TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 7 (32) - Thaùng 9/2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Ẩn dụ tri nhận trong một số bút ký<br />
của Hoàng Phủ Ngọc Tường<br />
<br />
Cognitive metaphors in Hoang Phu Ngoc Tuong’s literary memoirs<br />
<br />
ThS. Đậu Thành Vinh<br />
Trường THPT Dầu Giây – Đồng Nai<br />
<br />
M.A. Dau Thanh Vinh<br />
Dau Giay High School – Dong Nai<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Bài viết khảo sát một số bút ký của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường trên phương diện ngôn ngữ học tri<br />
nhận. Thông qua những ẩn dụ tri nhận, người viết đề cập đến hai nội dung cơ bản:<br />
- Các cách ý niệm về thiên nhiên trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường.<br />
- Các cách ý niệm về nghiệm thân trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường.<br />
Trên cơ sở đó, bước đầu tìm hiểu những đặc điểm về phong cách ngôn ngữ của nhà văn Hoàng Phủ<br />
Ngọc Tường ở góc độ ẩn dụ tri nhận.<br />
Từ khóa: ẩn dụ tri nhận, Hoàng Phủ Ngọc Tường, ý niệm thiên nhiên, ý niệm nghiệm thân...<br />
Abstract<br />
The artical surveys some signing of the author Hoang Phu Ngoc Tuong based on the aspect of Cognitive<br />
linguistics. Through Cognitive Metaphors, the writer mentions two basic contents:<br />
- The concept of nature in the signing of Hoang Phu Ngoc Tuong.<br />
- The concept of humans in the pen signing of Hoang Phu Ngoc Tuong.<br />
On the ground, the first step is carried out to find out the characteristics of individual style of the<br />
author from the Cognitive angle.<br />
Keywords: cognitive metaphors, Hoang Phu Ngoc Tuong, the concept of nature, the concept of<br />
humans...<br />
<br />
<br />
1. Ngôn ngữ học tri nhận ra đời với người suy nghĩ với tất cả các vấn đề trong<br />
những cách nhìn, cách đánh giá hoàn toàn cuộc sống từ đơn giản đến phức tạp. Ẩn dụ<br />
khác với ngôn ngữ học truyền thống, đã không còn chỉ bó hẹp trong địa hạt văn<br />
đưa bộ máy khái niệm ẩn dụ và các thao chương mà là thuộc tính của tư duy. Xây<br />
tác nghiên cứu hữu quan lên một tầm nhận dựng thuyết ẩn dụ, ngôn ngữ học tri nhận<br />
thức mới. Ẩn dụ là hiện tượng không thể đã mang đến cho ngôn ngữ học một cách<br />
thiếu của con người, nếu con người còn tiếp cận rất có triển vọng.<br />
muốn sử dụng ngôn ngữ như một phương Thành tựu của ngôn ngữ học tri nhận<br />
tiện giao tiếp quan trọng nhất. Nó giúp con của thế giới đã được vận dụng để miêu tả<br />
<br />
95<br />
ẨN DỤ TRI NHẬN TRONG MỘT SỐ BÚT KÝ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG<br />
<br />
<br />
một số trường ý niệm trong tiếng Việt như: từ nguồn ra biển” miêu tả về quá trình mò<br />
định vị không gian; vai trò của sông nước, mẫm đến với cách mạng của một tri thức<br />
cỏ cây, thực phẩm trong việc ý niệm hóa, miền Nam cho nên diễn ngôn xuất hiện<br />
phạm trù hóa của người Việt. Thế nhưng nhiều ẩn dụ liên quan đến ý niệm ánh sáng<br />
cho đến nay chưa có công trình nào vận (chân lý), đui mù, bóng tối (mê muội) và cả<br />
dụng lý thuyết ẩn dụ tri nhận của châu Âu trở ngại trên hành trình (khó khăn). Thế<br />
để tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ như một nhưng “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, “Đời<br />
hình thái phong cách cá nhân của một nhà rừng”, “Hoa trái quanh tôi” lại thiên về chủ<br />
văn cụ thể. đề thiên nhiên Huế, con người Huế. Và dĩ<br />
Đã có những bài viết, những công nhiên như đã nói, chủ đề miêu tả không thể<br />
trình nghiên cứu về giá trị các tác phẩm không ảnh hưởng đến sự lựa chọn ngôn từ<br />
của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tuy nhiên có của tác giả.<br />
thể nói được rằng, các đúc kết ấy chỉ bó 3.1. Về phương diện lý thuyết, trong<br />
hẹp trong lĩnh vực văn học. Bài viết này quá trình cọ xát với tự nhiên, con người<br />
thông qua việc khảo sát một số truyện ký, cho rằng hoặc có thể chinh phục được nó<br />
thử xác lập đặc điểm ngôn ngữ trong một hoặc có thể phụ thuộc vào nó. Với chủ<br />
số mô hình tri nhận nổi trội của tác giả này. trương tri nhận là một quá trình tương tác,<br />
2. Mặc dù lý thuyết ngôn ngữ học nói tri nhận luận thừa nhận, con người không<br />
chung, lý thuyết ẩn dụ tri nhận nói riêng thể không để lại dấu ấn lên hiện thực, đến<br />
chỉ mới ra đời cách nay gần nửa thế kỷ thế lượt nó, hiện thực không thể không tác động<br />
nhưng các đường hướng tiếp cận rất phức lên con người. Đây là những nguyên lý có<br />
tạp. Liên quan đến vấn đề đang bàn, người tính chất phổ quát cho toàn thể nhân loại.<br />
ta hay đề cập đến bốn loại ẩn dụ sau: ẩn dụ Có thể nói, bên cạnh các ẩn dụ tri<br />
cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định vị và ẩn nhận phổ biến thuộc nhiều cấp độ khác<br />
dụ đường dẫn. Hiển nhiên, cùng một ngữ nhau như: Thiên nhiên là con người,<br />
liệu dựa vào các tiêu chí khác nhau có thể Hoàng Phủ Ngọc Tường đã địa phương<br />
có những cách phân loại khác nhau. Ngay hoá thành các ẩn dụ bậc dưới Thiên nhiên<br />
cả G. Lakoff và M. Jonhnson (1980), Huế là con người Huế, Cây vườn Huế là<br />
những tác giả đã góp phần không nhỏ vào con người Huế. Ví dụ ẩn dụ khái quát: “Có<br />
bức tranh phân loại ẩn dụ giai đoạn đầu, lẽ thiên nhiên Việt Nam cũng có sức sống<br />
thế nhưng đến năm 2003 trong tác phẩm tái dẻo dai giống con người Việt Nam [1,<br />
bản vừa dẫn, các tác giả này cũng tự phủ tr.364]. Hãy quan sát hai ẩn dụ cụ thể sau:<br />
định mình và cho rằng: cách hình dung bên - Ẩn dụ cụ thể 1: “Vườn Huế, dù giàu<br />
trên là không hợp lý. Do vậy, bài viết này hay nghèo thường vẫn có cổng gạch, mái<br />
không đi sâu vào việc phân loại mà cố gắng khá rộng, phía ngoài trồng vài cây có quả,<br />
tập hợp miêu tả, phân tích một số ẩn dụ liên ấy là chỗ dừng chân qua cơn mưa, là chút<br />
quan đến một số miền ý niệm quen thuộc bóng mát dành cho người đi đường, là chút<br />
trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường. lộc hoa dành cho trẻ con trong xóm, cổng<br />
3. Khảo sát bước đầu có thể ghi nhận nhìn ra nên luôn ngụ tấm lòng người thơm<br />
chủ đề trong bút ký ảnh hưởng rất nhiều thảo” [1, tr.374].<br />
đến cơ chế tri nhận, cụ thể ảnh hưởng đến - Ẩn dụ cụ thể 2: “Tôi bắt gặp cả<br />
sự lựa chọn các miền nguồn như những những chiếc nón bài thơ mảnh khảnh bọc<br />
nền tảng cơ sở để phóng chiếu lên miền ni lông giữ gìn cẩn thận từ năm này qua<br />
đích. Chẳng hạn, tác phẩm “Như con sông năm khác mà lâu lâu người chủ nó lại đem<br />
<br />
96<br />
ĐẬU THÀNH VINH<br />
<br />
<br />
ra soi bên bếp lửa đánh vần từng chữ. người Huế: “Trước khi về với vùng châu<br />
Đường về xứ Huế xinh xinh, sông Hương thổ êm đềm, nó (sông Hương) đã là một<br />
núi ngự cảm tình xiết bao” [1, tr.22]. bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa<br />
Dễ thấy, ẩn dụ tri nhận khái quát trừu những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua<br />
tượng có thể bắt gặp trong nhiều ngôn ngữ, những ghềnh thác, cuộn xoáy như những<br />
còn các ẩn dụ nguyên cấp dễ quan sát cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng<br />
thường xuất hiện trong những ngôn ngữ cụ có những lúc nó trở nên dịu dàng say đắm<br />
thể. Dựa vào đặc điểm này, Hoàng Phủ giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của<br />
Ngọc Tường đã thổi vào trang viết của hoa đỗ quyên rừng. [1, tr.316].<br />
mình cái chất Huế, cái hồn Huế một cách tự 3.3. Với cách hình dung như 3.1 và<br />
nhiên mà người đọc không thấy gượng ép. 3.2, trong giới hạn các tác phẩm đã khảo<br />
3.2. Trong tâm thức của người Việt, sát, chúng ta có thể tổng kết mối quan hệ<br />
sông nước có một vai trò hết sức quan giữa ý niệm nguồn và ý niệm đích. Cần lưu<br />
trọng, sông nước được hình dung như một ý, theo các nhà tri nhận luận, thường con<br />
con người, hành trình của dòng sông là người thông qua những sự vật, hiện tượng<br />
hành trình của đời người, thậm chí con cụ thể có tính vật chất, hữu hình dễ quan<br />
người sinh ra từ nước và khi chết cũng trở sát, để nhận thức sự vật hiện tượng trừu<br />
về với nước. Trên nền tảng ấy, Hoàng Phủ tượng phi vật chất ít được trải nghiệm. Do<br />
Ngọc Tường một mặt, khai thác tối đa vậy không có gì ngạc nhiên khi con người<br />
không gian tinh thần đã trở thành máu thịt dùng ý niệm nguồn là thiên nhiên, là dòng<br />
của người Việt, mặt khác đã cố khắc họa cá sông để nhận thức về con người. Cách<br />
tính của dòng sông Hương theo các kiểu ẩn chọn lựa ngôn từ của Hoàng Phủ Ngọc<br />
dụ khác nhau. Có thể kể đến các ẩn dụ cụ Tường vẫn nằm trong quỹ đạo này, bên<br />
thể như sau: Sông Hương là con người Huế cạch đó, tác giả còn khắc hoạ thêm cá tính,<br />
hay thậm chí là những tầng lớp cụ thể của đặc trưng của Huế thông qua các ẩn dụ cụ<br />
xã hội Huế như: người mẹ “cần cù, người thể. Điều này một mặt làm cho những trang<br />
mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”, viết của ông dù là bút ký, một thể loại ghi<br />
“người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa chép nhưng vẫn mang đậm tính chất học<br />
cách đồng Châu Hóa”, “người tài nữ đánh thuật, mặt khác những phân tích về Huế<br />
đàn lúc đêm khuya”, “cô gái thành tiên thông qua các ẩn dụ đã tạo nên một bút<br />
trong truyện cổ tích thuỳ mị”. Có lẽ ẩn dụ pháp khó lẫn lộn. Có thể tóm tắt mối quan<br />
sau đây đã tổng kết khá đầy đủ “tính tình” hệ giữa ý niệm nguồn và ý niệm đích trong<br />
của sông Hương và cũng là đặc điểm của bút ký của tác giả bằng bảng sau:<br />
<br />
<br />
STT Ý NIỆM NGUỒN Ý NIỆM ĐÍCH<br />
1 Con ong Con người<br />
2 Động vật Kẻ xâm lược<br />
3 Thiên nhiên Con người<br />
4 Rừng cây Sinh thể<br />
5 Rừng cây Anh hùng<br />
<br />
97<br />
ẨN DỤ TRI NHẬN TRONG MỘT SỐ BÚT KÝ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG<br />
<br />
<br />
6 Rừng cây Người mẹ<br />
7 Rừng cây Người đẹp<br />
8 Động vật Con người<br />
9 Cây cối Nhân chứng<br />
10 Dòng song Con người<br />
11 Mặt đất Tâm hồn<br />
12 Cây cối Nhân chứng<br />
13 Hoa hồng Chiến thắng<br />
14 Lửa Tình cảm, nhiệt tình<br />
15 Con dốc Khó khăn<br />
16 Núi non Con người<br />
<br />
Có thể thấy, trên nền tảng những đặc là xuống, sống là lên, chết là xuống, tích<br />
điểm do tương tác mà có, nói khác, Hoàng cực là rộng, là sáng, tiêu cực là hẹp, là tối.<br />
Phủ Ngọc Tường từ những trải nghiệm của Liên quan trực tiếp đến vấn đề đang bàn là<br />
chính mình đã gán cho sự vật hiện tượng giá trị biểu trưng của các bộ phận cơ thể<br />
trong một số trường hợp trên tất cả cho con người. Tuy chưa có điều kiện khảo sát<br />
thấy tình cảm gắn bó với quê hương sâu tất cả những tác phẩm của Hoàng Phủ<br />
đậm như thế nào của tác giả. Công bằng Ngọc Tường nhưng có thể ghi nhận bước<br />
mà nói, thiên nhiên là con người, rừng cây đầu, bên cạnh việc dùng đầu biểu trưng cho<br />
là con người; có thể thấy cách hình dung lý trí, trí tuệ, trái tim biểu trưng cho tình<br />
này xuất hiện ở các tác giả khác nhưng để cảm, cảm xúc, tùy theo ngữ cảnh ta thấy<br />
có được những ẩn dụ bậc dưới về Huế, về tác giả còn dùng các cơ quan nội tạng như:<br />
con người Huế thì sâu sắc nhất vẫn là ngòi bụng, dạ, lòng, ruột, gan với cùng chức<br />
bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. năng như hai bộ phận trước. Điều này, có<br />
4. Một trong những vấn đề làm nên thể giải thích được, cách phân chia có tính<br />
hạt nhân của ngôn ngữ học tri nhận là lý chất nhị nguyên: đầu/tim là ảnh hưởng của<br />
thuyết nghiệm thân. Nói rõ hơn, thông qua triết học phương Tây còn có cách lý giải<br />
những kinh nghiệm với chính cơ thể mình, bụng/dạ ảnh hưởng của tri thức dân gian<br />
con người dùng nó như trải nghiệm cơ bản phương Đông (11). Riêng về phương diện<br />
để nhận thức các sự vật hiện tượng khác. này phần nào cho thấy tính chất dung hợp<br />
Chẳng hạn, tư thế thẳng đứng của con như một quan điểm kế thừa trong bút pháp<br />
người trong lúc di chuyển, tư thế ngang của ông. Theo quan sát của chúng tôi trong<br />
trong lúc nằm, di chuyển một cách tách 100 ẩn dụ nghiệm thân, sự phân bố các bộ<br />
biệt trên mặt phẳng. Tất cả những trải phận cơ thể trong bút ký của Hoàng Phủ<br />
nghiệm này đều được dùng để phóng chiếu Ngọc Tường có thể hình dung bằng bảng<br />
lên hiện thực như: vui thì thường được tổng kết như sau:<br />
hình dung là lên, buồn thì được hình dung<br />
<br />
98<br />
ĐẬU THÀNH VINH<br />
<br />
<br />
STT BỘ PHẬN CƠ THỂ GIÁ TRỊ BIỂU TRƯNG<br />
1 Đầu Lý trí, trí tuệ<br />
2 Tim Tình cảm, cảm xúc<br />
3 Bụng Tính tình, cách ứng xử, tình cảm<br />
4 Dạ Trí tuệ, trạng thái tâm lý<br />
5 Ruột Tâm trạng, cảm xúc<br />
6 Lòng Cảm xúc, tình cảm, trạng thái<br />
7 Gan Ý chí, can đảm<br />
8 Các bộ phận khác Nghĩa tuỳ thuộc vào ngữ cảnh<br />
<br />
Có thể ghi nhận bao trùm lên tất cả là Chúng ta không thể có được sự đánh<br />
ẩn dụ các bộ phận cơ thể con người là vật giá cao về chức năng của tư duy ẩn dụ<br />
chứa có thể được định vị bên trong hay bên trong văn học hay trong đời sống con<br />
ngoài. Hình như Hoàng Phủ Ngọc Tường người, nếu không có kiến thức sơ bộ về ẩn<br />
chưa có ý thức khai thác đặc trưng này, cho dụ là gì và nó hình thành như thế nào.<br />
nên những mô tả của ông không có khác Những khám phá gần đây về mặt bản thể<br />
biệt gì nhiều so với không gian tinh thần của nó đã cho thấy ẩn dụ sẽ không là gì cả<br />
của người Việt. nếu như nó ở ngoại vi đời sống tinh thần.<br />
5. Ẩn dụ tri nhận là lĩnh vực khá mới Trái lại, ẩn dụ tri nhận là trung tâm đối với<br />
mẻ trong ngành ngôn ngữ. Tuy vậy, đây là sự hiểu biết của chúng ta với chính bản<br />
lĩnh vực phát triển mạnh mẽ vượt ra ngoài thân mình và xã hội. Văn chương thông<br />
phạm trù văn chương. Ẩn dụ tri nhận là sự qua ẩn dụ, phát triển năng lực tinh thần, thể<br />
mở rộng tri thức, cung cấp sự hiểu biết về hiện cá tính sáng tạo dựa vào các lược đồ<br />
một đối tượng này thông qua sự hiểu biết thường qui.<br />
về một đối tượng khác. Bằng cách đó, con Ẩn dụ tri nhận là một bộ phận hợp<br />
người tạo ra cho mình sự hiểu biết về một thành của sự sáng tạo ngôn ngữ và khả<br />
đối tượng khác đã biết. Phạm vi hành chức năng nhận thức của con người về thế giới<br />
của ẩn dụ rất rộng: trong văn học, nghệ khách quan. Ngôn ngữ học tri nhận với hệ<br />
thuật và hầu hết các lĩnh vực đời sống lí thuyết ẩn dụ ý niệm, hiện nay được nhiều<br />
thường nhật. Ẩn dụ không chỉ là phương nhà nghiên cứu chú ý và được vận dụng<br />
tiện và cách thức biểu hiện của ngôn ngữ nối kết hai miền ý niệm xảy ra trong quá<br />
mà nó còn là phương thức tư duy. Nó là trình tư duy của con người. Các nhà ngôn<br />
một quá trình thao tác của tư duy dẫn đến ngữ học tri nhận hi vọng tìm ra những<br />
tri nhận thế giới, tạo ra nền tảng tri thức điểm mới về bản chất của ẩn dụ mà những<br />
mới dựa trên nền tảng những cái đã biết. quan niệm truyền thống dường như chưa<br />
Xuất phát từ phương thức ẩn dụ mà bao quát đầy đủ. Đó là chuyển tâm điểm<br />
con người có thể nhận biết thế giới, gồm của sự chú ý từ ẩn dụ trong ngôn ngữ sang<br />
thế giới vật chất, thế giới tinh thần, thế giới ẩn dụ trong trí não, xem đó là chìa khóa<br />
cảm xúc. Ẩn dụ gắn liền với đặc trưng văn mở ra sự hiểu biết những cơ sở của tư duy,<br />
hóa của người bản ngữ. là hoạt động của quá trình nhận thức. Bài<br />
<br />
<br />
99<br />
ẨN DỤ TRI NHẬN TRONG MỘT SỐ BÚT KÝ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG<br />
<br />
<br />
viết ngắn này, chúng tôi khảo sát các ẩn dụ nhận mặt thay thế cho con người, rừng cây<br />
tri nhận về con người và thiên nhiên trong là con người, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã<br />
các truyện ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất nhiều lần đề cập đến bộ mặt của rừng<br />
theo quan niệm ẩn dụ tri nhận của Lakoff cây. Hay như đã nói, từ ẩn dụ gần gũi vật<br />
và Johnson. Bên cạnh đó, những khám phá chất là gần gũi con người, Hoàng phủ<br />
mới về những đặc điểm của các yếu tố Ngọc Tường đã đề cập đến giá trị truyền<br />
ngôn ngữ trên bình diện ẩn dụ trong ký của thống của chiếc nón bài thơ Huế; nón bài<br />
ông cũng được nhìn nhận và đánh giá lại. thơ Huế chính là con người Huế.<br />
Có thể thấy, bản chất thiên nhiên và - Tổng hợp, đây là phương thức thông<br />
con người Huế đã được Hoàng Phủ Ngọc qua các ẩn dụ thường qui, cùng một lúc<br />
Tường mô tả một cách tài hoa. Nói khái khai thác nhiều loại ẩn dụ như: ẩn dụ chi<br />
quát, từ ẩn dụ thiên nhiên và con người, tiết hóa, ẩn dụ mở rộng nghĩa, ẩn dụ tra<br />
thậm chí là sông Hương và nói rộng ra là vấn, thậm chí kết hợp với các hoán dụ,<br />
bối cảnh Huế, là con người Huế. Phải gắn nhân hoá, so sánh. Hoàng Phủ Ngọc Tường<br />
bó máu thịt với Huế như thế nào mới có đã sử dụng một cách uyển chuyển tất cả<br />
được những trang viết sâu nặng, mới có thể các phương thức trên, chính điều này đã<br />
miêu tả, khắc họa sinh động được như thế. làm nên tính chất trí tuệ trong bút ký của<br />
Zotan Kovecses có lý khi cho rằng, ông và cũng chính điều này, từ phía người<br />
mọi sáng tạo có tính cá nhân của nhà văn đọc, việc nhận hiểu và lý giải tác phẩm của<br />
đều dựa vào không gian tinh thần bản ngữ. ông một cách thấu đáo quả là điều không<br />
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không phải dễ dàng.<br />
là ngoại lệ, ông thường xây dựng ẩn dụ Như vậy, xét cả trên bình diện các ẩn<br />
thông qua các phương thức khai thác sau: dụ thường quy khái quát và cả những ẩn dụ<br />
- Chi tiết hóa, tức thông qua một số ẩn mang tính sáng tạo cá nhân, Hoàng Phủ<br />
dụ tri nhận có tính khái quát, nhà văn đã cụ Ngọc Tường đều sử dụng một cách đa<br />
thể hóa các ẩn dụ ấy bằng những cảm nhận dạng phong phú, bằng cách kết hợp nhiều<br />
riêng của mình, ví dụ: xuất phát từ ẩn dụ: loại ẩn dụ khác nhau. Rất tiếc, do điều kiện<br />
đời người là cỏ cây, đời người là một năm, hạn chế của một bài báo ngắn, chúng tôi<br />
nói rõ hơn, các mùa xuân, hạ, thu, đông chưa có dịp khảo sát kỹ, chưa phân loại<br />
được ánh xạ như cuộc đời của một con một cách chi tiết, mà ở đây chỉ có tính chất<br />
người, mùa xuân là tuổi trẻ, mùa đông là đặt vấn đề cho những nghiên cứu tiếp theo.<br />
tuổi già xế bóng, ánh sáng là sự sống, bóng<br />
tối là cái chết. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
mô tả một cách chi tiết con người Huế 1. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập,<br />
thông qua cây cỏ như thế nào. Các mùa tập 2 – Bút ký, Nxb Trẻ.<br />
Xuân, Hạ, Thu, Đông và những biểu hiện 2. Kövecses Z. (2005), Metaphor in Culture<br />
của con người Huế như thế nào và cuối Universality and Variation, Cambridge<br />
cùng thời gian là quy luật của tạo hóa với University Press, Cambrige.<br />
những dấu ấn và đặc điểm được miêu tả 3. Lakoff G and Johnson M. (1980, 2003),<br />
qua không gian, thời gian Huế như thế nào. Metaphors we live by, The university of<br />
- Mở rộng nghĩa, phương thức này cho Chicago, The United States of American.<br />
thấy sự chuyển nghĩa không những dựa 4. Lakoff G. and Johnson M. (1989), More than<br />
vào ẩn dụ tri nhận mà còn dựa vào cả hoán cool reason: A field guide to poetic metaphor,<br />
dụ tri nhận. Ví dụ: Xuất phát từ cách tri The university of Chicago, Chicago.<br />
<br />
<br />
100<br />
ĐẬU THÀNH VINH<br />
<br />
<br />
5. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng Văn hoá nhận”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, (1, 2),<br />
– Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb tr.2-15.<br />
Từ điển Bách khoa.<br />
10. Trịnh Sâm (2014), “Miền ý niệm sông nước<br />
6. Sharifian F. (2011), Cultural conceptualization, trong tri nhận của người Nam Bộ” trong<br />
John Benjamins publishing company, “Ngôn ngữ học Việt Nam trong bối cảnh đổi<br />
Amsterdam/Philadelphia. mới và hội nhập”, kỷ yếu Hội thảo quốc tế,<br />
7. Trịnh Sâm (2011), “Miền ý niệm sông nước Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.<br />
trong tri nhận của người Việt”, Tạp chí 11. Trịnh Sâm (2014), “Một vài nhận xét về ý<br />
Ngôn ngữ, (12), tr.1-15. niệm “Tim””, Tạp chí Từ điển học và bách<br />
8. Trịnh Sâm (2011), “Dòng sông và cuộc đời”, khoa thư số 4.<br />
Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, (10), tr.31-34. 12. Trịnh Sâm, (2015), “Hình thức và nội dung<br />
9. Trịnh Sâm (2013), “Phong cách ngôn ngữ Hồ trong tri nhận luận” (một vài ghi nhận), Tạp<br />
Chí Minh, nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri chí ngôn ngữ số 7.<br />
<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 28/6/2015 Biên tập xong: 15/9/2015 Duyệt đăng: 20/9/2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
101<br />