intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của Cách mạng công nghệ 4.0 đến nguồn nhân lực kế toán quỹ bảo hiểm y tế tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Chia sẻ: Sở Trí Tu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

51
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang “tấn công” vào nhiều lĩnh vực, trong đó có Bảo hiểm Y tế. Công nghệ 4.0 làm thay đổi toàn bộ quy trình thu, chi BHYT dẫn đến ảnh hưởng nguồn nhân lực kế toán quỹ BHYT nói riêng và nhân lực quản lý quỹ nói chung tại Bảo hiểm Xã hội Việt Nam. Bài viết giúp cho BHXHVN xây dựng nguồn nhân lực phù hợp khi BHXHVN có được một hệ thống thông tin kế toán toàn diện dựa trên nền tảng của công nghệ 4.0. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của Cách mạng công nghệ 4.0 đến nguồn nhân lực kế toán quỹ bảo hiểm y tế tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam

  1. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0 ĐẾN NGUỒN NHÂN LỰC KẾ TOÁN QUỸ BẢO HIỂM Y TẾ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM TS. Nguyễn Thị Thanh Nga - ThS. Nguyễn Thị Thúy Ngà1 Tóm tắt: Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang “tấn công” vào nhiều lĩnh vực, trong đó có Bảo hiểm Y tế. Công nghệ 4.0 làm thay đổi toàn bộ quy trình thu, chi BHYT dẫn đến ảnh hưởng nguồn nhân lực kế toán quỹ BHYT nói riêng và nhân lực quản lý quỹ nói chung tại Bảo hiểm Xã hội Việt Nam. Bài viết giúp cho BHXHVN xây dựng nguồn nhân lực phù hợp khi BHXHVN có được một hệ thống thông tin kế toán toàn diện dựa trên nền tảng của công nghệ 4.0. Từ khóa: Cách mạng công nghệ 4.0, Thay đổi nguồn nhân lực kế toán quỹ BHYT khi ứng dụng công nghệ 4.0. Abstract: Technology revolution 4.0 is “attacking” many fields, including Health Insurance. Technology 4.0 changes the whole collection and payment process for health insurance, leading to the impact of the health insurance accounting human resources in particular and the fund management staff in general at Vietnam Social Insurance. The article helps Vietnam Social Insurance to build appropriate human resources when Vietnam Social Insurance has a comprehensive accounting information system based on 4.0 technology. Keywords: Technology revolution 4.0; Changing of the health insurance accounting human resources when applycation of Technology 4.0. I. CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0 VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM Y TẾ. Trong những năm gần đây, cuộc “Cách mạng công nghiệp 4.0” đang “tấn công” vào nhiều lĩnh vực: Kinh tế, xã hội, văn hóa, thể thao, du lịch, y tế…Đây là xu hướng tất yếu mà các quốc gia trên thế giới phải tiếp cận. “Cuộc Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học”.(Theo Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế Giới). Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên ba lĩnh vực chính bao gồm: Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số và Vật lý. Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có sự khác biệt lớn về tốc độ, phạm vi và sự tác động. Tốc độ phát triển và lan truyền của nó nhanh hơn rất nhiều so với các cuộc cách mạng công nghệ trước đó. Phạm vi của nó diễn ra rộng lớn bao 1 Khoa Kế toán, Trường Đại học Lao động – Xã hội.
  2. 606 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 trùm tất cả các lĩnh vực: thương mại, dịch vụ, sản xuất, đặc biệt nó có tầm quan trọng trong dịch vụ công của mỗi quốc gia. Theo dự báo, Cuộc cách mạng 4.0 sẽ làm thay đổi hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị một cách toàn diện trên cả thế giới và có tác động mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội, chính trị, cũng như mọi tổ chức, cá nhân. Đặc biệt cuộc cách mạng 4.0 không chỉ giới hạn tại một quốc gia mà diễn ra trên toàn thế giới. Do đó, để đảm bảo duy trì tính cạnh tranh, các quốc gia đều phải tập trung phát triển và ứng dụng các thành tựu công nghệ của Cách mạng 4.0. Hiện nay, công nghệ 4.0 phát triển khá mạnh mẽ và đã mang lại được sự thay đổi tích cực đối với cuộc sống và sản xuất. Cụ thể: Hoạt động sản xuất nhanh hơn, mọi dữ liệu được truy cập đầy đủ và mọi quyết định được đưa ra nhanh chóng. Sử dụng sức người hạn chế hơn; Công việc của con người trở nên hấp dẫn và giảm thiểu được sự nhàm chán; Trong những công việc nguy hiểm, con người không phải xuất hiện, bởi đã có công nghệ 4.0 thay thế; Kiểm soát tối đa được những nguyên vật liệu cho đến khi xuất sản phẩm và mang đến cho người dùng; Chất lượng sản phẩm đồng đều giữa những lần sản xuất. Đối với cá nhân, cách mạng công nghệ 4.0 cũng đem lại nhiều lợi ích: Con người làm việc ít hơn, có thời gian để giao lưu kết nối cùng với bạn bè; Hướng mức lương cao hơn, bởi khi áp dụng công nghệ 4.0 tức có nghĩa chúng ta phải vận dụng khối lượng chất xám nhiều hơn so với lao động chân tay; Mọi người có thể mua được những món đồ rẻ và chất lượng vẫn được đảm bảo; Môi trường sống được đảm bảo hơn khi những chất thải ra môi trường bên ngoài đã được kiểm soát. Tuy nhiên, công nghệ 4.0 cũng có một số thách thức đối với các quốc gia: + Cách mạng Công nghiệp 4.0 có thể gây ra sự bất bình đẳng. Đặc biệt là có thể phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế lao động chân tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất nghiệp. + Từ những bất ổn về kinh tế nảy sinh từ Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ dẫn đến những bất ổn về đời sống. Hệ lụy của nó sẽ là những bất ổn về chính trị. Nếu chính phủ các nước không hiểu rõ và chuẩn bị đầy đủ cho làn sóng công nghiệp 4.0, nguy cơ xảy ra bất ổn trên toàn cầu là hoàn toàn có thể. + Những thay đổi về cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt con người vào nhiều nguy hiểm về tài chính, sức khoẻ. Thông tin cá nhân nếu không được bảo vệ một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường. Trong doanh nghiệp, một hệ thống được coi là công nghiệp 4.0 khi có đủ các điều kiện sau đây: + Khả năng giao tiếp/ Vạn vật kết nối: Có nghĩa là mọi thiết bị máy móc, các cảm biến và con người phải được kết nối và liên lạc được với nhau. + Thông tin minh bạch: Hệ thống sẽ tạo ra một bản sao của thế giới thật. Và bản sao này được định hình thông qua các dữ liệu thu thập được từ các hệ thống máy móc và bộ cảm biến.. + Kỹ thuật: Hệ thống máy móc có thể tự đưa ra quyết định, giải quyết các vấn đề và giúp con người làm những công việc vất vả, nguy hiểm và độc hại. + Khả năng ra quyết định theo mô hình phân tán: Máy móc sẽ tự ra quyết định và xử lý các vấn đề đơn giản nhanh chóng và hoàn toàn tự động. Có nghĩa là con người không cần phải nhúng tay vào quy trình đó.
  3. PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP 607 Hiện nay, một số nước như Mỹ, châu Âu, Trung quốc, Singapor, Nhật Bản…, công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực. Việt Nam là nước đang phát triển nên ở thời điểm hiện tại mới chỉ có những tín hiệu bước đầu của ảnh hưởng trong nền công nghiệp 4.0. Muốn hòa nhập với các nước trên thế giới, Việt Nam bắt buộc phải tiếp nhận cuộc Cách mạng công nghệ 4.0. Trong tương lai, nguồn nhân lực của Việt Nam sẽ giảm nhanh chóng ở một số công việc ứng dụng được công nghệ 4.0 như: công việc lặp đi lặp lại; công việc ít sáng tạo. Do đó, Việt Nam phải tiên đoán được việc ứng dụng công nghệ 4.0 sẽ làm cho ngành nghề nào phát triển và ngành nghề nào có nguy cơ suy tàn. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (BHXHVN) là đơn vị thực hiện thu, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Cũng giống như các lĩnh vực khác, BHXHVN cũng bị tác động bởi công nghệ 4.0. Bảo hiểm y tế (BHYT) là một trong những nhiệm vụ quan trọng của BHXHVN. Quỹ BHYT được hình thành từ nguồn thu bắt buộc của đối tượng tham gia BHYT trong phạm vi cả nước. BHXHVN là đơn vị giữ quỹ và phân phối cho các cơ sở khám chữa bệnh (KCB). Khi đối tượng tham gia BHYT ốm đau, thai sản..., họ đến cơ sở KCB chữa trị. Các cơ sở KCB căn cứ vào thẻ BHYT, tập hợp chi phí gửi lên BHXHVN để quyết toán với quỹ BHYT. Xem xét dưới góc độ cơ quan chủ quản quỹ BHYT - BHXHVN, đơn vị thực hiện thu, chi, quyết toán quỹ BHYT, phải nắm được thông tin kế toán toàn diện liên quan đến quỹ BHYT từ phía các bên liên quan: đơn vị sử dụng lao động, cơ sở KCB, sự hài lòng của đối tượng thụ hưởng. Từ đó, liên kết các thông tin kế toán theo quy trình hoạt động của quỹ BHYT nhằm đạt được mục tiêu: thu đủ, chi đúng, quyết toán thuận tiện và đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng BHYT. Việc vận dụng một hệ thống thông tin kế toán ứng dụng công nghệ 4.0 trong quá trình thu, chi, quyết toán quỹ BHYT tạo nền tảng cho sự cân đối thu chi quỹ và đáp ứng quyền lợi cho đối tượng thụ hưởng quỹ là vô cùng cần thiết. Muốn đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT, đồng thời quản lý chặt chẽ các khoản chi BHYT tại các cơ sở khám chữa bệnh. BHXHVN cần phải có một hệ thống thông tin kế toán minh bạch, cung cấp toàn diện cho tất cả các bên có liên quan: BHXHVN, các cơ sở khám chữa bệnh và đối tượng hưởng BHYT. Nếu BHXHVN xây dựng được một HTTTKT đáp ứng đủ bốn điều kiện của Cách mạng công nghiệp 4.0 thì nhân lực kế toán tại BHXHVN nói riêng và nhân lực kế toán tại các cơ sở KCB cũng có những thay đổi rõ rệt. Đó là một HTTTKT dựa trên một nền công nghệ thông tin hiện đại. II. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VỀ KẾ TOÁN QUỸ BHYT VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TẠI BHXHVN BHXHVN được tổ chức theo hệ thống dọc gồm 03 cấp: BHXHVN; BHXH tỉnh, thành phố; BHXH quận, huyện. Ở Trung ương là BHXHVN có 24 đơn vị trực thuộc gồm: 16 tổ chức giúp việc Tổng Giám đốc và 08 đơn vị sự nghiệp; ở cấp tỉnh có 63 BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ở cấp huyện có 710 BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Tính đến 2018). Tổ chức bộ máy quản lý tại BHXH tỉnh, thành phố và BHXH quận, huyện tương tự như BHXHVN. Bao gồm Giám đốc, Phó Giám đốc và các phòng chức năng giúp việc. Do đó, bộ máy kế toán tại BHXHVN cũng sắp xếp theo mô hình 3 cấp. Về nhân sự, tại đơn vị dự toán cấp trung ương, số lượng người trong ban tài chính kế toán là 35. Tại đơn vị dự toán cấp 2, đối với các tỉnh, thành phố lớn đông dân (như thành phố Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh…), số lượng cán bộ phòng tài chính kế toán là 18 đến 20 người. Đối với các tỉnh, thành phố khác số lượng nhân viên kế toán khoảng 8 đến 10 người. Số lượng nhân viên tại đơn vị dự toán cấp III, BHXH cấp quận,
  4. 608 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 huyện, số lượng kế toán có 2 người (đối với cấp quận, huyện có ít việc), từ 3 đến 4 người (đối với cấp quận, huyện có khối lượng công việc nhiều hơn). Số lượng cán bộ kế toán ở từng đơn vị phụ thuộc vào khối lượng công việc thực hiện. Qua khảo sát 417 cán bộ kế toán BHXHVN ở cả 3 cấp (Bao gồm: số người làm tại BHXHVN là 21, chiếm 5% mẫu khảo sát, số người làm ở BHXH tỉnh, thành phố là 156 người, chiếm 37,4%. Số người làm tại BHXH quận huyện là 240, chiếm tỷ lệ 57,6%), tác giả thấy cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán của BHXHVN như sau: - Phần lớn BHXH quận, huyện đều tổ chức bộ máy kế toán theo kiểu tập trung. ( Theo số liệu tác giả thu thập: 87,5%) Vì phần mềm kế toán của BHXH quận, huyện và BHXH tỉnh, thành phố có sự liên thông do đó số liệu nhập vào phần mềm của BHXH quận huyện sẽ tự động “kết nối” tại BHXH tỉnh, thành phố. Do áp dụng CNTT nên đã xóa đi khoảng cách về địa lý giữa BHXH hai cấp. - Tại BHXH các tỉnh, thành phố, bộ máy kế toán tại BHXH cấp II được tổ chức theo mô hình kế toán vừa tập trung, vừa phân tán ( 96,1%). Do dữ liệu đầu ra của BHXH quận huyện là dữ liệu đầu vào của BHXH tỉnh, thành phố. Hơn nữa, việc áp dụng công nghệ thông tin đã giúp cho BHXH tỉnh thành phố tổ chức bộ máy kế toán theo kiểu tập trung với BHXH quận huyện. Nhưng do chưa có sự liên thông giữa BHXH tỉnh, thành phố với BHXH Trung ương nên số liệu đầu ra của BHXH tỉnh, thành phố phải tổng hợp bằng phương pháp thủ công và gửi báo cáo cho BHXH trung ương bằng văn bản giấy hoặc tổng hợp trong máy và gửi qua email. Đây là tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình phân tán. - Tại BHXHVN, đơn vị dự toán cấp I tổ chức bộ máy kế toán theo kiểu phân tán. (100%). Số liệu trong báo cáo do BHXH tỉnh, thành phố gửi lên qua email cá nhân sẽ được kế toán BHXHVN tổng hợp lại và báo cáo cấp trên. Qua kết quả khảo sát, tác giả thấy điểm bất cập hiện nay về bộ máy kế toán là con người. Thứ nhất: Về chuyên môn đào tạo: Phần lớn cán bộ kế toán có chuyên môn phù hợp với công việc. Theo kết quả khảo sát, số người có chuyên môn kế toán chiếm tỷ lệ cao nhất (64,5%). Đứng thứ hai là số người có chuyên môn đào tạo về tài chính (26,9%). Số người vừa có chuyên môn kế toán vừa có chuyên môn tài chính là 4 người, chiếm 1%. Số người vừa có chuyên môn kế toán vừa có chuyên môn về công nghệ thông tin (CNTT) là 16 người chiếm tỷ lệ 3,8 %. Số người chỉ có chuyên môn về CNTT là 8 người (chiếm tỷ lệ: 1,9%). Số người không có chuyên môn về kế toán là 8 người (chiếm tỷ lệ: 1,9%). Về trình độ học vấn: Phần lớn cán bộ kế toán có bằng đại học là 337 người (chiếm 80,8%). Số người có bằng thạc sỹ trở lên có 56 người (chiếm tỷ lệ 13,4%). Còn lại là cao đẳng: 16 người (chiếm tỷ lệ: 3,8%), trung cấp: 8 người (chiếm tỷ lệ: 1,9%). Trình độ học vấn của kế toán trưởng, kế toán tổng hợp và trưởng phòng là cao (từ đại học trở lên chiếm 94,2%). Có thể nói rằng số cán bộ có chuyên môn kế toán của BHXHVN tương đối cao nhưng có chuyên môn về CNTT còn thấp (chiếm 5,7 %). Đây là một hạn chế lớn về trình độ CNTT của cán bộ kế toán. Việc ứng dụng công nghệ 4.0 đòi hỏi một lực lượng kế toán am hiểu cả về CNTT là một tất yếu khách quan. Thứ hai: Việc nâng cao trình độ về CNTT còn hạn chế. Số cán bộ kế toán rất ít khi nâng cao trình độ (81,5%). Vì khối lượng công việc họ đảm nhận nhiều (92,8%). Số cán bộ kế toán có
  5. PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP 609 chuyên môn về CNTT chiếm tỷ lệ nhỏ (1,9%). Do tiền lương hạn hẹp, phần lớn nhân viên kế toán của BHXHVN rất thụ động học thêm CNTT nên không có nhiều kinh nghiệm về CNTT. Một số ít nhân viên kế toán có học về CNTT thì không có chuyên môn về kế toán hoặc có thì cũng không phải là chuyên ngành học chính. Do vậy, cán bộ kế toán tại BHXHVN phần lớn hiểu được quy trình thực hiện công tác kế toán thủ công tại đơn vị của mình, còn rất hạn chế với hệ thống phần mềm kế toán. Phần lớn việc vận hành, phát triển HTTT được giao cho các chuyên gia về CNTT. Thứ ba: Về tổ chức nhân sự hiện nay BHXHVN còn thiếu phân công nhân lực giám định BHYT tại các cơ sở khám chữa bệnh (KCB). Qua tìm hiểu thực tế, Bộ phận giám định tại BHXHVN được bố trí tại các cơ sở KCB chưa đồng nhất. Tại các bệnh viện lớn, số giám định của BHXHVN tại cơ sở từ 2 đến 3 người. Đối với bệnh viện vừa và nhỏ số lượng là 1 người. Đối với các cơ sở KCB khác (như các phòng khám) hiện nay chưa có giám định tại cơ sở. Hàng tháng, BHXH cùng cấp phân tổ giám định kiểm tra tại các phòng khám này. Qua kết quả khảo sát, số cán bộ thẩm định BHYT tại các cơ sở KCB là quá ít.(90,9%). Phần lớn chỉ kiểm tra xác suất, có nơi tỷ lệ kiểm tra rất thấp, BHXH không có đủ nhân lực thực hiện công tác thẩm định BHYT. Theo phỏng vấn sâu của một kế toán: “Các cán bộ này hiện nay chủ yếu là các nhân viên có chuyên môn về y không có chuyên môn về kế toán. Do vậy, việc giám sát chi phí KCB còn hạn chế. Hiện nay có khoảng 2000 bệnh viện và cơ sở KCB, cung cấp dịch vụ cho đối tượng nhưng BHXHVN chỉ có cán bộ kiểm tra tại một nửa số cơ sở KCB trên. Bên cạnh đó, tại các cơ sở KCB, do số lượng hồ sơ quá lớn và số lượng cán bộ quá mỏng nên chủ yếu các hồ sơ bệnh án không kiểm tra toàn bộ (92,9%) mà chỉ kiểm tra theo tỷ lệ. Sự liên thông dữ liệu KCB BHYT giữa các cơ sở KCB với phần mềm giám định điện tử đã giúp cho bộ phận giám định tại BHXHVN thay phương pháp kiểm tra thủ công bằng phương pháp kiểm tra bằng máy. Tuy nhiên, kiểm tra bằng máy chỉ thực hiện kiểm tra thẻ BHYT, đơn giá thuốc, xét nghiệm, việc giám định về chuyên môn ngành y vẫn phải thực hiện bằng thủ công. Số liệu tổng hợp được các cơ sở KCB gửi cho BHXHVN qua email cá nhân vì chưa có phần mềm liên thông giữa cơ sở KCB với BHXHVN. (100%). Do đó, các hồ sơ KCB đã phát sinh, việc KCB đúng đối tượng hưởng BHYT hay không thì chi phí đã chi. Nếu sai, BHXHVN không thể thu hồi được nữa. Tại các cơ sở KCB cấp huyện, có đến 50% đơn vị không có người thẩm định BHYT. Chi phí KCB được tập hợp, lập hồ sơ gửi lên HBXHVN để quyết toán, không thông qua khâu kiểm tra ngay tại cơ sở KCB. Vì vậy, BHXHVN rất khó kiểm soát chi phí KCB tại các cơ sở tuyến quận, huyện. Về công nghệ thông tin: BHXHVN trang bị máy tính đầy đủ ở cả ba cấp: Trung ương, tỉnh, thành phố, quận huyện tuy nhiên phần lớn máy tính đã cũ cần thay thế, cấu hình không đồng bộ dẫn đến việc truyền dữ liệu không đồng nhất ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán. Các máy chủ và máy trạm tại BHXHVN đều sử dụng hệ điều hành cũ, hiện nay đã lạc hậu. Hiện tại, BHXHVN chưa có máy chủ nào đủ công suất để quản lý số lượng toàn dân hưởng BHYT nên không đáp ứng được việc cung cấp thông tin đa chiều cho từng đối tượng hưởng BHYT. Các máy chủ không thường xuyên kết nối mạng. Việc cung cấp thông tin không diễn ra thường xuyên. Do vậy, hệ thống thông tin kế toán cung cấp chưa phản ánh toàn diện ở cả ba cấp. Ngoài ra, các máy chủ hoạt động không đồng nhất giữa các tỉnh, thành phố, quận, huyện và không có một tiêu chuẩn chung nào để đánh giá nên việc điều hành máy chủ không đồng bộ giữa các tỉnh, thành phố. Do vậy, phần mềm ứng dụng tổng thể cả ba cấp sẽ khó thực hiện đồng bộ trong phạm vi cả nước và từ cấp trung ương đến cấp quận huyện.
  6. 610 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Về phần mềm: Hiện nay, BHXHVN khi ghi nhận, phản ánh ghi chép các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến thu BHYT, quyết toán chi quỹ BHYT vừa trên phần mềm máy tính (giữa BHXH cấp tỉnh thành phố với BHXH quận huyện), vừa theo phương pháp thủ công. (giữa BHXH trung ương với BHXH tỉnh, thành phố). Điều này làm ảnh hưởng đến tính khách quan của cả một HTTT. Số liệu đôi khi còn chưa đồng nhất giữa các bộ phận trong BHXHVN. Qua khảo sát, phần lớn tại BHXHVN, BHXH tỉnh, thành phố, BHXH quận, huyện đều ứng dụng phần mềm VSA để phản ánh quá trình thu, chi BHYT theo từng cấp quản lý. Tuy nhiên, số liệu thu, chi BHYT chỉ có sự liên kết giữa đơn vị dự toán cấp III (BHXH quận, huyện) với đơn vị dự toán cấp II (BHXH tỉnh, thành phố). Ở các bộ phận khác như khâu quản lý đối tượng BHYT, khâu cấp thẻ BHYT, ... đều có các phần mềm khác hỗ trợ. Tại BHXHVN có 9 phần mềm đang hoạt động. Các phần mềm liên quan quỹ BHYT là phần mềm thu BHXH (SMS), phần mềm viện phí (VIENPHI) và phần mềm kế toán (VSA). Phần mềm SMS là một chương trình được viết để quản lý thu cho các trường hợp: BHXH, BHYT, BH thất nghiệp. Phần mềm này cũng được sử dụng để in thẻ BHYT và sổ BHXH và có thể dễ dàng tìm hiểu thông tin về quá trình làm việc của cá nhân. Tuy nhiên, phần mềm này chưa cung cấp được thông tin về các khoản đóng phí hàng tháng của người lao động cũng như các thông tin về số tiền thực chi cho người lao động. Phần mềm viện phí được sử dụng để quản lý các khoản chi cho bệnh viện và các cơ sở KCB. Tuy nhiên, phần mềm này không được sử dụng đồng bộ và rộng rãi tại các cơ sở KCB vì họ sử dụng phần mềm quản lý riêng và phần lớn không tích hợp với phần mềm viện phí của BHXH. Do đó, các thông tin kế toán về chi phí KCB tại các cơ sở KCB không được cập nhật ngay cho BHXHVN mà phải chờ nộp báo cáo bằng văn bản hoặc email để tổng hợp. Bên cạnh đó, các đối tượng hưởng BHYT không có cơ hội nắm bắt được quá trình nộp, hưởng BHYT của bản thân. Hầu hết họ muốn biết về tổng số BHYT mà bản thân đã nộp trong suốt quá trình nộp BHYT. (90,5%). Có đến 93,8% muốn biết về quyền lợi hưởng BHYT cụ thể khi KCB. Hiện nay, chưa có thông tin nào phản ánh chi tiết quá trình thu và chi BHYT cho từng đối tượng và chưa cung cấp thông tin cá nhân dễ dàng cho đối tượng hưởng BHYT nên họ không quan tâm nhiều đến nghĩa vụ đóng và quyền lợi hưởng của BHYT. Đây có thể là nguyên nhân BHYT tự nguyện không được người dân tham gia nhiệt tình. Phần mềm viện phí của BHXHVN chưa tương thích với phần mềm thanh toán chi phí KCB BHYT tại các bệnh viện (100%). Từ 1/7/2016, các cơ sở KCB đã bắt đầu triển khai phần mềm kết nối dữ liệu liên thông KCB BHYT trên toàn quốc. Việc ứng dụng CNTT là bước tiến lớn trong thanh toán BHYT nhằm ngăn chặn các gian lận. Đặc biệt kể từ khi liên thông KCB tuyến huyện, tính ASXH tăng lên, đối tượng hưởng BHYT có nhiều quyền lợi hơn nhưng các biểu hiện trục lợi quỹ BHYT tại các cơ sở KCB cũng có chiều hướng tăng lên. Tuy nhiên, phần mềm viện phí của BHXHVN chưa cập nhật theo tốc độ cập nhật tại các cơ sở KCB nên chưa tương thích, rất khó quản lý chi phí KCB. Phần lớn việc thanh quyết toán chi phí KCB phụ thuộc vào việc kê khai hồ sơ bệnh án của cơ sở KCB. Điều này dẫn đến BHXHVN không thể có thông tin kế toán kịp thời về chi phí KCB tại các cơ sở KCB và không kiểm soát được chi phí trùng lặp, không hợp lý. Tại BHXH tỉnh, thành phố và quận huyện, xét dưới góc độ HTTTKT, phần mềm VSA tại tỉnh, thành phố và quận huyện cũng đã có những thành công nhất định trong việc ghi nhận quá trình thu
  7. PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP 611 BHYT, quyết toán chi quỹ BHYT. Phần mềm VSA đã có sự kết nối giữa BHXH cấp tỉnh, thành phố với BHXH cấp quận, huyện. Nhìn chung, trong giai đoạn vừa qua, phần mềm VSA là công cụ hữu dụng giúp cho BHXHVN quản lý quỹ BHYT. Tuy nhiên, phần mềm VSA do tự xây dựng nên thông tin kế toán cung cấp còn manh mún. Hiện nay, khi chuyển sang BHYT toàn dân, phần mềm này chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý tầm chiến lược. Với cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin còn lạc hậu, BHXHVN mất nhiều nhân lực nói chung và đặc biệt là nhân lực kế toán để thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ BHYT. Tuy nhiên, các phần mềm chưa đồng bộ và các khâu chưa được tự động hóa nên mặc dù nguồn nhân lực quản lý quỹ BHYT lớn nhưng vẫn để xảy ra tình trạng lạm dụng, rút lõi quỹ BHYT tại các cơ sở KCB. Do đó, việc ứng dụng công nghệ 4.0 trong lĩnh vực BHYT là một tất yếu khách quan. Hiện nay, khả năng tiếp cận công nghệ 4.0 của BHXHVN còn nhiều hạn chế: phần cứng máy tính giữa vùng đồng bằng và miền núi, giữa thành thị với nông thôn chưa đồng bộ. Phần mềm kế toán chỉ kết nối dữ liệu giữa tỉnh và huyện, chưa có mạng lưới kết nối ở phạm vi toàn quốc và chưa đồng bộ với các cơ sở khám chữa bệnh. Số bệnh nhân khám chữa bệnh chưa có mã định danh riêng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc kiểm soát chi phí KCB BHYT. Phần mềm VSA không đáp ứng được nhu cầu cung cấp thông tin kế toán trong phạm vi rộng và không kết nối được với các phần mềm khác. Bởi vậy, để quản lý quỹ BHYT tốt hơn, BHXHVN cần xây dựng một hệ thống thông tin nói chung và thông tin kế toán nói riêng trên một cơ sở hạ tầng công nghệ mới - công nghệ 4.0. Tuy nhiên, khi áp dụng công nghệ 4.0, nguồn nhân lực kế toán tại BHXHVN sẽ có nhiều thay đổi do HTTTKT được xây dựng dựa trên nền công nghệ hiện đại với phạm vi lớn và đa chiều. III. ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG NGHỆ 4.0 ĐẾN NGUỒN NHÂN LỰC KẾ TOÁN QUỸ BHYT. Đổi mới CNTT là yếu tố cơ bản quyết định sự thay đổi công tác quản lý quỹ BHYT nói riêng và các quỹ khác tại BHXHVN nói chung. Để đáp ứng được nhu cầu cung cấp thông tin trong đó có thông tin kế toán cho nhiều đối tượng liên quan đến quỹ BHYT thì BHXHVN cần có một hệ thống thông tin kế toán dựa trên cơ sở công nghệ thông tin ứng dụng công nghệ 4.0. Khi ứng dụng công nghệ 4.0, BHXHVN tương lai sẽ là nơi tập hợp nguồn dữ liệu về quỹ BHYT rất lớn trong phạm vi cả nước. Do vậy, BHXHVN cần sử dụng máy tính có nhiều phân hệ nền tảng hạ tầng như: quản lý chính sách sao lưu, phục hồi dữ liệu; thiết bị lưu trữ cho cơ sở dữ liệu. Do nhu cầu xây dựng dữ liệu cấp quốc gia và nhu cầu xử lý thông tin ngày càng tăng, BHXHVN cần tiến hành cải tiến trung tâm dữ liệu cấp trung ương. Tùy vào khối lượng công việc mà thêm bớt các máy chủ. Các máy chủ tại BHXHVN phải có cấu hình phù hợp với nhiệm vụ xây dựng cơ sở dữ liệu cấp quốc gia. BHXHVN là trụ sở chính cần có một phòng máy chủ tương tự như trung tâm CNTT có trách nhiệm thu thập và xây dựng cơ sở dữ liệu cấp quốc gia, là nơi khắc phục sự cố cho trung tâm CNTT và thực hiện sao lưu dữ liệu. Thông tin từ các doanh nghiệp,cơ sở KCB, cá nhân được đưa lên Internet qua điện toán đám mây và chọn lọc các thông tin cần thiết (Qua bộ phận tường lửa) để lên máy chủ. Hệ thống các máy chủ trao đổi thông tin cần thiết, truyền dữ liệu giữa các cấp và tổng hợp đưa lên máy chủ tại BHXHVN và lưu trữ thông tin tại máy SAN. Ngược lại, các thông tin cung cấp cho doanh nghiệp, cá nhân, cơ sở y tế sẽ được truyền từ máy chủ tại BHXHVN xuống máy chủ BHXH các cấp và kết nối sang Internet, thuận lợi cho từng đối tượng tra cứu.
  8. 612 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 BHXHVN xây dựng một hệ thống CNTT phản ánh toàn diện các quy trình thu, chi BHYT, có sự liên kết chặt chẽ giữa phần mềm kế toán với các phần mềm liên quan khác. Các phần mềm này có sự liên thông với các đơn vị có liên quan đến BHYT ( Như phần mềm KCB tại các cơ sở KCB, hay phần mềm quản lý đối tượng thu BHYT tại các đơn vị sử dụng lao động...). Nếu xây dựng được phần mềm như vậy, việc quản lý quỹ BHYT rất chặt chẽ, đảm bảo mục tiêu: thu đủ, chi đúng, có nguồn lực để nâng cao chất lượng KCB cho người hưởng BHYT, đảm bảo mục tiêu ASXH. Khi xây dựng phần mềm kế toán thu BHYT, quyết toán chi BHYT phải xây dựng với ngôn ngữ hiện đại để đảm bảo chia sẻ với các modul phần mềm khác trong HTTT quản lý chung toàn ngành. Đồng thời, phần mềm kế toán BHYT tại BHXH và phần mềm chi phí KCB của các cơ sở KCB cùng cấp phải tương thích với nhau. Khi xây dựng một cổng thông tin điện tử hiện đại có tính tương tác. Qua đó, cá nhân và các doanh nghiệp cũng như cơ sở y tế có thể sử dụng để lấy thông tin. - Đối với các cá nhân: Thông tin cung cấp bao gồm: Các khoản đóng góp của các cá nhân; Các điều kiện hưởng cho các chế độ BHYT; Các hồ sơ yêu cầu hưởng hiện tại đã trình lên BHXH; Thông tin về quá trình nộp BHYT của từng đối tượng. - Đối với các doanh nghiệp: Các thông tin cung cấp là: Các khoản đóng BHYT; Danh sách lao động tham gia BHYT; Danh sách lao động nghỉ ốm đau/thai sản; Số tiền cho chế độ ốm đau, thai sản; Các khoản chi trả gần đây cho ốm đau, thai sản… - Đối với cơ sở KCB: Các điều kiện hưởng BHYT cho từng cá nhân; Những hồ sơ yêu cầu hưởng BHYT đã được chuyển cho BHXH… Cổng thông tin điện tử chỉ cho phép người dùng đọc thông tin, số liệu chung. Phần mềm kế toán thu BHYT, quyết toán chi BHYT khi xây dựng phải liên thông với tất cả các phần mềm quản lý khác như phần mềm thu BHYT, phần mềm chi phí KCB, phần mềm quản lý đối tượng hưởng BHYT, phần mềm quản lý thẻ BHYT, …và mỗi đối tượng hưởng BHYT phải có một mã định danh riêng để có thể theo dõi cả quá trình từ khi nộp BHYT, quá trình nộp BHYT và những lần thanh toán BHYT cho từng đối tượng hưởng cụ thể. Tuy nhiên khi xây dựng được hệ thống hạ tầng hiện đại, mô hình tổ chức công tác kế toán phân tán chuyển sang mô hình kế toán tập trung thì tại các địa phương không cần phải duy trì cơ sở dữ liệu nữa mà chỉ cần ở cấp trung ương. Do vậy nguồn nhân lực kế toán làm nhiệm vụ tổng hợp các khoản thu, chi BHYT tại tuyến tỉnh, thành phố không cần thiết. Lực lượng này sẽ giảm mạnh. Đồng thời, việc tổng hợp thu, chi BHYT lại dồn lên BHXHVN. Số lượng nhân viên kế toán trong đơn vị BHXH cấp Trung ương đòi hỏi tăng mạnh. Yêu cầu về công nghệ thông tin đối với nhóm nhân viên kế toán này rất cao. Người làm công tác kế toán ngoài chuyên môn còn phải được đào tạo giỏi về Công nghệ thông tin. Đối với đối tượng thụ hưởng BHYT, khi ứng dụng công nghệ 4.0 trong việc thu, chi BHYT, mỗi đối tượng có một mã định danh riêng, Quá trình thu, chi BHYT của mỗi đối tượng đều được minh bạch, công khai trong phần mềm. Cá nhân nào muốn biết thông tin về quá trình thu, chi BHYT của mình chỉ cần vào phần mềm tra cứu. Ở đó, họ biết được toàn bộ thông tin cả quá trình đóng góp BHYT, quyền lợi hưởng BHYT như thế nào, mỗi loại bệnh được hưởng BHYT ra sao. Như vậy, khi áp dụng CNTT ứng dụng công nghệ 4.0, số lượng nhân viên giải thích thắc mắc về chế độ hưởng BHYT của đối tượng không còn cần thiết, tất cả đã được lập trình trong phần mềm kế toán.
  9. PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP 613 Đối với các cơ sở KCB, thông tin của bệnh nhân từ lúc vào khám cho đến khi ra viện đều có mã định danh xác định nên không còn tình trạng đối tượng mượn BHYT đến khám như hiện nay. Toàn bộ quá trình thăm khám bệnh, điều trị đều được phản ánh trong hồ sơ khám bệnh điện tử. Như vậy, BHXHVN không cần nguồn nhân lực đòi hỏi am hiểu cả về kế toán và y tế tá túc tại mỗi cơ sở KCB để giám định lại hồ sơ của bệnh nhân làm căn cứ thanh toán BHYT. Ứng dụng công nghệ 4.0 trong quá trình thu, chi BHYT giúp cho BHXHVN giảm được nguồn nhân lực kế toán BHYT, nhân lực tại các bộ phận giải thích thắc mắc cho dân, nhân lực trong khâu giám định hồ sơ BHYT tại các cơ sở KCB. Nó làm cho bộ máy nhân sự của ngành tinh giảm, giữ lại những nhân lực có trình độ tay nghề kế toán và CNTT cao. Do đó, giúp cho BHXHVN có những chính sách giữ được nguồn nhân lực có tay nghề cao. Đồng thời, công nghệ 4.0 cũng giúp cho việc quản lý quỹ BHYT được chặt chẽ hơn, tránh hiện tượng rút lõi BHYT từ phía các cơ sở KCB. BHXHVN cần hiểu rõ được tác động của cách mạng công nghệ 4.0 đến nguồn nhân lực nói chung và nhân lực kế toán nói riêng để vận dụng trong chiến lược tổng thể nguồn nhân lực của ngành trong phạm vi cả nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. A .G.Griaznova, E. V. Markina.(2012) “Bảo hiểm y tế”, Sách giáo khoa Tài chính, NXB Tài chính và Thống kê, p 124- 126. 2. Adel M, Qatawneh, (2011) “The effect of electronic Commerce on the Accounting Information system of Jordanian Banks”, Sciedu Press, Toronto, Canada, Business And Economic, Nov. 3. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2013) “Chế độ kế toán Bảo hiểm Xã hội Việt Nam”, lưu hành nội bộ. 4. Đào Văn Thành và Cù Thu Thủy (2007), “Hệ thống thông tin quản lý”, NXB Tài chính, Hà Nội. 5. Nguyễn Thị Thanh Nga, Luận án tiến sĩ: “Hệ thống thông tin kế toán quỹ BHYT tại BHXHVN”, 2017. 6. Cổng thông tin kinh tế Việt Nam – VNEP (http://vnep.org.vn) “Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam”.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2