thực hành theo tôi. Bây giờ tôi đã qua 74 tuổi, tôi được tự do yên tâm nghỉ ngơi thong thả. Hàng  ngày tôi tiếp nhận biết bao nhiêu thư từ rất cảm kích tỏ lòng biết ơn, toàn là những thư từ của những người xa  lạ trong khắp thế giới... CHƯƠNG IV. MỘT THẾ GIỚI MỚI THẾ GIỚI HOÀ BÌNH NHỜ GIÁO DỤC  SÁNG TẠO Quyển thứ nhất của lịch sử nhân loại đến đây đã viết xong ­ Quyển lịch sử này bắt đầu kể từ ngày khai thỉ  của vũ trụ cho đến ngày chung cuộc của nền văn minh khoa học, kể có hàng mấy tỷ năm. Trang chót của quyển lịch sử ấy thật đúng như lời dự ngôn trong kinh sáng thế (Mặc thị lục) theo thứ tự của  vị Thiên thần báo tin. Thì bây giờ phải đến một thời kỳ của một thế giới mới khác. Chương thứ nhì, thứ  ba...thứ bảy,...phải mở ra. Một thế giới mới phải có một Sáng thế ký mới. Sáng thế ký tức là sáng sinh ký tức là sáng tạo lấy sinh mệnh. Loài người trong thời kỳ đệ nhất sáng thế ký phải ra sức thuận theo hoàn cảnh tự nhiên, tự tạo lấy một cảnh  sống tự do hoà bình hệt như laòi chim, cá, sâu bọ. Tuy vậy loài người có khác loài sinh vật khác là nhờ có  “bộ não suy tư”. Tại sao thế? Tại sao riêng loài người lại có bộ não suy tư? Thì cả một vấn đề quan trọng và  lý thú, nhưng tôi xin miễn nói ra ở đây. Nhờ có bộ não suy tư ấy, loài người mới ứng chiến với cảnh nghịch  khiêu khích tự nhiên theo hai đường lối tương thích ứng và phát triển. 
  10. Một mặt thì chinh phục cảnh tự nhiên. Thuận theo cảnh tự nhiên thì tỏ ra vẻ ngây thơ ngơ ngác trải qua bao cảnh thần bí, đến tận ngày phát kiến  ra được trật tự của vũ trụ, từ đấy dò dẫm mãi đến cảnh thế giới hoà bình, cảm bội ơn đức. Còn chinh phục  cảnh tự nhiên thì bắt đầu nảy sinh ra sợ hãi hơn là ngơ ngác ngây thơ, đi theo con đường phá hoại, chém  giết, chinh phục bằng bạo lực, gây ra thù oán. Đem đối chiếu 2 quá trình sinh trưởng của Đông phương (cảnh thứ nhất) và Tây phương (cảnh thứ nhì) rõ là  thú vị. Vì rằng cả hai phía đều trong giai đoạn trí phán đoán đê hạ, lẽ tất nhiên sinh ra nỗi dối trá ảo giác,  kiểu cách, lầm lẫn, thù oán, nhân thế mà Đông và Tây chia ra hai khu vực tương phản ghê gớm! Rốt cuộc đã đến ngày Đông và Tây lại gặp nhau. Tây phương nhắm vào mục đích đi chinh phục, nên dùng  bạo lực đến chinh phục Đông phương; còn Đông phương thì cho rằng thuận ứng là con đường cao quý. Các  nhà đi chinh phục từ đây vì tranh giành nhau nên xâu xé nhau chính vì miếng mồi ngon béo Đông phương.  Chính vì thế mà hiện nay cảnh màn chót của nỗi cùng khốn của nhân loại đã thành ra sự thật theo như Sáng  thế ký (mặc thị lục) đã dự đoán! Ngày nay đã đến lúc khởi sự tái thiết lại tất thảy. Lịch sử của nhân loại chính  ở hàng đầu, trang đầu của quyển thứ 2. Chúng ta phải tự tay tái thiết một thế giới mới. Phương pháp ấy tức là giáo dục. Nền giáo dục này tức là nền  giáo dục về sinh lý học và sinh vật học, trước tiên là sáng tạo ra sức khoẻ. Đấy là vũ đài của “ý chí” xuất đầu  lộ diện. “Một tinh thần kiện toàn (ý chí) chỉ có trong thân thể kiện toàn”. Nền giáo dục sáng tạo ra được một thế giới mới, thế giới tự do và hoà bình, trước nhất là do tự sáng tạo cho  con người được khang kiện. Chỗ đó tức là nền giáo dục được thuần tuý sinh vật học, thuần tuý sinh lý học.  Chỗ đó tức là phục chế và tái hiện quá trình tiến hoá của nhân loại theo sinh vật học và sinh lý học từ 3 tỷ  năm về trước. Trong thời kỳ mới thụ thai, noãn tử và tinh tử kết hợp với nhau trong vòng 280 ngày, sức  trưởng thành ước gần 3 tỷ lần (sau khi sinh thành đứa bé cho đến ngày 20 tuổi sức trưởng thành chỉ 20 lần).  Xem đấy trong 3 tỷ năm về sinh vật học ấy tức là chỗ quá trình trọng yếu của việc sáng tạo ra con người. Tôi  cho rằng chô tấn hoá của quá trình 3 tỷ năm trưởng thành ấy, tức là đơn vị sinh vật học của sự trưởng thành  tấn hoá của con người, tức một đời sống, một “năm sinh vật học”. “Anh ăn gì sẽ ra cái ấy” Brillat Savarin đã nói như thế. Trong khi tôi nghiên cứu để hiểu về tinh thần y học  cực đông và trải qua 54 năm tôi hoạt động truyền bá y học ấy, tôi càng ngày càng thâm tín hoàn toàn và xác  nhận tính chất chân thật của lời nói ấy và kết luận rằng: “Nếu ăn uống được đúng phép thì con người cũng  thành ra đúng đắn”. Thật ra tôi chưa có phương tiện để có thể biết được những thực phẩm đúng phép trên mặt Địa Cầu này trải  qua 3 tỷ năm trong quá trình tiến hoá như thế nào. Tuy vậy tựu trung những kẻ đã cùng tôi thực hành  phương pháp chính thực, đã kế tiếp nhau tự chữa được lành bệnh, khôi phục được sức khoẻ như được tái  sinh thật là một việc kỳ diệu. Họ đã sinh đẻ được những đứa bé xinh đẹp. Cho đến những người đàn bà lâu  nay không có thai nghén, nay cũng sinh được lắm đứa bé trai hoặc gái theo ý muốn. Việc sinh đẻ dồi dào  sức khoẻ, dễ nuôi, chẳng bao giờ mắc phải những chứng bệnh lặt vặt. Ai trông thấy mấy đứa bé ấy cũng  phải ngạc nhiên không ngờ. Chính chỗ ấy tôi đã tự phát kiến được nguyên lý thai sinh học, tức việc thai giáo  không một ai dạy bày cho cả.
  11. Xin dẫn đôi chứng thực: 1­ Vị mục sư ở trung tâm Tin lành trên bờ sông Ogou’e, cách bệnh viện của Schweizer 2 cây số trong miền  rừng núi Phi châu, ông Mayer và bà vợ có 3 đứa con gái nhỏ (5,3 và 1 tuổi). Cả 3 đều ốm lề rề khiến cho  cha mẹ chúng rất âu lo. Hai ông bà phải đến tận vị y sĩ cách đó hằng mấy trăm cây số ở trên bờ bể để chữa  thuốc. Món ăn thức uống chỉ ròng là đồ hộp chở từ bên Pháp đem sang. Tôi và nhà tôi đến ở nhà ấy trong  nhà ấy 3 tháng, cả 2 vợ chồng và 3 đứa bé đều lành tất cả bệnh. Thật không gì sung sướng bằng trông thấy  mấy đứa bé ngoan ngoãn bận y phục Nhật chạy rong chơi trong cảnh núi rừng. 2­ Cách đây không lâu có một vị du khách người Nhật đến ở trong một khách sạn tại cảnh làng của Đức, gần  Schwartzard, người ta đồn rằng trong làng ấy có một đứa bé con người Nhật. Y tọc mạch hỏi thăm và đến  tận nơi cho biết: ­ Đấy, đứa bé con Nhật đấy! ­ Vậy người Nhật cha sinh của em là ai? Hiện ở đâu? ­ Cha nó là Ohsawa, hiện nay đang ở Hoa kỳ. Mỗi năm ông ấy đi du lịch vòng quanh thế giới một lần. Đứa  bé này là con của tôi. Từ lâu tôi không sinh đẻ, nay sinh đẻ ra nó chính nhờ thực hành phương pháp chính  thực đúng theo sách của Ohsawa. Cháu đây chính nhờ ăn cơm mà sinh ra, con của Ohsawa đấy. Kìa ông  xem nó giống hệt người Nhật không? Vị du khách rất lấy làm ngạc nhiên. Theo như bà mẹ của em bé nói thì em này chẳng có cử chỉ gì là người  Đức, mà hoàn toàn giống người Cực Đông. Hiện tại Âu Châu và Hoa kỳ đã có trên 120 em bé kiểu này.  Những em bé Ohsawa, chính nhờ thực hành phương pháp chính thực mà có. Phần đông trong số em bé ấy  có tướng mạo giống người Đông phương, lại đôi đứa có vẻ hệt như người Nhật! Chính đây là cái chìa khoá đã giải quyết được chỗ bí mật của vấn đề di truyền và nhân tướng. Điểm chung đặc biệt của các em bé nhờ ở thực hành phương pháp chính thực sinh ra là sức khoẻ tuyệt đối,  thứ nữa là so với các anh chị khác của chúng thì chúng thông minh hơn nhiều. Vì thế Lima và tôi mỗi khi đi  đến nơi nào cũng được chúng xem như ông bà nội của chúng.      MÓN ĂN ĐÚNG PHÉP CỦA CÁC DỰNG PHỤ Thật không có gì thiết yếu cho đời sống của con người và xã hội cho bằng món ăn thức uống của bà mẹ  trong thời kỳ thai nghén. Thời kỳ ấy là thời kỳ thiết lập ra cơ sở trọn đời của con người. Thời kỳ ấy tức thời kỳ  phản phục của quá trình tiến hoá trong 3 tỷ năm rút ngắn lại! Thật không có gì có ảnh hưởng hơn đối với đời người cho bằng món ăn thức uống trong thời kỳ thai nghén! Như trên tức là căn bản giáo dục của con người trong thời kỳ thai nghén. Việc giáo dục về sinh lý học và sinh vật học trong thời kỳ thai nghén và thanh niên cũng rất quan trọng như  trong thời kỳ thai nghén vậy. Trong cỡ tuổi này nếu người ta cho ăn những thức ăn đúng phép, thế nào lớp  thanh niên và thiếu niên cũng giữ được đúng theo “7 điều kiện của sức khoẻ”. Và ai cũng đã giữ được một 
  12. cuộc đời hạnh phúc. Họ sẽ thành ra người độc lập, không nương dựa vào ai, tự học, tự lập lấy. Một người như  thế, thế nào cũng gây dựng được một gia đình lạc thú. Họ sẽ nỗ lực gây dựng được một xã hội hạnh phúc,  một quốc gia hạnh phúc. Nếu trong số 10 người có được 1 người như thế, tức trong 100.000 triệu người có  được 10 người như thế, xứ sở họ sẽ thành được một xứ sở tự do và hoà bình. Nếu trong thế giới có được 10  nước như thế, trên mặt địa cầu sẽ thấy rõ cảnh Hoà bình vĩnh viễn và lối giết người từng đám theo lối chiến  tranh thảm ngược là cảnh chẳng bao giờ thấy ở loài cầm thú, không còn thấy nữa, cảnh hoà bình (tức là thế  giới mà cảnh giết người từng đám không còn nữa) là cảnh toàn nhân loại tha thiết vậy. Nhưng muốn cho có  cảnh ấy, ngoài cách giáo dục về sinh vật học và sinh lý học ra, thật không còn có cách giáo dục nào hoặc  phương pháp nào giản đơn hơn nữa. Trải 54 năm, tôi đã đi khắp thế giới để diễn thuyết và trước thuật truyền bá phương pháp giáo dục về sinh vật  học và sinh lý học này tôi đã thấy rõ được hiệu quả chứng thực vô số. Những thực chứng ấy đã được in ra  trong các sách và tạp chí riêng của tôi. 1) Ông William Dufty, người Mỹ, 50 tuổi, nguyên sĩ quan không quân được huân chương cao cấp của nước  Anh, Pháp, Thuỵ sĩ, sau cuộc đệ nhị thế chiến ông bị bệnh, phải nằm bệnh viện 10 năm, rán chịu ôm cái  thân hình nặng trĩu 80 kg như xác chết sống vậy, không biết cách gì hơn. Trước đây 2 năm, ông xem các sách của tôi và khởi sự thực hành phương pháp chính thực theo lời chỉ dẫn  của tôi, thế mà ông tự chữa lành được bệnh, trẻ lại 20 tuổi và sút mất 37 kg trong 6 tháng. Ông ta quá sức  vui mừng, để tỏ lòng biết ơn, ông quyết tâm từ nay về sau trọn đời thực hành phương pháp trường sinh. Sau  3 ngày lành bệnh ông viết ra quyển “You are all Sampaku” (Các bạn tất thảy là tam bạch). Công việc tuy tốn  công phu (trải 1 năm), nhưng danh tiếng của ông được vang dội. Ông đã tuyên bố sẽ dịch tất cả tác phẩm  của tôi để giới thiệu với các bạn Tây phương. 2) Philipe Fagan, một thanh niên xứ Texas, người nóng tính, hay đấu khẩu, thân hình đầy thương tích, cậu ta  sang Nhật để học phương pháp chính thực tức nguyên lý Hoà bình. Cậu khởi sự ăn số 7 (tuyệt đối còn gạo lứt muối mè) từ tháng 10 năm trước (1965). Một thời gian rất ngắn,  cậu trở thành một thanh niên bảnh bao, hiền lành, trầm tĩnh dễ thương, cậu tuyên bố sẽ ăn số 7 trong 10  năm ­ kể từ nay đã được 5 tháng để bù lại 27 năm cậu ăn uống bậy bạ. Hàng ngày bữa trưa nào cậu cũng  ăn tại nhà tôi. Để trả ơn, cậu ta giữ phần trả lời các thư từ khắp xứ trên thế giới gửi đến cho tôi bằng Anh văn.  Bữa nào cũng như bữa nào, từ cảnh chùa Động vân tự cậu đi chân gánh đến cho chúng tôi 30 lít nước giếng  trong trẻo để dùng nấu bữa ăn cho độ 20 người trong nhà. 3) Bà Legaye, ở Bruxelles (Bỉ) từ 26 năm nay bị nhiều chứng bệnh kinh niên, tựu trung có bệnh ung thư.  Trước đây 10 năm bà thực hành tất cả bệnh và trẻ lại 20 tuổi. Từ đây bà đi theo tôi khắp nơi. Bà đã qua tới  Nhật 2 lần với tôi và lưu lại Nhật trên 1 năm. Mỗi bữa tối bà đi từ khách sạn đến nhà tôi để ăn cơm, tốn mất  3.000 yên tắc xi. Bà cho rằng được đến ăn cơm với chúng tôi thật trong đời không gì sung sướng bằng, mặc  dầu chúng tôi chưa có dịp nói chuyện riêng cặn kẽ với bà, vì lúc nào trong nhà cũng có độ 20 người khách  ăn cơm. Trước đây 10 năm bà có cho chúng tôi 1 triệu yên và sau đó mỗi năm cho thêm, tính có cả 10 triệu  yên trong 10 năm. 4) Cô Cuilitz ở Bruxelles (Bỉ) sau khi thực hành phưong pháp trường sinh, co lành được bệnh, nhân sinh  quan của cô đổi ra khác hẳn, cô bỏ ra tặng tôi một số nhà vườn xứng đáng 20 triệu yên.
  13. 5) Một tiểu thư Mỹ, cô Pletrersky ở Nữu ước bị bệnh gần chết, nhờ phưong pháp trường sinh cứu cô sống trở  lại, cô để dành số tiền trên 2 nam để qua thăm nước Nhật, nhưng rồi không đi, đem số tiền ấy tặng cho  người Việt nam thực hành phương pháp trường sinh. Rõ là một cái gương sáng trong việc chuyển hoán nhân  sinh quan. 6) Bà Teal Ames, một nữ tài tử vô tuyến truyền hình, nhờ phương pháp trường sinh cứu khỏi các bệnh tật, cô  bèn từ giã nghề của cô hàng tháng lương hưởng 200 ngàn yên và hy sinh tất cả của cải, hiến thân chịu nhọc  nhằn mở ra xưởng máy chế các món ăn trường sinh Chico­Sanincororate ở Mỹ. Hàng ngày cô lăn bột trong  xưởng này để lo chế ra bánh mỳ lứt, lấm lem lấm luốc chẳng khác nào cô bé Lọ lem (Cedrillon). Thế rồi sau  đó cũng có một “hoàng tử” đến rước cô về kết nghĩa trăm năm. 7) Đúng 5 năm trước đây, báo chí các nước có đăng về việc “Tân xuất Ai cập ký” là việc 34 người theo  phương pháp trường sinh, lên xe bỏ Nữu ước ra đi, băng ngang qua cảnh sa mạc và núi non miền cao  nguyên phủ tuyết của Mỹ châu để đến California. Vị Moise chỉ đạo cho cuộc “Tân xuất Ai cập ký” ấy là một  “người Nhật tên gọi là Georges Ohsawa”? 8) “Giết người bằng đạo Thiền” – Tháng 11 năm 1965, chiến tuyến trường sinh đã tràn ngập Hoa kỳ như  nước lụt, tự nhiên bị phản kích ghê gớm: Bà Simon, một nghệ thuật gia trẻ tuổi (24 tuổi) rất chân thuần như một vị thần, một đứa bé ngây thơ, bà là  một trong hàng trăm người Mỹ đã hăng say theo phương pháp trường sinh. Trước khi chết bà có viết cho tôi  nhiều bức thư đầy ý nghĩa, biểu lộ được tính cách của bà. Khoảng đầu năm 1965 bà cùng chồng bà khởi sự thực hành phương pháp trường sinh vừa trong một tuần lễ  hai vợ chồng đã chữa được lành bệnh nan y một cách thần kỳ. Những bệnh của hai ông bà chỉ vì ăn uống  bậy bạ cùng dùng những thức ăn ma dược thường ngày trong 10 năm về trước, nên chẳng có phương pháp  nào chữa trị. Riêng về bà Simon mắc những bệnh thần kinh suy nhược, tâm trạng bệnh, ho, lao, trúng độc  ma dược, chữa được lành, nhưng sau khi lành, bà có thêm nhiều món ăn khác vào các món ăn trường sinh.  Vì thế mà bà chết ngày tháng mười. Ai nấy đều biết những hàng phụ nữ thuần chân và ngây thơ như ấu nhi, tấm lòng trong trắng như ngọc, phần  nhiều hay khiếm khuyết vè phương diện xét lại mình (tự kỷ phê phán), thành phải chịu một tối hậu bi thảm.  Thân phụ của bà là một đoàn trưởng đoàn luật sư, ông ta ra mặt công kích “phương pháp trường sinh của  Nhật” khắp trên báo chí và radio, vì thế sách vở của tôi bị cấm không được bán, cuộc vận động về phương  pháp trường sinh bị cấm ngặt, ông Dufty là người viết ra quyển “You are all Sampaku” và nhà xuất bản đều  bị kiện, cô Irma Paule tổng thư ký của Viện Ohsawa cũng bị kiện. Rõ thật là một “cú” ghê tởm cho cuộc vận  động phương pháp trường sinh ở Mỹ. Giữa tháng 11 năm ấy trên các báo chí, radio, vô tuyến truyền hình,  khắp nơi đều có nói tới. Nhưng cũng nhờ có việc kiện tụng, công kích ấy thành ra phong trào thực hành  phương pháp trường sinh đáng lẽ xẹp đi thì trái lại càng ngày càng bành trướng gấp mấy lần trước kia, số  người theo thực hành càng ngày càng vô số. Bà Simon là một người phụ nữ thuần chân, thuần tính, thuần ai. Nhưng cái vẻ đơn thuần chính trực ấy, cũng  như đa số người Mỹ bà thiếu hẳn trí phán đoán và chỗ suy tư. Rốt cuộc bà phải chịu một vận mạng tối hậu bi  thảm, chỉ vì bà chẳng hiểu gì về lý thuyết cả, mặc dầu bà rất nhiệt tâm về thực hành.
  14. Trường hợp của bà khiến cho thấy rõ “Triết lý không kỹ thuật là vô dụng, kỹ thuật không triết lý là nguy  hiểm”. Mỗi khi đưa ra mọt lý thuyết và chủ nghĩa gì mới, không làm sao tránh khỏi chỗ nguy hiểm ấy được. Lý luận  không thực hành, triết lý không kỹ thuật đều vô dụng. Kỹ thuật và khoa học không có lý luận cũng như không  có triết lý, đều nguy hiểm. Nói về y học, giáo dục, chính trị, kỹ nghệ, nông nghiệp nếu không có nguyên lý  tức là Đệ nhất Nguyên lý: Đại nghĩa, nguyên lý sinh mạng (sức khoẻ, ưu mỹ, hạnh phúc, tự do, chính nghĩa)  tức là “Trật tự vũ trụ vô hạn”, thảy đều như thế cả. Nền y học và giáo dục hiện đại nói ra như khó tin mà sự  thật thì chẳng biết gì đến sinh mạng! Chính trị không có mục đích gì khác hơn là độc chiếm quyền thế và  dùng bạo lực, công thương, nông đều nhận lầm cho rằng mối lợi là nguyên lý. Nhất là nông nghiệp là một  ngành sản xuất ra số thực phẩm để nuôi sinh mạng, thế mà cũng nhắm vào mối lợi làm mục đích. Hiến pháp  của Nhật bản lấy nông nghiệp làm cơ bản cho chính trị. Trong 3 thần sắc của Nhật có một cái chú trọng  dùng nông nghiệp theo đường chính thực sinh hoạt làm Quốc thị. CHƯƠNG V. GIÁO DỤC BIỆN CHỨNG PHÁP THỰC DỤNG KHUYẾCH SUNG ĐƯỢC NỀN LÝ LUẬN  HỌC HÌNH THỨC TRẬT TỰ VŨ TRỤ Cách đây bốn trăm năm văn minh tư tưởng Tây phương được truyền qua Cực Đông đồng thời với thánh  Fragois Savier. Những mũi tên tuyên truyền đầu tiên đã bắn ra từ ngày Marco Polo và Magellan bắt đầu đi  thám hiểm. Tuy vậy các nước Cực Đông trở thành thực dân địa của văn minh Tây phương chỉ mới vòng trên  một trăm năm nay. Riêng về tinh thần Nhật bản bị thực dân địa hoá vừa trong vòng một trăm năm, tuy quá  muộn màng, nhưng ngay từ ngày khai phóng môn hộ để rước triều lưu nước ngoài, dân chúng liền say mê  nền văn minh ấy. Nói cho đúng, lúc ban đầu chỉ vì nhu cầu về quân sự mà phải thế, nhưng tiếp theo đó lại nỗ lực du nhập kỹ  thuật, rồi khoa học, học thuật. Ngày nay nước Nhật đã ngang hàng với Âu Mỹ về phương diện chế tạo  thuyền bè, camera, đồng hồ, công nghệ vải bò, radio, tuy vậy về phương diện lý luận mặt tinh thần chẳng du  nhập được gì thuần tuý, vì lẽ rằng ở phương diện này Tây phương chẳng có gì đáng để ý cả. Lý luận mà  Nhật bản đã du nhập của Thái Tây đều là phản động lực, kỹ thuật, tương đối, tiện nghi, thống kê, cơ giới,  khế ước như “Tôn giáo” quân chủ chủ nghĩa, nguyên lý đa số quyết định, tân hoá luận, hạnh phúc luận  (hạnh phúc của tối đại đa số), hình thức luận lý học, nam nữ bình quyền, nhân khẩu luận, dân ước luận, dân  quyền luận, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, nguyên tử luận, cơ giới luận. Những cái đó tất thảy là thể  tài lý luận. Nhưng về vật chất là kỹ thuật đơn giản. Chẳng có gì là lý luận, nguyên lý, pháp lý. Ở Đông  phương gọi rằng lý và pháp chỉ là chân lý vĩnh viễn, vạn pháp quy nhất, Đạo, Duy thức, Đại vũ trụ pháp tắc,  sinh mệnh, đại nghĩa, Thần, tuỳ theo đấy mà có danh hiệu khác biệt nhau. Ở Tây phương chẳng bao giờ có  tư tưởng nhất nguyên luận như thế, cho nên họ đặt ra vô số lý luận khác nhau để thay thế cái gọi là duy nhất  (Đạo hoặc Đại nghĩa). Những lý luận của Tây phương trước sau gì cũng cần phải nhất nguyên hoá. Tuy vậy  từ Thales, He’raclite, De’mocrite, Epicute đến nay, người Tây phương chỉ có biết nhị nguyên luận, chẳng bao  giờ biết đến nhất nguyên luận là gì. Thế giới nhị nguyên luận là thế giới đối lập, tương khắc, vì thế trong các  tầng lớp xã hội, mặc dầu với điều kiện nào, chỉ thấy ròng nỗi tương khắc, đối lập, tương tranh, chiến tranh  bất tuyệt. Chẳng bao giờ có hoà bình, chẳng bao giờ có đại đồng (đoàn kết) chỉ là muôn đời vạn kiếp phá  hoại mãi mãi. Ngày nay chúng ta để ý xem chỗ nào đã có nền văn minh khoa học xâm nhập vào đều có 
  15. quang cảnh ấy. Lắm kẻ, dầu người phương Tây cũng thế, nhìn tới cảnh tương lai mà âu lo, phải đem lòng suy nghĩ tới tính  cách bi tráng bi kịch của nền khoa học văn minh. Các nhà như Montaigne, Montesquieu, Voltaine,  Rousseau, Dideot, các nhà thuộc phái Bách khoa toàn thư đều là những nhà tư tưởng mà cũng là những nhà  xuất phát ra những tấu khúc tên báo, nhưng thảy đều thất bại. Cho đến các nhà như Kant, Schopenhauer và  Hegel vẫn để tâm tới cực Đông có ý thiết lập một thế giới quan nhất nguyên luận, nhưng rồi cũng thất bại.  Gần đây như Spengler, Sammuel, Butler, Emerson, E.Carpenter.... đã tiên đoán rằng nền văn minh khoa  học nếu không cho chỗ thoát về thế giới nhất nguyên luận, thế nào cũng tự diệt, không thể nào tránh khỏi.  Alexis Carrel đã nhận thấy nhất nguyên luận của sinh mệnh trong phương diện y học và sinh hoá học một  cách mơ hồ và thần bí, nhưng ông vẫn tìm ra chỗ vĩ đại của sinh mệnh, là cái đã giải quyết tất cả những nỗi  đối lập, tương khắc thành ra nhất nguyên luận, nhờ chỗ tương bổ nhau. Louis Kervran đã phát kiến được thật  sự việc chuyển hoán nguyên tử trong sinh thể nhờ chỗ nghiên cứu về phần chuyên môn sinh vật học, sinh  hoá học, điện khí sinh lý học, cuối cùng ông phát kiến được ý nghĩa sâu xa trong lời nói của Thomas  d’Aquin: “Nếu không nắm chắc được bản thể sinh mệnh lực thì tất thảy trí thức đều là đắc tội”. Tuy vậy ông  ta cũng như tất thảy các nhà khoa học khác, vì không hiểu được nhất nguyên luận của Đông phương cho  nên ông chỉ ôm chỗ phát kiến không tiền của ông mà đi về chỗ trầm một. Từ đây W.Hetlen (sinh năm 1904) nhảy lên sân khấu. Năm 23 tuổi ông này phất kiến được “Nguyên lý  Heiler­London”, nổi danh một nhà đại lý luận vật lý học giả. Lúc đệ nhị thứ chiến ông trốn thoát ách độc tài  Nazis Đức, chạy qua Ái Nhĩ Lan. Sau ngày đại chiến kết liễu, ông làm giám đốc viện Đại học lý luận vật lý ở  Zurich. Năm 1961 ông cho xuất bản các bài diễn thuyết của ông thành lập tập sách nhan đề là “chỗ nhận  thức của người và khoa học”. Năm sau đó có bản dịch bằng chữ Anh được xuất bản. Đại khái ông chủ  trương: “Trong khi nền văm minh khoa học càng phát triển ghê gớm chừng nào, thì đúng như Sáng thế ký  (Mặc thị lục) đã nói, trên mặt địa cầu này đầy những cảnh bi thảm không tiền diễn ra cảnh đại tội ác, đại phá  hoại, toàn nhân loại đi theo con đường tương sát. Tại sao khoa học lại dẫn dắt loài người tới vận mạng bi  thảm như thế?” Trả lời câu hỏi ấy thật vô cùng giản đơn. Ngày từ bước đầu khoa học đã phạm một lỗi lầm rất lớn. Các nhà sáng tạo khoa học chỉ nhìn thấy chỗ nhị  nguyên của vật chất và không gian trong vũ trụ này, vì thế họ bỏ không gian ra ngoài, không để tâm nghiên  cứu, chỉ tìm về căn nguyên của vật chất rồi tưởng tượng ra một đơn vị gọi là nguyên tố. Chỗ tưởng tượng ấy  được ôm ấp từ hai nghìn năm nay, đến đầu thế kỷ 20 này họ lợi dụng vào những tối tân kỹ thuật, cho rằng  cái gọi là nguyên tố của đơn vị vật chất tuyệt đối chân thật, một giống thiệt tại, nghĩa là họ chỉ phát kiến ra  một cái nguyên tố không tưởng, một cái không tưởng của hình chơi trẻ con, tất thảy là mộng tưởng, một cái  mộng tưởng của kẻ ngu đần. “Vật chất là một hình ma của số học thần xuất qui một, biến hoá một cách thần bí ở không gian” Đr.Lapp đã  nói trong quyển “MATI e`re” (Vật chất) của ông như thế. Cách định nghĩa về vật chất như thế là chỗ kết luận  chân thật của các nhà khoa học, mặc dầu xem đấy như lời tráo phúng tự thú nhận chỗ thất bại của mình! Trong khi khoa học nghiên cứu về thế giới hình nhi hạ hữu hạn, tương đối giới, vật chất giới, khoa học tưởng  đâu rằng vật chất bao tàng được một số khí lực tương đưong 3x10 (???) với chất lượng của nó. Khoa học  phát kiến ra một phương tiện để rút ra độ một phần nghìn của khí lực ấy, đem dùng chế ra quả bom nổ một 
  16. tiếng đã giết được 100 nghìn người! Vì thế mà khoa học đã dùng bạo lực chưa từng có trong lịch sử loài  người để chi phối thế giới. Từ 5.000 năm trước, Đông phương đã phát kiến ra pháp tắc sáng tạo và chuyển hoán đồng thời nhất quán  chi phối thế giới tương đối, vật chất, tuyệt đối giới, tinh thần và sinh mệnh giới. Ví dụ như nhà khoa học Tây phương lúc thế kỷ 20 đã phát kiến ra loại nhôm (aluminium), nhưng cho đến  nay vẫn chưa biết cách hợp kim thiệt dụng của loài ấy, thế mà tại Đông phương từ 3 nghìn năm trước kia  Trung Quốc đã đem ra chế tạo các đồ dùng để nấu ăn trong nhà bếp. Tại học hiệu của Lão tử, có những  thuật luyện kim và chuyển hoán nguyên tử, người ta chế ra vàng, trái lại khoa học hiện nay còn đang nghiên  cứu thuật luyện kim ấy. Tại Đông phương người ta lỡ làng với việc nghiên cứu thế giới vật chất, vì nghĩ rằng muốn chinh phục thế  giới bằng cách nghiên cứu về hoàng kim, chỉ là việc hoa quỳnh một chốc không đáng kể. Vì những tư tưởng  sau này đã thâm nhập vào não, như “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”, “Chi viên tinh xá chung quanh”  (thế giới tương đối chỉ thoáng qua như tiếng chuông của nhà chùa), “Sa la song thọ sắc” (có thịnh thì có  suy), “kẻ ngạo mạn sẽ mất tăm, như giấc mơ mùa xuân”, “kẻ bạo ngược sẽ bị tảo trừ như bụi bay trước  gió”...Bởi vậy nền văn minh khoa học không được bành trướng ở Cực đông vẫn có lý do, và chính những nhà  khoa học người Nhật hiện đại là hàng đã “chịu rửa tội” văn minh Tây phương từ lúc thiếu thời, hoàn toàn  chẳng hiểu gì cả. Những kẻ đặc biệt trong số ấy thừa nhận rằng: Đông phương là nghệ thuật kỹ xảo kinh  nghiệm phái, khác hẳn Tây phương là lý luận và khoa học. Trái lại Tây phương không có lý luận căn bản, và cho rằng kinh nghiệm tập thành, thường thức chỉnh đốn là  cái nền học thuật duy nhất của họ. Cái khoa học này tức là chỗ mù quáng của kinh nghiệm chủ nghĩa thuộc  phán đoán lực của họ. Khoa học ấy chỉ có lý luận cơ giới nguyên tử luận, ấu trĩ và không tưởng, chẳng có gì  là nghiên cứu đến nguồn gốc và động cơ khiến cho có được bản chất khả năng tính của kinh nghiệm ấy.  Chỗ chứng minh của khoa học là tấn hoá luận, di truyền thuyết, dẫn lực, phân tử lực, hạch lực và tất thảy  những tắc pháp và phản thuyết của khoa học. Bởi vậy khoa học của Tây phương là kỹ thuật, khác hẳn chỗ học vấn của Đông phương là cái học đi tới con  đường tinh thần nhất nguyên, một cách học độc lập, tự học, tự tập. Vì thế mà Tây phương không thể hiểu  thấu được căn bản của khả năng ký ức lực, không biết được sinh mệnh lực đã áp dụng phán đoán lực trong  sinh hoạt thực tế hàng ngày với bất luận điều kiện nào. Chính chỗ ấy mà khoa học không đi con đường nào khác hơn là đi vào con đường phá hoại sinh mệnh lực.  Chỗ chứng minh rất hiển nhiên chỉ cho ta thấy trong đối chứng y học hiện đại, chỉ có việc mạt sát chứng  trạng, phá hoại, hoặc che đậy, hoặc thay thế các triệu chứng. Những phát minh khác của khoa học đem  dùng vào việc giao thông và thông tin tiện lợi, dùng vào việc sinh hoạt dễ dàng, tiết ước, tăng gia khoái lạc,  sung túc dục vọng, chẳng qua là một sự phung phí ghê gớm thế giới không gian và thời gian, một sự phá  hoại cơ cấu tự nhiên đào thải, chỉ làm cho sinh mệnh nhân loại và toàn thể sinh vật thành ra đê hạ. Cuộc  phát minh lớn nhất của văn minh khoa học tức là loại hung khí không tiền: bom H. Nguyên động lực khiến cho khoa học đến một kết quả như thế tức là hình thức lý luận học đã chi phối tư  tưởng Tây phương. Giá phỏng quay trở lại căn nguyên của phương pháp ấy, một phương pháp có thể áp  dụng ở thế giới hình nhi hạ học, tiến lên phát triển thành vũ trụ vạn hữu luận lý học, nhất quán cả thế giới 
  17. hình nhi hạ học cũng như thế giới hình nhi thượng học, tất thảy thành quả của khoa học sẽ làm có sinh  mệnh được diên trường, cảnh nhân sinh càng sâu sắc, vui thú gấp lên, và thế giới cũng trở nên tự do và hoà  bình Giáo sư Heiler lấy tư cách là nhà lý luận vật lý học, phản tỉnh lại, phát kiến được chỗ khuyết điểm của văn  minh khoa học Tây phương nên lớn tiếng hô hào phương pháp cải tạo nền văn minh khoa học liều lĩnh đến  cơ hồ bị trục xuất khỏi khoa học giới và xã hội Tây phương, chẳng khác nào nguy hiểm phải chịu hoả hình  ngày xưa. Ông nói: “Muốn cứu nền văn minh khoa học của Tây phương thoát khỏi cảnh bi thảm tối hậu, chỉ duy có một con  đường là gấp bỏ hẳn cuộc nghiên cứu hình nhi hạ học, phải đổ tâm lực vào việc nghiên cứu hìh nhi thượng  học!”. Tiếng kêu của con chim gần chết nó bi thảm biết bao! Câu cuối cùng trong bản danh trước “L’homme cet  Inconnu” Dr.A.Carrel cũng thốt ra những lời thống thiết như thế: “Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một nền văn minh đã đi vào đường suy sụp, từ nay mới tự mình thấy rõ  nguyên nhân chỗ khiếm khuyết của mình. Có lẽ sẽ lợi dụng trí thức này để nhờ vĩ lực của khoa học trợ giúp  hầu có thể thoát khỏi vận mạng bi thảm của quá khứ nhân loại chăng. Hãy bước vào con đường mới! Ngay  bây giờ chúng ta phải gấp tiến lên!”. Sau Alexis Carrel 30 năm, trong tác phẩm của W.Heiler cũng nài nỉ khẩn thiết với nền văn minh Tây phương  phải nhắm tới một thế giới quan hình nhi thượng học của Đông phương để tiến bước vượt qua hẳn khoa học  đi! Trong 60 năm qua của tôi, tôi đã đọc hàng mấy nghìn cuốn sách của các nhà khoa học Tây phương, tôi rất  khâm phục chỗ đại quan và dũng khí của 4 nhà là Claude Bernard Rene’ Quinton, Alexis Carrel, Louis  Kervran. Nhưng tôi nhận thấy chỗ tự kỷ phê phán của người thứ 5 là Heiler về văn minh tây phương có vẻ  sâu sắc hơn 4 nhà kia nhiều. Giáo sư Heiler kết luận rằng phải gấp tới việc nghiên cứu về hình nhi thượng học của Đông phương, tôi thiết  tưởng muốn có một phương pháp cụ thể, người Đông phương phải lãnh vai dìu dắt. Tôi lấy làm may mắn trải  qua 54 năm qua. Chỉ một mình gánh lấy công việc ấy, theo chỗ kinh nghiệm của tôi, tôi xin lấy toàn lực vạch  ra một lược đồ cho người Tây phương cũng như người Đông phương đã Âu hoá và bị hoá thành người thực  dân địa cầu Tây phương như sau: 1) Nhờ phương pháp trường sinh “hoà” chỉ trong 10 ngày đã thay đổi tất cả huyết dịch trong cơ thể. Bác sĩ sinh lý học Đức Dr.Butenant nói rằng xích huyết cầu trong huyết dịch con người thường trong 1 giây  (1’’) đã hoại đi 2 triệu, vì thế tất cả huyết dịch chỉ trong 10 ngày dã hoàn toàn thay đổi mới. Theo chỗ chứng minh của nhà tiên tri Daniel nói: “...chỉ trong 10 ngày là chúng trở nên đẹp đẽ, hiền lành, chỉ  có ăn toàn những ngũ cốc và uống nước lã”. Tôi không được hiểu chỗ ấy, nhưng theo kinh nghiệm lâu năm  của tôi, tôi khuyên nên ăn tuyệt đối số 7 trong 10 ngày.
  18. Chữ “hoà” trong Hán văn đặt ra từ mấy nghìn năm nay. Chữ ấy biểu thị chỗ anh trí của người xưa và trí phán  đoán tối cao của nhân loại. Chữ “Hoà” tức là hoà bình vĩnh viễn, gồm có chữ “Hoà” là lúa ở một bên và chữ  “khẩu” là miệng ở một bên, nghĩa là cái miệng có ăn ngũ cốc thì được hoà bình. Tôi thật vô cùng ca ngợi  năng lực trừu tượng xảo diệu của người xưa. Họ tóm tắt bộ não quan sát về sinh vật học, sinh lý học, trải  mấy ngàn năm, chỉ trong một chữ đủ cho ta thấy rằng muốn thật sự hoà bình, chỉ duy dùng thực liệu bằng  ngũ cốc. Người xưa dã đem ra thực hành trong cảnh sinh hoạt hàng ngày của dân chúng, không cần nhắc  nhở mà chẳng ai quên. 2) Thực hành phương pháp trường sinh của chữ “Hoà”, học tập vũ trụ biên chứng pháp (vô song nguyên lý,  tức kinh dịch của Hoàng đế ngày xưa) đem áp dụng vào hiện đại văn minh khoa học. Kinh dịch là bản sách của Phục hy sáng chế cách đây mấy ngàn năm, và cách đây 2500 năm Khổng tử san  định. Khổng tử cho rằng Kinh dịch là bản kinh diễn tối cao của nhân sinh, nên nói: “Nếu 50 tuổi khởi sự học  Dịch sẽ không có lỗi lầm lớn”, “Bìa sách rách 3 lần”, “Bản sách của đế vưong”. Cách đây 40 năm tôi xuất bản quyển “Đông phương khoa học và triết lý thống nhất nguyên lý” tại Pháp, tôi  có giới thiệu việc áp dụng kinh dịch. Quyển sách này mỗi năm tái bản cho đến ngày nay, và bản bằng Anh  ngữ sẽ xuất bản theo yêu cầu của nhà sách “Đông­Tây”. Trước đây 2 năm tôi có giới thiệu tại văn phòng khoa công nghiệp Feitzer rằng: Trong các ky ốt ở New York  người ta bán dịch kinh với giá thường 65 cents. Đấy là quyển sách tối cổ của thế giới, quyển sách của hoá  học nguyên luận, nguyên tử chuyển hoán pháp, hoặc là khoa học nguyên luận và giáo dục học nguyên luận.  Người ta cho người thư ký đến mua, có các sách Kinh dịch dịch ra Anh văn, pháp văn đủ loại, nhưng người  Tây phương xem đến chẳng hiểu gì, vì rằng hai chữ Dịch kinh vẫn dịch y như thế, đáng lẽ hai chữ ấy dịch  cho sát nghĩa bằng “cuốn sách vạn hữu chuyển hoán thư”, “nguyên tử chuyển hoán thư” thì dễ hiểu hơn. 3) Kinh dịch là một biện chứng pháp thiệt dụng có thể áp dụng trong tất cả các vấn đề sinh hoạt hàng ngày,  bất luận nơi nào, lúc nào của chúng ta. Dầu cho các bé con học sinh ở các trường tiểu học cũng có thể học  vài giờ hiểu thấu được. Cho đến các giáo sư ở viện đại học cũng có thể dùng làm một la bàn để giải quyết  các vấn đề khó khăn về hoá học, vật lý, y học, kinh tế, chính trị, nông nghiệp. Các nhà khoa học Nga xô đã  thắng Mỹ khi Mỹ thất bại trong công cuộc vũ trụ thuyền hành, thường nhún nhường tuyên bố: “Chúng tôi  thành công được chính nhờ nơi biện chứng của chúng tôi”, mặc dầu Marx đã ngộ diễn vạn hữu biện chứng  pháp của Đông phương bảo rằng: chính phản hộp (the`se –antithe`se –synthe`se), nghĩa là hai sinh ra ba,  hai và ba sinh ra một. 4) “Thiệt dụng biện chứng pháp” tôi dùng để mệnh danh tạm kinh dịch, dùng để giải quyết được vô số vấn  đề nan giải của hiện đại, nhất là có thể thiết lập được hoà bình. 5) Lại nữa “Thiệt dụng biện chứng pháp” tức “Vạn hữu luận lý học” không những lưu thông ứng dụng trong  thế giới tuyệt đối và vô hạn nữa; còn hình thức luận lý học và khoa học chỉ có giá trị trong thế giới hữu hạn,  tương đối hình nhi hạ học và vô thường giới. Cái biện chứng thực tiễn này đồng thời mở ra một sanh lộ cho con đường bế tắc của thế giới nhất nguyên  luận của vô hạn tuyệt đối.
  19. 6) Làm cơ sở cho văn minh khoa học tức là nhị nguyên luận của hình thức lý luận học, và cái luận lý ấy làm  căn cơ cho khái niệm thường thức cảm giác phán đoán. Luận lý ấy bỏ qua trực giác, cảm hứng, hoặc nữa là  không thể hiểu thấu những chỗ ấy. Vì thế cho nên các nhà cách mạng phát kiến được tân thuyết thường bị  mạt sát, chịu phải cảnh bị áp bức bi thảm, bị xử tử vì bạo lực. Cứ mỗi lần như thế thì con đường tiến bộ của  khoa học lại bị trở ngại. 7) Thiệt dụng biện chứng pháp đem tính cách giản tố của nó là Âm và Dương để phân loại tất cả nỗi đối lập  tương khắc, nhờ tính chất tương bổ của nó, thành ra có được khả năng chuyển hoán tất cả. Những chuyện thần tiên của Đông phương như chuyện “Một nghìn lẻ một đêm”, “Tây du ký”, “Ailibaba vương  tử”, “Tấm thảm bay”, và những kỳ tích thần thoại...viết ra với mục đích thâm khắc chỗ ưu việt của biện chứng  thực tiễn ấy vào tâm não của người ngay từ lúc bé thơ. Những truyện ấy chỉ cho chúng ta thấy chỗ bí quyết  chuyển hoán nỗi bất khả năng thành ra khả năng, chính là bản thể sinh mệnh. Đấy cũng là bí quyết của Lão  tử: “Vô vi nhi hoá”, “bất chiến nhi thắng”, “bất thuyết nhi thuyết phục”, từ “tích tiểu thành địa” hoặc như binh  pháp của Tôn tử “Phụ tức thăng” hoặc như tinh thần Jesu “chỉ núi, núi dời ra biển”. CHƯƠNG V KẾT LUẬN Trải 54 năm, tôi truyền bá phương pháp giáo dục sinh lý hoc và sinh vật học của Đông phương trong khắp  thế giới, là vì: 1) Một phương pháp rất giản đơn và rất thực tiễn, mọi người đều có thể áp dụng lập tức, bất luận chỗ nào để  xác lập một cảnh sống tự mình kiểm soát lấy bản thân mình cho nhục thể được hoà bình (tức tuyệt đối kiện  khang, bất lão trường thọ, được an ninh không tai hoạ, kinh tế an định, vĩnh viễn quân bình, chẳng bao giờ  tuỳ luỵ kẻ khác). 2) Một phương pháp khiến cho trí phán đoán của tất thảy mọi người được gia tăng một cách tự nhiên theo  sinh lý học và sinh vật học, ai ai cũng có khả năng đạt được chỗ phán đoán tối cao, có thể nhận xét được tất  thảy các tư tưởng và hành động, các kỹ thuật. Hai điểm ấy tức là chỗ xác nhận được nội dung của bản thể “Trật tự vũ trụ” và “vô song nguyên lý”. Trật tự vũ  trụ và vô song nguyên lý tức là bản tân diễn hiện đại thế giới về ý chí tối cao của Thần, của Đạo, của chính  nghĩa, của Sinh mệnh, năm dồn tháng chứa trải mấy nghìn năm đã thành cũ kỹ (cổ sắc thương nhiên) đã  thành ra ngẫu tượng, đầy mê tín, hư không và khía niệm về điểm thứ nhất, Trật tự của Vũ trụ dạy cho chúng  ta chỗ “hằng thường của vô thường”. Điểm thứ nhì, vô song nguyên lý dạy cho chúng ta rõ động cơ của chỗ  vô thường của sự chuyển hoán không ngừng của tất thảy mọi sự vật. Hiện trong thế giới kể số người hàng  ngày thực hành nền giáo dục mới về sinh lý học và sinh vật học, kể trên cả triệu. Từ 15 năm nay tôi đi du lịch  quanh thế giới mỗi năm một hai lần với nhà tôi. Trên 10 quyển sách bằng Pháp văn của tôi đã được phiên  dịch ra hàng chục thứ ngoại ngữ. Hiện có độ 50 nhóm nghiên cứu về phương pháp trường sinh tại Mỹ châu  và Âu châu. Hàng năm các trường hè về triết lý Cực đông được mở ra có ít cũng 3 nơi, có mười nghìn người  tham dự. Có các tạp chí định kỳ tại Pháp, Mỹ, Đức, Ba­tây, Bỉ, Việt Nam. Trong khoá hè mở tại Nhật khoảng  tháng 7 và tháng 8 năm nay, dự định có 300 người tới tham dự, đều là người thực hành phương pháp trường  sinh ít nhất đã 3 năm. Có những phòng diễn giảng thường ngày tại Paris, Boston, New York, và Los  Angeles.
  20. Tôi đi đến chỗ nào cũng có xe cộ sẵn sàng cho tôi sử dụng như ở Mỹ, Âu, cho đến bến Ấn độ, Phi châu, và  Việt nam cũng thế. Tại Nhật tôi đã giã từ “cảnh nhà vừa đủ che mưa gió”, còn tại các nước trong thế giới đã  tặng cho tôi những cảnh nhà tối tân. Đấy, chỉ nhờ nơi phương pháp giáo dục sinh lý học và sinh vật học mới được như thế. Mặc dầu đấy là một  kinh nghiệm trong phạm vi hẹp hòi về cá nhân của tôi trong 54 năm, nhưng cũng đủ chứng tỏ rằng phương  pháp này sẽ đem lại được nhiều khả năng tánh vô hạn, cần phải khá nhiều tư kim và đại quy mô, nhưng với  sức tôi thì không thể nào làm nổi, không có cách gi làm hơn chỗ tôi làm. Mỗi ngày phải ứng tiếp với thư từ  của các nước xa xăm trên toàn thế giới gửi đến, cũng chưa đủ sức thay. Bây giờ đến phiên các bạn phải gánh lấy! Nói cho tỏ tường việc thực hành các vấn đề thực tiễn thuộc về kỹ thuật của nền giáo dục sinh vật học, sinh lý  học cùng vũ trụ trật tự, hình nhi thượng học của vô song nguyên lý, cách dạy về hình nhi hạ học (cách un  đúc tinh thần, tư tưởng lực, phán đoán lực thuộc về sinh vật học, sinh lý học, cần phải viết ra đôi chục cuốn  sách lớn. Riêng tôi đã cung cho các bạn trên 300 tác phẩm băng Nhật, Pháp, Đức ngữ để tham khảo. Tuy  vậy cách giáo dục về sinh vật học, sinh lý học “không có văn tự” ít ra phải thực hành triệt để trong 10 ngày  mới có thể hiểu thấu được. Xin kể sơ đôi loại sách báo như sau: 1­ Tạp chí Blanc et Noir ở Pháp đã giới thiệu “G.O” 5 lần. 2­ “Zen” băng Anh ngữ, Pháp ngữ. 3­ Eien no Sho`ne (Vĩnh viễn thiếu niên). QI nói về Fraklin, Qz nói về Gandhi. 4­ Atarashiki Sekai e (số 364­365) tạp chí này từ 35 năm lại đây do tôi chủ trương, bao nhiêu tư tưởng và  hành động cùng kỹ thuật đều lấy chỗ tối cao phán đoán lực giảng theo vô song nguyên lý. 5­ Kurarashu`man (Sinh vật học, sinh lý học, truyện ký). Nhìn 74 năm qua tôi đem lòng suy tưởng, thấy ra được hạnh phúc vô cùng, không có cách gì cảm tạ ơn vũ  trụ hơn nữa. Cảnh hạnh phúc của tôi đều do chỗ đại bất hạnh lúc ban sơ của đời tôi mà có: Cha tôi còn trẻ  đã bị thất tích, mẹ tôi còn trẻ đã qua đời, các em trai em gái đều chết, riêng tôi lúc 16 tuổi bị ho lao thổ huyết  nặng, thế rồi lưu lạc trên thế giới, nhất là các nước Văn minh Tây phương, tiếp xúc với 4 khổ cảnh của toàn  nhân loại (sinh, bệnh, lão, tử). Nghĩa là tôi truyền bá phương pháp tự chữa lành bệnh của tôi cũng như Jesu  còn trẻ tuổi đã truyền bá cách chữa bệnh của Ngài để cứu những kẻ bệnh hoạn thống khổ...Chỗ thành công  không ngờ như thế là vì y học chính thống của xã hội Tây phương chỉ duy căn cứ vào nhị nguyên luận cùng  hình thức luận lý học đều tỏ ra hoàn toàn bất lực đối với các bệnh như ung thư, gan, bệnh tinh thần, tâm  trạng bệnh, các bệnh biến ứng. Những bệnh gọi là nan y kể từ đời Hyppocrate và Dê­Du đến nay đều thành  ra nan y mãi, như bệnh cảm mạo cốt thống, suyễn, phong hủi, sói tóc... và còn vô số bệnh khác đã lộ đầu  xuất hiện do y thuật phương Tây tạo ra. Vì những lẽ đó, y học tự nhiên của tôi (trường sinh) tức là y học chữa  được tận căn của Đông phương đã lan tràn khắp mọi nơi chẳng khác nào lửa phất qua trên lớp cơ khô vậy. Thế giới quan của Đông phương xét theo tinh thần Nhật bản tức là chỗ kết tinh của vạn hữu lý luận học. Chỗ  ấy tức là nhị nguyên luận hoá tính chất nhất nguyên luận (Monisme polarissable). Hiện tượng ấy (vũ trụ vạn  hữu) chia ra làm hai loại Âm Dương riêng biệt: Âm Dương tuy tương khắc đối lập, nhưng chuyển hoán thành  ra tương bổ Âm Dương chuyển hoán chỗ đối lập tương khắc, kiểm soát lấy động cơ và khí lực của tất cả hiện  tượng, hợp thành Âm Dương làm Một, sau cùng lại chuyển hoán tất cả: 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2