intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của axit boric lên khả năng sống của tế bào gốc dây chằng nha chu người in vitro

Chia sẻ: ViHani2711 ViHani2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

14
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xác định mức độ ảnh hưởng của axit boric ở các nồng độ khác nhau lên khả năng sống của tế bào gốc dây chằng nha chu người (hPDLSCs), nhằm cung cấp bằng chứng cho việc lựa chọn nồng độ axit boric thích hợp để ứng dụng trong lâm sàng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của axit boric lên khả năng sống của tế bào gốc dây chằng nha chu người in vitro

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học<br /> <br /> <br /> ẢNH HƯỞNG CỦA AXIT BORIC LÊN KHẢ NĂNG SỐNG<br /> CỦA TẾ BÀO GỐC DÂY CHẰNG NHA CHU NGƯỜI IN VITRO<br /> Nguyễn Thị Thu Sương*, Nguyễn Thị Ngọc Mỹ**, Phạm Anh Vũ Thụy***<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: Xác định mức độ ảnh hưởng của axit boric ở các nồng độ khác nhau lên khả năng sống của tế bào<br /> gốc dây chằng nha chu người (hPDLSCs), nhằm cung cấp bằng chứng cho việc lựa chọn nồng độ axit boric thích<br /> hợp để ứng dụng trong lâm sàng.<br /> Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Axit boric được chuẩn bị thành các dung dịch có nồng độ 0,5%;<br /> 0,75%; 1%; 1,5%; 3% và 6%. Ảnh hưởng của axit boric lên hPDLSCs được xác định bằng phương pháp MTT.<br /> hPDLSCs được ủ với boric axit trong 24 giờ, sau đó, ủ trong dung dịch MTT (3-(4,5-Dimethylthiazol-2-YL)-2,5-<br /> diphenyl tetrazolium bromide) trong 4 giờ để tạo tinh thể formazan. Dung dịch Ethanol/DMSO được thêm vào<br /> để hòa tan tinh thể formazan và tạo dung dịch màu tím hấp thu tại bước sóng 570 nm. Mức độ độc tính của axit<br /> boric được đánh giá dựa theo tiêu chuẩn ISO 10993 - 5: 2009, kết hợp quan sát hình thái tế bào và tỷ lệ tăng<br /> trưởng tương đối (relative growth rate - RGR).<br /> Kết quả: Quan sát hình thái tế bào sau khi ủ trong dung dịch axit boric 24 giờ ở các nồng độ thí nghiệm<br /> được ghi nhận như sau: Ở nồng độ 0,5% và 0,75%, tế bào đồng nhất, bám dính và trải đều, có ít tế bào co lại. Ở<br /> nồng độ 1% và 1,5%, tế bào co lại nhiều, mật độ ít, bám dính thưa thớt trên bề mặt đĩa nuôi. Ở nồng độ 3% và<br /> 6%, tế bào trải dài trên bề mặt đĩa nuôi, một số ít tế bào co lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi nồng độ axit boric<br /> tăng dần thì trung bình RGR giảm tương ứng. Mức độ độc tính tế bào được xác định ở nồng độ 0,5% và 0,75%<br /> là cấp 1 (75% - 99%), ở nồng độ 1% và 1,5% là cấp 2 (50% - 74%), ở nồng độ 3% và 6% là cấp 4 (1% - 24%).<br /> Kết luận: Như vậy, theo tiêu chuẩn ISO 10993-5:2009, kết hợp quan sát hình thái tế bào và tỷ lệ tăng<br /> trưởng tương đối nghiên cứu cho thấy axit boric ở nồng độ 0,5% và 0,75% không gây độc cho hPDLSCs.<br /> Từ khóa: Axit boric, độc tính tế bào, tế bào gốc dây chằng nha chu người.<br /> ABSTRACT<br /> IN VITRO VIABILITY OF HUMAN PERIODONTAL LIGAMENT STEM CELLS INFLUENCED BY<br /> BORIC ACID<br /> Nguyen Thi Thu Suong, Nguyen Thi Ngoc My, Pham Anh Vu Thuy<br /> * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 22 - No 5- 2018: 161 – 169<br /> <br /> Objective: This study was conducted to determine the dose-dependent effect of boric acid on the viability of<br /> human periodontal ligament stem cells (hPDLSCs), thereby providing the basis to select appropriate boric acid<br /> concentrations for clinical application.<br /> Materials and methods: Boric acid was prepared in different concentrations of 0.5%, 0.75%, 1%, 1.5%,<br /> 3% and 6%. The effect of those solutions on hPDLSCs was determined by the MTT method. The hPDLSCs were<br /> incubated with boric acid solutions for 24 hours, then continuously with MTT solution (3- (4.5-dimethylthiazol-<br /> 2-yl) -2.5-diphenyl tetrazolium bromide) for 4 hours to promote the formation of Formosan crystals. The<br /> <br /> <br /> *Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. HCM, ** Bộ môn Sinh lý học và Công nghệ sinh học động<br /> vật, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP. HCM,<br /> *** Bộ môn Nha chu, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. HCM.<br /> Tác giả liên lạc: PGS. TS. Phạm Anh Vũ Thụy ĐT: 0916 810 874 Email: pavthuy@ump.edu.vn<br /> <br /> 161<br /> Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018<br /> <br /> Ethanol/DMSO solution was then added to dissolve the Formosan crystals and generate a purple solution that<br /> was absorbed at a 570 nm wavelength. The cellular toxicity grades were determined according to ISO 10993 - 5:<br /> 2009, simultaneously cell morphology and the relative growth rate (RGR) were also observed.<br /> Results: Cellular morphology after incubation with boric acid solution at different concentrations for 24<br /> hours was performed as follows: At concentrations of 0.5% and 0.75%, almost hPDLSCs were homogeneous,<br /> adherent and uniformly spread while only a handful of cells shrinkage was observed. At concentrations of 1% and<br /> 1.5%, the amount of shrinkage hPDLSCs was much more, the less cellular density and sparse adhesion was also<br /> recorded on the plates surface. At concentrations of 3% and 6%, these cells stretch over the cultured surface, with<br /> a few contracted cells. After measuring the optical density at 570 nm and processing the data, the RGR values<br /> were classified according to the cytotoxicity grades in accordance with ISO 10993 - 5: 2009; Level 0 and 1 toxicity<br /> were confirmed as zero toxic to the cells. The results supported that when the concentration of boric acid increases,<br /> the average growth rate decreases correspondingly. Cellular toxicity was determined at level 1 for 0.5% and<br /> 0.75% concentrations (75% - 99%), level 2 for 1% and 1.5% concentrations (50% - 74%); level 4 for 3% and 6%<br /> concentrations (1% - 24%).<br /> Conclusion: With the results of cellular toxicity according to ISO 10993 - 5: 2009 in combination with<br /> observed cells morphology and calculated RGR, boric acid at 0.5% and 0.75% concentrations were confirmed to be<br /> non-cytotoxic to hPDLSCs.<br /> Keywords: Boric acid, cytotoxicity, human periodontal ligament stem cells.<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ một số vi khuẩn liên quan đến bệnh nha chu<br /> như Prevotella intermedia (Pi), Porphyromonas<br /> Viêm nha chu là bệnh nhiễm khuẩn mạn<br /> gingivalis (Pg), Eubacterium nodatum (En) và<br /> tính ảnh hưởng đến mô nâng đỡ răng gồm dây<br /> Treponema denticola (Td)(9). Nghiên cứu ứng dụng<br /> chằng nha chu và xương ổ răng, có khả năng dẫn<br /> tính kháng khuẩn của axit boric để điều trị viêm<br /> đến mất răng. Lấy cao răng và xử lý mặt chân<br /> nha chu đang được quan tâm ngày càng nhiều,<br /> răng được coi là phương pháp bắt buộc trong<br /> nhưng khá ít nghiên cứu in vitro về ảnh hưởng<br /> điều trị viêm nha chu. Tuy nhiên, phương pháp<br /> của nó đối với tế bào của mô nha chu.<br /> này không thể loại bỏ hoàn toàn vi khuẩn trong<br /> những trường hợp phức tạp(12). Các phương Tế bào gốc dây chằng nha chu người<br /> pháp điều trị hỗ trợ hiện nay đang được sử dụng (hPDLSCs) được nuôi cấy từ mô dây chằng nha<br /> khá phổ biến như kháng sinh toàn thân hay tại chu người, biểu hiện những dấu ấn (marker) của<br /> chỗ, các dung dịch kháng khuẩn bơm rửa túi nha tế bào gốc trung mô như CD44, CD73, CD90 và<br /> chu hay súc miệng. Trong đó sử dụng dung dịch sở hữu những đặc tính đa tiềm năng có thể biệt<br /> kháng khuẩn bơm rửa kết hợp với lấy cao răng hóa thành các loại tế bào khác nhau như nguyên<br /> và xử lý bề mặt chân răng là biện pháp thường bào xương, tế bào tạo mô mỡ và tế bào sụn(11).<br /> quy trong điều trị viêm nha chu. Vì vậy, việc hPDLSCs không chỉ có có vai trò quan trọng<br /> nghiên cứu một dung dịch có khả năng kháng trong việc duy trì mà còn có khả năng thúc đẩy<br /> khuẩn, không có tác dụng phụ cũng như không tái tạo mô nha chu và thường là lựa chọn ưu tiên<br /> gây độc tính cho mô nha chu là điều đáng được hàng đầu trong công nghệ tái tạo và sửa chữa<br /> quan tâm. mô nha chu trong điều trị bệnh nha chu(1,3).<br /> <br /> Axit boric là axit của nguyên tố boron từ lâu ISO là liên đoàn tiêu chuẩn quốc tế nhằm<br /> đã được biết như một chất kháng khuẩn nhẹ và nâng cao sự phát triển của tiêu chuẩn hóa,<br /> được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau hoạt động như quá trình quản lý hài hòa để<br /> của y học. Những hợp chất có chứa boron gần đảm bào sự an toàn, chất lượng và quy trình<br /> đây đã được nghiên cứu về khả năng kháng lại chế tạo thiết bị y tế. ISO 10993, phần 5 đưa ra<br /> <br /> <br /> 162<br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học<br /> <br /> chỉ định về quy trình đánh giá độc tính in vitro môi trường nuôi cấy, được sử dụng làm nhóm<br /> thông qua thử nghiệm MTT. MTT là một loại chứng dương gây độc cho tế bào(2). Các hóa chất<br /> tetrazole có màu vàng. MTT viết tắt 3-(4, 5- khác: Enzyme tách tế bào Trypsin (Sigma, Mỹ),<br /> Dimethylthiazol-2-YL)-2,5-diphenyl thuốc nhuộm tế bào Trypan blue (Sigma, Mỹ),<br /> tetrazolium bromide sẽ chuyển thành tinh thể Ethanol (Sigma, Mỹ).<br /> formazan màu tím trong tế bào sống dưới tác Nguồn hPDLSCs được cung cấp từ phòng<br /> dụng của enzym sucinate dehydrogenase, một thí nghiệm Kỹ nghệ mô và Vật liệu Y Sinh<br /> loại enzym reductase trong ti thể. Do đó nếu (TEBM Lab) thuộc Đại Học Khoa Học Tự Nhiên,<br /> số lượng tế bào sống càng lớn sẽ tạo ra lượng Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, đã được<br /> formazan càng lớn và làm chỉ số mật độ quang chứng minh biểu hiện những dấu ấn phân tử<br /> tăng(5). Thuận lợi của thử nghiệm MTT được (marker) của tế bào gốc trung mô như CD44,<br /> ghi nhận là thời gian ủ MTT ngắn (4 giờ), hình CD73 và CD90 và cũng sở hữu đặc tính đa tiềm<br /> ảnh tạo tinh thể forrmazan màu tím dễ quan năng có thế biệt hóa thành những loại tế bào<br /> sát và so sánh, kết quả đo mật độ quang khác nhau như nguyên bào xương và tế bào tạo<br /> nhanh chóng, đơn giản, dễ dàng thực hiện và mỡ in vitro(11).<br /> kết quả đáng tin cậy(4). Mục đích của nghiên<br /> Quy trình nghiên cứu<br /> cứu này là đánh giá độc tính in vitro của axit<br /> boric trên khả năng sống của hPDLSCs trong Quy trình chuẩn bị tế bào<br /> nghiên cứu này. Nguồn hPDLSCs ở thế hệ tế bào P3 được<br /> nuôi tăng sinh và cấy chuyền để thu nhận tế bào<br /> VẬTLIỆU-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU<br /> P4 với số lượng cần thiết cho các thí nghiệm. Các<br /> Thiết kế nghiên cứu tế bào tăng sinh và hợp dòng (đạt độ bao phủ bề<br /> Nghiên cứu in vitro có nhóm chứng mặt nuôi cấy > 80%) được thu nhận để đánh giá<br /> Vật liệu và dòng tế bào nghiên cứu độc tính của axit boric.<br /> <br /> Axit boric nguyên chất được mua từ công ty Các bước thu nhận tế bào bao gồm: loại bỏ<br /> Merck – Đức. Dung dịch axit boric 6% được môi trường nuôi cấy và rửa tế bào bằng dung<br /> chuẩn bị bằng cách hòa tan 6 gr axit boric trong dịch PBS, tách tế bào bám khỏi bề mặt đĩa nuôi<br /> 100 ml môi trường nuôi cấy và lọc qua màng lọc bằng enzym Trypsin-EDTA 0,25% và ủ ở 37oC,<br /> 0,22 µm vô trùng. Dung dịch này được pha 5% CO2 trong 3 phút. Môi trường nuôi cấy được<br /> loãng tiếp tục bằng môi trường nhằm đạt được bổ sung vào để bất hoạt Trypsin, ly tâm ở tốc độ<br /> các nồng độ khảo sát. Môi trường nuôi cấy tiêu 3000 vòng/phút trong 5 phút để thu nhận cặn tế<br /> chuẩn là môi trường Dulbecco’s Modified bào. Tế bào sau khi được thu nhận sẽ được xác<br /> Eagle’s Medium/Ham 12 Medium -DMEM/F12 định mật độ bằng cách nhuộm tế bào với trypan<br /> (Sigma, Mỹ) có bổ sung 10% Fetal bovine serum blue (tỉ lệ 1:1) và nạp vào buồng đếm hồng cầu<br /> - FBS (Sigma, Mỹ) và kháng sinh (100 UI/ml được đếm dưới kính hiển vi ở độ phóng đại 100<br /> Penicilin, 100 µg/ml Streptomycin – Sigma, Mỹ). lần. Huyền phù dịch tế bào với mật độ 105 tế<br /> Dung dịch MTT 5 mg/ml được chuẩn bị bằng bào/ml vào mỗi giếng của đĩa 96 giếng và nuôi tế<br /> cách hòa tan 50 mg MTT trong 10ml Phosphate bào ở 37ºC, 5% CO2 qua đêm.<br /> Buffer Saline – PBS (Gibco, Mỹ) 1X và lọc qua Quy trình ủ tế bào bằng axit boric<br /> màng lọc 0,22 µm vô trùng. Dung dịch MTT Môi trường trong đĩa 96 giếng được loại bỏ.<br /> dùng trong thử nghiệm MTT được chuẩn bị Các dung dịch axit boric thí nghiệm 0,5%; 0,75%;<br /> bằng cách pha loãng trong môi trường nuôi cấy 1%; 1,5%; 3%; 6%; môi trường nuôi cấy tiêu<br /> với tỉ lệ 1:9. Dung dịch DMSO 20% được chuẩn chuẩn (chứng âm) và DMSO 20% (chứng dương)<br /> bị bằng cách pha loãng 2 ml DMSO trong 10 ml được bổ sung vào các giếng tế bào và tiếp tục<br /> <br /> <br /> 163<br /> Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018<br /> <br /> nuôi cấy ở 37ºC, 5% CO2 trong 24 giờ. RGR được tóm tắt trong Bảng 1 với mức độ 0<br /> Quy trình thử nghiệm MTT và 1 được xác định là không gây độc cho tế bào(8).<br /> Sau 24 giờ, hút hết dịch trong các giếng và Số liệu được xử lý thống kê bằng kiểm định<br /> thay vào đó dung dịch MTT. Sau 4 giờ, hút hết One Sample T-Test trên phần mềm SPSS phiên<br /> dung dịch MTT, thay vào đó dung dịch bản 20. Khác biệt có ý nghĩa thống kê được xác<br /> DMSO/Ethanol (tỷ lệ 1:1), huyền phù đều trong nhận với các trường hợp giá trị p < 0,05.<br /> mỗi giếng để hòa tan các tinh thể formazan tạo Bảng 1. Mức độ gây độc tế bào theo tiêu chuẩn<br /> thành dung dịch đồng nhất và đo độ hấp thu ISO10993-5:2009(8)<br /> quang học (Optical density – OD) ở bước sóng RGR (%) Gây độc tế bào<br /> 570nm. 100 0<br /> 75-99 1<br /> Đánh giá kết quả 50-74 2<br /> Đánh giá hình thái tế bào: Hình thái tế bào 25-49 3<br /> sau khi cấy và sau khi ủ trong dung dịch axit 1-24 4<br /> boric 24 giờ được ghi nhận bằng hình ảnh chụp 0 5<br /> <br /> dưới kính hiển vi đảo pha CKX53 (Olympus, KẾT QUẢ<br /> Nhật) cùng phần mềm ghi nhận hình ảnh<br /> Hình thái hPDLSCs là dạng tế bào bám dính<br /> (CellSens) và so sánh với nhóm chứng.<br /> trải rộng, nhân lớn hình oval và có nhiều đuôi<br /> Đánh giá ảnh hưởng của axit boric sau thử bào tương, hình dạng đồng đều bám dính trên<br /> nghiệm MTT dựa theo hướng dẫn ISO 10993, bề mặt nuôi cấy (Hình 1. Mũi tên). Tế bào tăng<br /> chúng tôi chia mức độ độc tế bào thành năm giai sinh và hợp dòng có dạng trải dài và cuộn theo<br /> đoạn bằng cách phân tích tỉ lệ tăng trưởng tương hình cung tròn. Những đặc điểm hình thái này<br /> đối (RGR) được xác định theo công thức(5,8): được duy trì ổn định qua các thế hệ cấy chuyền<br /> RGR (%) = x 100% tiếp theo.<br /> Sau khi ủ hPDLSCs trong dung dịch axit<br /> OD570e: giá trị trung bình của mật độ quang<br /> boric ở các nồng độ 0,5%; 0,75%; 1%; 1,5%; 3% và<br /> của dung dịch axit boric được đo ở bước sóng<br /> 6% cũng như nuôi tế bào ở môi trường nuôi cấy<br /> 570 nm.<br /> tiêu chuẩn (chứng âm) và DMSO 20% (chứng<br /> OD570b: giá trị trung bình của mật độ quang dương) sau 24 giờ, chúng tôi thu được kết quả<br /> của môi trường nuôi cấy tiêu chuẩn được đo ở<br /> đã trình bày ở hình 2 đến hình 5 và bảng 2.<br /> bước sóng 570 nm.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> A B<br /> <br /> Hình 1. Hình thái hPDLSCs khi quan sát dưới kính hiển vi đảo ngược vật kính 4x (A) và vật<br /> kính 10x (B).<br /> <br /> <br /> 164<br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> A B<br /> <br /> <br /> Hình 2. hPDLSCs ở nhóm chứng âm: môi trường nuôi cấy tiêu chuẩn (A) và nhóm chứng<br /> dương: dung dịch DMSO 20% (B).<br /> Ở nhóm chứng âm (n = 3), hPDLSCs có dạng có dạng đồng nhất và tương ứng với mức độ<br /> đồng nhất, bám dính và trải đều bề mặt nuôi cấy hợp dòng của tế bào.<br /> (Hình 2A). Ở nhóm chứng dương (Hình 4B) một số ít<br /> Ở nhóm chứng dương (n = 3), hình dạng tế tinh thể formazan được tạo ra tuy nhiên chúng<br /> bào thay đổi, đa số tế bào co tròn và biến dạng, không có hình dạng như ở nhóm chứng âm,<br /> bong tách khỏi bề mặt đĩa nuôi cấy (Hình 2B). không có sự bám dính trên bề mặt đĩa nuôi<br /> Quan sát hình 3, có thể thấy được khi tăng tương ứng với sự chết của tế bào khi quan sát<br /> nồng độ axit boric lên thì hình thái tế bào cũng hình thái ở trên.<br /> thay đổi theo. Cụ thể ở nồng độ 0,5% và 0,75% Khi tăng nồng độ axit boric thì sự hình thành<br /> đa số tế bào có hình dạng tương tự ở nhóm tinh thể forrmazan giảm dần, kết quả được thể<br /> chứng âm, tế bào đồng nhất, bám dính và phủ hiện đồng thời qua hình ảnh đại thể của tế bào<br /> đều bề mặt nuôi cấy, tuy nhiên có 1 ít tế bào (Hình 5) và kết quả đo RGR (Bảng 2).<br /> phản ứng thay đổi hình dạng co lại một phần. Ở<br /> Cụ thể ở nồng độ axit boric 0,5% kết quả<br /> nồng độ 0,75%, hình ảnh tế bào tương tự ở nồng<br /> RGR = 92,03 ± 6,58% thể hiện mức độ hình thành<br /> độ 0,5% nhưng có nhiều tế bào co lại hơn. Ở<br /> tinh thể formazan nhiều nhất trong tất cả các<br /> nồng độ 1% và 1,5%, tế bào co lại nhiều, không<br /> nhóm thí nghiệm và gần bằng nhóm chứng âm.<br /> còn trải đều, bám dính thưa thớt trên bề mặt đĩa<br /> Ở nồng độ axit boric 0,75%, kết quả RGR thu<br /> nuôi. Ở nồng độ 3% và 6%, các tế bào không co<br /> được là 89,9 ± 5,5% cho thấy số lượng tinh thể<br /> lại mà trải dài hơn, không có hình dạng nhất<br /> formazan được tạo ra thấp hơn so với nồng độ<br /> định, bám dính lỏng lẻo trên bề mặt đĩa.<br /> axit boric 0,5% tuy nhiên sự khác biệt này không<br /> Sau khi được ủ với dung dịch MTT, tinh thể lớn (< 1%). Đối với 2 nhóm thí nghiệm 1% và<br /> formazan có màu tím được hình thành do phản 1,5% tương ứng có chỉ số RGR lần lượt giảm dần<br /> ứng của enzyme sucinate dehydrogenase hiện là 77,27 ± 5,02% và 64,61 ± 6,36%, cho thấy số<br /> diện trong quá trình hô hấp của ti thể trong tế lượng tinh thể formazan được hình thành ít hơn<br /> bào sống với chất MTT. Số lượng tế bào sống so với nhóm chứng âm và 2 nhóm nồng độ 0,5%<br /> càng lớn thì lượng tinh thể formazan được tạo và 0,75%, các tinh thể formazan thưa thớt, không<br /> thành càng nhiều. phủ kín bề mặt đĩa nuôi. Trong khi đó, ở nồng<br /> Ở nhóm chứng âm (Hình 4A) ta thấy hình độ 3% và 6%, không còn quan sát được các tinh<br /> ảnh tinh thể formazan màu tím với mật độ cao, thể formazan được tạo thành, do các tế bào đã<br /> che phủ hầu hết bề mặt đĩa nuôi, các tinh thể này bong tách hết khỏi bề mặt đĩa, hình ảnh được ghi<br /> <br /> <br /> 165<br /> Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018<br /> <br /> nhận tương tự như ở nhóm chứng dương. Đồng ở mức độ 2, nồng độ axit boric 3% và 6%, gây<br /> thời, kết quả RGR cũng rất thấp và gần bằng độc ở mức độ 4, bằng với mức độ độc tính ở<br /> nhóm chứng dương (3% là 14,79 ± 1,5% và 6% là nhóm chứng dương. Với mức độ độc tính được<br /> 13,23 ± 1,58%). xác nhận ở mức 0 và 1 là không gây độc đối với<br /> Kết quả được ghi nhận theo Bảng 2, ở nồng tế bào, vì vậy, có thể kết luận axit boric ở nồng<br /> độ axit boric 0,5% và 0,75% mức độ độc tính ở độ 0,5% và 0,75% không gây độc cho hPDLSCs.<br /> mức độ 1, nồng độ axit boric 1% và 1,5% độc tính<br /> Bảng 2. Trung bình phần trăm hPDLSCs sống ở các nồng độ của dung dịch axit boric.<br /> Nồng độ AB (%) 0,5 (n=3) 0,75 (n=3) 1 (n=3) 1,5 (n=3) 3 (n=3) 6 (n=3)<br /> TB ± Độ lệch chuẩn 92,03±6,58 89,9±5,5 77,27±5,02 64,61±6,36 14,79±1,5 13,23±1,58<br /> Giá trị p 0,046 0,042 0,515 0,105
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2