Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
51 PHƯƠNG PHÁP PHẪU THUẬT NỘI SOI TRONG RÒ BÀNG QUANG ÂM<br />
ĐẠO: GIẢI PHÁP KHÔNG CẦN THỜI GIAN CHỜ ĐỢI<br />
Trần Trọng Trí*, Thái Kinh Luân*, Vũ Đức Huy*, Nguyễn Thị Thái Hà*, Hoàng Khắc Chuẩn*,<br />
Châu Quý Thuận*, Dương Thị Kim Cúc*, Hà Dương Quang Vũ***, Trần Ngọc Sinh**<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Tổn thương bàng quang trong phẫu thuật sản phụ khoa gây ra rò bàng quang âm đạo, trước đây mổ qua ngả<br />
bụng hoặc xuyên âm đạo là phương thức tiếp cận để điều trị khâu lỗ rò. Với những kinh nghiệm đã trải qua và khả năng<br />
chuyên môn, chúng tôi đã áp dụng phương pháp nội soi ổ bụng hoặc nội soi xuyên bàng quang để khâu rò bàng quang âm<br />
đạo.<br />
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu hồi cứu, gồm 28 bệnh nhân nữ được mổ nội soi rò bàng quang âm đạo<br />
từ tháng 02/2006 đến tháng 6/2009. Tất cả bệnh nhân được mổ nội soi với phương thức tiếp cận lỗ rò qua đường xuyên ổ<br />
bụng hoặc xuyên bàng quang. Bệnh nhân đã được khám và chuẩn bị kỹ lưỡng, xét nghiệm UIV, soi bàng quang, siêu âm và<br />
xét nghiệm tiền phẫu. Sonde tiểu đặt trong 02 tuần và có thể đặt lâu hơn nếu cần thiết.<br />
Kết quả: Trong 28 bệnh nhân mổ nội soi có 1 bệnh nhân phải chuyển sang mổ hở là do dính chặt vào đại tràng sigma<br />
và túi cùng Douglas (sau khi có kết quả ung thư cổ tử cung). Trong 27 trường hợp mổ nội soi có 2 trường hợp rò nước tiểu<br />
sau khi rút sonde niệu đạo. Sau này phải chuyển sang mổ hở qua ổ bụng để khâu rò. Thời gian mổ trung bình 241 ± 38 phút,<br />
nhanh nhất 80 phút, lâu nhất 410 phút. Thời gian nằm viện 11 ± 1,9 ngày, sớm nhất 7 ngày và lâu nhất 21 ngày. Bệnh nhân<br />
trẻ sẽ tiếp tục đời sống sinh hoạt tình dục bình thường.<br />
Kết luận: Phẫu thuật nội soi là phẫu thuật ít xâm lấn, hiệu quả và an toàn trong điều trị rò bàng quang âm đạo. Tuy<br />
nhiên, chỉ nên thực hiện ở người có kinh nghiệm và kỹ năng phẫu thuật nội soi đường tiết niệu. Cần có thời gian và số lượng<br />
bệnh nhân để hoàn thiện kỹ thuật.<br />
Từ khóa: Rò bàng quang âm đạo, phẫu thuật nội soi.<br />
ABSTRACT<br />
<br />
LAPROSCOPIC TREATMENT IN EARLY INTERVENTION OF VESICO-VAGINAL<br />
FISTULA<br />
Tran Trong Tri, Thai Kinh Luan, Vu Duc Huy, Nguyen Thi Thai Ha Duong T, Hoang Khac Chuan,<br />
Dương Thi Kim Cuc,Chau Quy Thuan, Duong Quang Vu, Tran Ngoc Sinh<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 2 - 2010: 289 - 294<br />
Introduction and aims: Bladder injured in gynecological surgeries is not uncommon due to its vicinity to cervix and<br />
vagina resulting in fistula. Until now open abdominal or transvaginal approach was used as a modality of management. With the<br />
growing experience and expertise these case can be managed by laparoscopic route.<br />
Method: This retrospective study included 28 women operated laparoscopically for vesico vaginal fistula during<br />
February 2006 to June 2009. All patients were operated laparoscopically by trans abdominal trans vesical route. Patients were<br />
thoroughly investigated by IVU, cystoscopy and ultrasound. Per urethral catheter was kept for 2 weeks and extended if<br />
needed.<br />
Results: Of the 28 patients operate laparoscopically 1 patient had to be converted to open due to dense adhesions of the 27<br />
cases completed laparoscopically 2 had leak per vaginal following removal of per urethral catheter. The average operating time<br />
was 241 + 38 minutes ranging from 80 to 410 minutes. Hospital stay averaged 11 ± 1.9 days ranging from 7 to 21 days.<br />
Adult patients resumed to normal sexual life.<br />
Conclusions: Laparoscopic trans vaginal – vaginal fistula repair appears to be a safe and effective procedure that<br />
adheres to the principles of a trans abdominal trans vesical fistula repair while decreasing morbidity and improving cosmesis.<br />
Continued follow-up is required to determine its long-term efficacy compared with the accepted open transabdominal and<br />
transvaginal approaches.<br />
*Bác sĩ ñiều trị Khoa Tiết niệu bệnh viên Chợ Rẫy;<br />
** khoa Tiết niệu bệnh viện Chợ Rẫy- Trưởng Phân môn Tiết niệu ĐHYD Tp HCM;<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2010<br />
<br />
289<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
*** Bác sĩ nội trú Tiết niệu Trường ĐHYD Tp HCM<br />
Tác giả liên hệ: BS. Trần Trọng Trí, trantrongtri70@yahoo.com, 0918086162<br />
Keywords: Vesico-vaginal fistula, Laparoscopy.<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Rò bàng quang âm đạo là một vấn đề xã hội và phẫu thuật trong nhiều thế kỷ. Ở các nước phát triển hơn<br />
90% các trường hợp là do biến chứng của phẫu thuật vùng chậu hay xạ trị ung thư vùng chậu(4). Trong khi đó, ở<br />
các nước đang phát triển dò bàng quang âm đạo thường liên quan đến chuyển dạ kéo dài.<br />
Bằng chứng cổ xưa nhất của rò bàng quang âm đạo được phát hiện vào năm 1923, khi Derry phẫu tích xác<br />
ướp của nữ hoàng Henhenit (2050 trước công nguyên) ông phát hiện có một chỗ rò bàng quang âm đạo lớn.<br />
Tài liệu đầu tiên đề cập đến rò sinh dục được ghi lại trên sách giấy cói của bộ tộc Ebers vào khoảng năm 2000<br />
trước công nguyên. Tuy nhiên mãi đến năm 950 sau công nguyên Avicenna mới phát hiện mối tương quan giữa<br />
những thai kỳ sinh khó ở những phụ nữ trẻ với việc hình thành chỗ rò bàng quang âm đạo.<br />
Năm 1597, Luiz de Mercado đặt tên thuật ngữ là rò (fistula) được sử dụng (trước đó được gọi là ruptura).<br />
Nguyên tắc phẫu thuật để điều trị dò bàng quang âm đạo được Hedrik von Roonhuyse mô tả vào năm 1663. Sau<br />
đó, Johann Fatio sử dụng kỹ thuật của Roonhuyse lần đầu tiên đã vá rò bàng quang âm đạo thành công. Tuy<br />
nhiên mãi đến thế kỷ 19 việc vá rò bàng quang âm đạo thành công mới trở nên phổ biến.<br />
James Marion Sims có bài diễn thuyết nổi tiếng về điều trị rò bàng quang âm đạo vào năm 1852. Sims đã<br />
thành công ở lần phẫu thuật thứ 30 trên một nô lệ có tên là Anarcha. Sims nhấn mạnh tầm quan trọng của việc<br />
bộc lộ tốt, cắt mô sẹo ở bờ chỗ rò và âm đạo đủ rộng, và tầm quan trọng của dẫn lưu bàng quang liên tục sau mổ.<br />
Năm 1861, Maurice Collis lần đầu tiên báo cáo kỹ thuật khâu theo từng lớp và sau đó 1893 Schuchardt mô tả<br />
đường mổ cạnh trực tràng tạo thuận lợi cho quá trình bộc lộ trong vá rò bàng quang âm đạo thể cao.<br />
Trong những năm đầu thế kỉ XX, một vài kỹ thuật đã từng được sử dụng để làm tăng tính hiệu quả của việc<br />
vá rò bàng quang âm đạo. Thủ thuật của Latzko đã được tán thành với tỷ lệ thành công của ông lên đến 95 –<br />
100%. Năm 1950, O'Conor và Stovsky phổ biến đường mổ qua đường bụng.<br />
Từ đó đến nay, đã có nhiều kỹ thuật ngoại khoa được phát triển để sửa chữa tình huống không may này:<br />
qua ngã âm đạo, ngã bụng hay nội soi. Phẫu thuật nội soi ngay từ lúc mới đầu đã phát triển mạnh trong niệu<br />
khoa do là phẫu thuật ít xâm lấn, và rút ngắn thời gian bệnh. Hầu hết các phẫu thuật tạo hình trong niệu khoa có<br />
thể thực hiện được với phẫu thuật nội soi, và phẫu thuật khâu rò bàng quang âm đạo cũng có thể thực hiện để<br />
giúp bệnh nhân mau lành bệnh và hồi phục nhanh hơn so với phẫu thuật mở kinh điển.<br />
Từ năm 1994, Nezhat đã báo cáo điều trị rò bàng quang âm đạo qua nội soi ổ bụng(2).<br />
Tại bệnh viện Chợ Rẫy bắt đầu áp dụng phẫu thuật nội soi điều trị dò bàng quang âm đạo từ tháng 2/2006.<br />
Chúng tôi giới thiệu phương pháp tiến hành, rút kinh nghiệm và đánh giá kết quả bước đầu điều trị những bệnh<br />
nhân không may bị rò bàng quang- âm đạo.<br />
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU<br />
Đối tượng<br />
Bệnh nhân được chẩn đoán dò bàng quang âm đạo với soi bàng quang, làm nghiệm pháp 3 cục bông gòn,<br />
chụp X- quang hệ niệu có cản quang (UIV) và siêu âm để chẩn đoán phân biệt với dò niệu.quản- âm đạo. Chúng<br />
tôi lựa chọn những bệnh nhân có dò bàng quang âm đạo chưa được điều trị dò trước đó, hoặc đã mổ hở trước đó<br />
thất bại.<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2010<br />
<br />
290<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Hình 1: hình ảnh dò bàng quang âm đạo trên soi bàng quang và cystography.<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Tiền cứu, mô tả tất cả các trường hợp nhập viện điều trị được chẩn đoán xác định rò bàng quang- âm đạo có<br />
chỉ định mổ nội soi sớm không chờ đợi đến 3 tháng như kinh điển và ghi nhận về: nguyên nhân gây rò, thời gian<br />
từ khi rò đến lúc phẫu thuật, thương tổn rò, vị trí và số lượng trocar, thời gian mổ, phẫu thuật qua bàng quang<br />
hay qua ổ bụng, thời gian lưu thông bàng quang để chuyển lưu nước tiểu, theo dõi và đánh giá kết quả sau khi<br />
rút thông dẫn lưu bàng quang.<br />
Các bước tiến hành phẫu thuật<br />
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, nằm tư thế sản phụ khoa trong tất cả các trường hợp:<br />
- Phẫu thuật nội soi ổ bụng: Nội soi bàng quang đặt 2 thông niệu quản 6F. Vào ổ bụng bằng 1 trocar 10<br />
mm dưới rốn, quan sát đánh giá toàn ổ bụng và đặt 2 trocar 5 mm ở hai hố chậu. Tìm và đi vào mặt sau<br />
bàng quang dễ dàng thấy những dấu hiệu gián tiếp gần lỗ rò như: tổ chức co rút, chỉ khâu chưa tan, mạc nối<br />
hay các quai ruột đến bám…Bóc tách giải phóng các tổ chức hay tạng. Chủ động mở bàng quang đến vị trí<br />
lỗ rò, bóc tách riêng biệt 2 lớp, khâu âm đạo, khâu bàng quang riêng từng lớp (bàng quang có thể khâu mũi<br />
rời hay khâu vắt). Dẫn lưu Douglas. Đặt thông tiểu lưu tối thiểu 2- 3 tuần.<br />
- Phẫu thuật nội soi qua bàng quang: Bệnh nhân được soi bàng quang đánh giá kích thước, vị trí lỗ rò so với<br />
đường giữa, gờ liên niệu quản và 2 miệng niệu quản. Đặt 2 thông niệu quản 6 F để nhận diện và bảo vệ niệu quản<br />
trong suốt quá trình phẫu thuật và tiếp tục lưu thêm 4- 5 ngày hậu phẫu. Một cuộn gạc tròn trong 1 condom,<br />
được đặt trong âm đạo chèn lỗ rò để tránh cho bàng quang xẹp. Sau này chúng tôi khi soi bàng quang đặt một<br />
guidwire qua lỗ rò âm đạo, luồng sonde foley 10 Fr bơm bóng cố định không cho CO2 xì ra ngoài đồng thời làm<br />
móc để bóc tách lỗ rò. Dưới hướng dẫn của máy soi bàng quang đặt 2 trocar 10mm trên bụng vào bàng quang,<br />
đặt 1 trocar 5mm qua niệu đạo, khâu cố định các trocar và chuyển sang bơm hơi vào bàng quang, đẩy hết nước<br />
trong bàng quang sau đó tiến hành phẫu thuật nội soi. Vị trí 2 trocar trên bụng, phẫu thuật viên và màn hình<br />
monitor tùy thuộc vị trí lỗ rò. Tiến hành bóc tách xuyên bàng quang và âm đạo thành 2 lớp riêng biệt rộng rãi,<br />
khâu lại từng lớp với mũi khâu rời bằng Vicryl 2.0 hoặc 3.0, xóa khoảng chết, tránh chảy máu. Mở bàng quang ra<br />
da và đặt thông niệu đạo lưu.<br />
KẾT QUẢ<br />
Trong thời gian từ tháng 2 năm 2006 đến tháng 6 năm 2009 tại Khoa Tiết niệu bệnh viện Chợ Rẫy phẫu thuật<br />
nội soi khâu rò bàng quang âm đạo cho 25 trường hợp.<br />
- Tuổi trung bình: 47 ± 2,9, tuổi lớn nhất 71 tuổi, nhỏ nhất 36 tuổi.<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2010<br />
<br />
291<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
- Nguyên nhân gây rò:<br />
Nguyên nhân<br />
Mổ bắt con do bất xứng ñầu chậu<br />
Mổ cắt tử cung và 2 phần phụ (mổ<br />
hở)<br />
Mổ cắt tử cung và 2 phần phụ (nội<br />
soi)<br />
Vết mỗ củ<br />
Cộng<br />
<br />
Số ca<br />
1<br />
19<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
03.6<br />
67.8<br />
<br />
3<br />
<br />
10.7<br />
<br />
5<br />
28<br />
<br />
17.9<br />
100<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
- Thời gian từ khi phát hiện rò đến lúc phẫu thuật: 26 ± 21 tháng, sớm nhất 1 tháng và lâu nhất 240 tháng.<br />
Trong 25 trường hợp có một trường hợp lỗ rò để hơn 20 năm (bệnh nhân được mổ bắt con năm 1973, đến năm<br />
1987 mổ sỏi bàng quang; một trường hợp biết rò bàng quang hơn 10 năm).<br />
- Thời gian phẫu thuật trung bình: 214 ± 38 phút, nhanh nhất 80 phút, lâu nhất 410 phút.<br />
- Thời gian nằm viện trung bình: 11 ± 1,9 ngày. Sớm nhất 7 ngày, lâu nhất 21 ngày. Đây là hai bệnh nhân<br />
người Campuchia muốn chắc chắn hết rò mới về.<br />
- Diện tích lỗ rò trung bình: 1,7 ± 0,2 cm (nhỏ nhất, lớn nhất).<br />
- Có 16 trường hợp phẫu thuật nội soi qua ổ bụng. 14 trường hợp chủ động chỉ định ngay từ đầu,2 trường<br />
hợp quyết định ban đầu là nội soi xuyên bàng quang nhưng khi đặt trocar thấy bàng quang không căng và hơi<br />
thoát vào ổ bụng quyết định chuyển sang nội soi ổ bụng.1 trường hợp nội soi vào ổ bụng phát hiện đại tràng<br />
sigma bám chặc tử cung và túi cùng Douglas nên chuyển sang mổ hở.<br />
- 12 trường hợp nội soi xuyên bàng quang thành công với hai trocar 10mm ở trên xương mu và một trocar<br />
5mm ở niệu đạo<br />
- Thời gian lưu thông bàng quang chuyển lưu nước tiểu: 14 ± 1.7 ngày, sớm nhất 14 ngày, lâu nhất 21 ngày<br />
(bệnh nhân người Campuchia).<br />
- Có trường hợp nào phải chuyển mổ hở, là do bệnh nhân được mổ cắt tử cung, do ung thư cổ tử cung.<br />
- Kết quả bước đầu:<br />
Kết quả<br />
Thành công<br />
Tái phát<br />
Cộng<br />
<br />
Số ca<br />
25<br />
02<br />
27<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
92.6<br />
0.74<br />
100<br />
<br />
Hình 2: Khâu chỗ rò bàng quang âm đạo qua nội soi ổ bụng và qua nội soi bàng quang.<br />
BÀN LUẬN<br />
Nguyên nhân<br />
Nguyên nhân gây rò bàng quang âm đạo đối với các nước phát triển hơn 90% do tổn thương phẫu<br />
thuật sản phụ khoa trong đó nguyên nhân đứng hàng đầu là do cắt tử ung qua ngả bụng với tỷ lệ 1/1800<br />
hoặc do xạ trị ung thư vùng chậu. Trong khi đó, ở các nước đang phát triển thì nguyên nhân gây rò thường<br />
liên quan đến chuyển dạ kéo dài và thương tổn thường phức tạp. Trong nghiên cứu của chúng tôi nguyên<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2010<br />
<br />
292<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
nhân gây rò chủ yếu do cắt tử cung 19/28 trường hợp (67,8%) chỉ 1 trường hợp do chuyển dạ kéo dài phải<br />
mổ bắt con do bất xứng đầu chậu, thương tổn lớn 3 cm. Không có trường hợp nào do xạ trị.<br />
Chẩn đoán<br />
Không khó khăn với soi bàng quang, nghiệm pháp ba cục bông gòn. Siêu âm bụng và chụp x quang hệ niệu<br />
có cản quang để phát hiện thương tổn kèm theo, 10% rò bàng quang âm đạo có kèm theo rò niệu quản. Trong<br />
nghiên cứu này không có trường hợp nào có tổn thương kèm theo.<br />
Diện tích lỗ rò<br />
Với lỗ rò nhỏ từ 2 - 3 mm có thể điều trị bảo tồn với đặt thông tiểu tùy tác giả, thời gian đặt thông điều trị bảo<br />
tồn từ 4 - 12 tuần. Trong nghiên cứu này lỗ rò trung bình 1,7 ± 0,2 cm, có 2 trường hợp lỗ rò có kèm chỉ khâu sau<br />
khi cắt chỉ lỗ rò lớn 3 cm, không có trường hợp hợp nào điều trị bảo tồn.<br />
Thời gian từ khi rò đến lúc phẫu thuật<br />
Thời gian từ khi rò đến lúc phẫu thuật vẫn còn nhiều bàn cãi. Trước đây đa số các tác giả đề nghị thời gian<br />
thích hợp để tiến hành phẫu thuật từ 8 đến 12 tuần sau khi phát hiện thương tổn rò để tránh viêm nhiễm, phù nề<br />
và hoại tử mô nhất là những trường hợp chuyển dạ kéo dài. Tuy nhiên, gần đây với những thương tổn rò không<br />
phức tạp, tình trạng mô âm đạo tương đối không rối loạn do lần mổ trước, thể trạng bệnh nhân tốt có thể tiến<br />
hành mổ sớm ngay sau khi phát hiện rò(1) (Margolis and Mercer, 1994; Blandy et al, 1991; Blaivas et al, 1995;<br />
Langkilde et al, 1999) và tỷ lệ thành công lên tới 90% trong mổ hở. Trong nghiên cứu của chúng tôi thời gian tiến<br />
hành phẫu thuật sau khi phát hiện dò trung bình 2-3 tháng, sớm nhất 1 tháng và trễ nhất là hơn 20 năm (1 trường<br />
hợp).<br />
Thời gian gần đây, khoa Tiết niệu của bệnh viện Chợ Rẫy đã bắt đầu tiến hành mổ sớm những trường hợp<br />
phát hiện và chẩn đoán rò bàng quang âm đạo, điều này giúp cho bệnh nhân không phải chịu đựng cảnh nước<br />
tiểu ra âm đạo liên tục, phải mang tã lót liên tục, rất bất tiện cho việc đi lại, sinh hoạt, làm việc, hoàn toàn xa lánh<br />
mọi người.Thậm chí, một số cặp vợ chồng trẻ gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt vợ chồng.<br />
Phương pháp phẫu thuật<br />
Phẫu thuật nội soi cung cấp một phương pháp để thay thế phẫu thuật mổ mở, tôn trọng các nguyên tắc phẫu<br />
thuật: bộc lộ rõ đường rò, cắt bỏ mô xơ quanh lỗ rò, bóc tách rộng rãi giữa 2 lớp, không khâu căng, tránh chảy<br />
máu, tránh khoảng chết, nhét mạc nối giữa bàng quang và âm đạo, dẫn lưu bàng quang hiệu quả (Sotelo et al,<br />
2005)(5). Việc lựa chọn đường vào tùy thuộc thói quen và kinh nghiệm của phẫu thuật viên.<br />
Khởi đầu nghiên cứu chúng tôi chọn ngã nội soi qua ổ bụng, nhưng sau khi triển khai nội soi qua ngã bàng<br />
quang để cắm lại niệu quản, túi thừa bàng quang… chúng tôi nhận thấy có nhiều thuận lợi hơn và nhẹ nhàng<br />
hơn cho bệnh nhân nhưng với 3 điều kiện cần: Dung tích bàng quang, độ giãn nở của bàng quang và vị trí đặt<br />
trocar thuận lợi.<br />
Sotelo<br />
Bệnh viện<br />
Tác giả<br />
Percy Jal<br />
(1)<br />
(5)<br />
2005<br />
Chợ Rẫy<br />
Chibber<br />
(n = 8)<br />
(n = 15)<br />
(n = 27)<br />
Thời gian phẫu 220 (190–280)<br />
168<br />
214 ± 38<br />
thuật (phút)<br />
Thời gian lưu<br />
14,8<br />
14<br />
14 ± 1.7<br />
thông BQ (ngày)<br />
Thời gian nằm<br />
10,5<br />
3<br />
11 ± 1.9<br />
viện (ngày)<br />
Thời gian theo dõi<br />
3- 40<br />
3 – 60<br />
1–9<br />
(tháng)<br />
Thành công (%)<br />
8/8 (100%) 14/15 (93%) 25/27 (92,6<br />
%)<br />
Kết quả phẫu thuật<br />
Tỷ lệ thành công phẫu thuật dò bàng quang âm đạo khoảng 75 – 95%, thất bại khoảng 10%. Tỷ lệ thành công<br />
của phẫu thuật nội soi của chúng tôi không khác với các tác giả tại các trung tâm khác. Tuy nhiên theo Theobald<br />
phẫu thuật nội soi điều trị rò bàng quang âm đạo có thể thay thế phẫu thuật mổ hở với những phẫu thuật viên<br />
kinh nghiệm và quen với phẫu thuật nội soi đường tiết niệu(6).<br />
Tác giả (năm)<br />
Số bệnh Tỷ lệ thành Phương<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2010<br />
<br />
293<br />
<br />