Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 2/2017<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ NUÔI BAN ĐẦU VÀ pH ĐẾN SINH<br />
TRƯỞNG, MẬT ĐỘ CỰC ĐẠI VÀ THỜI GIAN PHA CÂN BẰNG<br />
CỦA TẢO Thalassiosira pseudonana (Hasle & Heimdal, 1970)<br />
NUÔI SINH KHỐI<br />
EFFECT OF DENSITYAND pH ON GROWTH, MAXIMUM DENSITY<br />
AND THE TIME OBTAINED STATIONARY PHASE<br />
OF Thalassiosira pseudonana (Hasle & Heimdal, 1970) MASS PRODUCTION<br />
Trần Thị Lê Trang1, Lục Minh Diệp1<br />
Ngày nhận bài: 15/8/2016; Ngày phản biện thông qua: 21/12/2016, Ngày duyệt đăng: 15/6/2017<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mật độ nuôi và pH là hai yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng, mật độ cực đại và thời gian đạt<br />
pha cân bằng của vi tảo nói chung và tảo T. pseudonana nói riêng. Nghiên cứu được thực hiện với 4 mật độ<br />
(10, 15, 20 và 25 vạn tb/ml) và 5 mức pH (7,0; 7,5; 8,0; 8,5 và 9,0) trong nuôi sinh khối tảo T. pseudonana ở<br />
thể tích 60 lít. Kết quả cho thấy: Tảo được nuôi ở mật độ cao hơn (15, 20 và 25 vạn tb/ml) cho sinh trưởng,<br />
mật độ cực đại cao hơn và thời gian pha cân bằng sớm hơn so với mật độ thấp 10 vạn tb/ml (81,77 – 82,27 so<br />
với 71,53 vạn tb/ml; 4 hoặc 5 so với 6 ngày) (P < 0,05). Kết quả tương tự cũng được ghi nhận đối với các mức<br />
pH trong đó pH thấp từ 7,0 – 8,0 cho sinh trưởng, mật độ cực đại và thời gian đạt pha cân bằng tốt hơn so với<br />
mức pH cao 8,5 và 9,0 (67,87 – 78,83 so với 45,53 và 56,33; ngày thứ 5 so với ngày thứ 6) (P < 0,05). Như vậy,<br />
nên nuôi tảo T. pseudonana ở mật độ 15 vạn tb/ml và pH từ 7,5 đến 8,0.<br />
Từ khóa: Mật độ cực đại, pH, sinh trưởng, pha cân bằng, Thalassiosira pseudonana<br />
ABSTRACT<br />
Density and pH are two factors having significant effects on growth, maximum density and the time obtained<br />
in the stationary phase of microalgae in general and T. pseudonana in particular. The research was carried<br />
out with 4 different density levels (10, 15, 20 and 25 x 104cells/ml) and pH levels (7.0, 7.5, 8.0, 8.5 and 9.0)<br />
in T. pseudonana mass production in volume of 60 liters. The results showed that: T. pseudonana cultured at the<br />
density of 15, 20 and 25 x 104cells/ml gave higher growth, maximum density (81.77 – 82.27 compared to 71.53<br />
104cells/ml) and earlier time of stationary phase (4 or 5 as opposed to 6 days) in comparison with those of<br />
10 x 104cells/ml (P < 0.05). The similar results were also found with pH, in which, lower pH (7.0 – 8.0) showed<br />
higher maximum density and earlier time of stationary phase compared with the higher pH (8.5 and 9.0)<br />
(67.87 – 78.83 as opposed to 45.53 and 56.33; day 5 compared to day 6) (P < 0.05). From this study, it can be<br />
suggested that T. pseudonana should be cultured at the density of 15 x 104cells/ml and pH between 7.5 and 8.0.<br />
Keywords: Growth, maximum density, pH, stationary phase, Thalassiosira pseudonana<br />
<br />
1<br />
<br />
Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 121<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Vi tảo (Microalgae) là nguồn thức ăn tự<br />
nhiên, đóng vai trò quan trọng trong sản xuất<br />
giống các đối tượng thủy sản bao gồm các loài<br />
cá, giáp xác và động vật thân mềm. Kỹ thuật<br />
lưu giữ, nuôi và thu sinh khối tảo là một trong<br />
những khâu then chốt, quyết định đến sự thành<br />
công trong ương nuôi ấu trùng [9, 11]. Cho đến<br />
nay, các trại sản xuất giống ở nước ta chỉ tập<br />
trung sử dụng một vài loại giống tảo bản địa:<br />
Chaetoceros, Nannochloropsis, Isochrysis với<br />
năng suất và chất lượng luôn biến động đặc<br />
biệt là vào mùa mưa, đã ảnh hưởng lớn đến tỷ<br />
lệ sống, khả năng biến thái và chuyển giai đoạn<br />
của ấu trùng, từ đó gián tiếp làm giảm hiệu quả<br />
sản xuất. Đa dạng hóa số loài vi tảo ngoài các<br />
loài bản địa bằng cách di nhập từ nước ngoài<br />
về là một trong những hướng đi đang được<br />
quan tâm, nhằm cải thiện chất lượng và nâng<br />
cao tỷ lệ sống của con giống.<br />
Thalassiosira là loài tảo khuê đơn bào mới<br />
được nhập về nước ta trong những năm gần<br />
đây, có giá trị dinh dưỡng rất cao, đặc biệt<br />
là các axit béo không no đa nối đôi với hàm<br />
lượng DHA và EPA đạt 7,2 mg/ml [14, 15].<br />
Trong điều kiện nuôi nhân tạo, Thalassiosira<br />
có tốc độ sinh trưởng nhanh, có khả năng thích<br />
ứng với những thay đổi môi trường như: pH,<br />
ánh sáng và nhiệt độ [7]. Với những ưu điểm<br />
trên cộng với kích thước tế bào nhỏ 4-6 µm,<br />
Thalassiosira là một trong những loài tảo được<br />
ưu tiên lựa chọn trong các trại sản xuất giống<br />
cá biển (làm thức ăn cho copepoda), các trại<br />
sản xuất nhuyễn thể (giai đoạn nhuyễn thể có<br />
kích thước 200 µm trở lên) và các trại sản xuất<br />
tôm giống (giai đoạn mysis đến post-larvae)<br />
[11, 12].<br />
pH và mật độ nuôi được xem là hai yếu tố<br />
quan trọng hàng đầu ảnh hưởng trực tiếp đến<br />
tốc độ sinh trưởng, mật độ cực đại, thời gian<br />
đạt pha cân bằng và thời gian duy trì của quần<br />
thể tảo nói chung và Thalassiosira nói riêng<br />
[2, 3, 4]. Việc xác định pH và mật độ nuôi thích<br />
hợp không những cho năng suất cao mà còn<br />
<br />
122 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Số 2/2017<br />
tiết kiệm được lượng hóa chất sử dụng và<br />
nguồn tảo giống ban đầu nhằm đem lại hiệu<br />
quả kinh tế khi nuôi ở quy mô công nghiệp.<br />
Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu về<br />
pH và mật độ nuôi trong nuôi sinh khối tảo<br />
Thalassiosira còn hạn chế do nhiều nguyên<br />
nhân như thiếu nguồn giống, kinh phí triển<br />
khai,…. Chính vì vậy, nghiên cứu này nhằm<br />
xác định pH và mật độ nuôi tối ưu cho nuôi<br />
tảo Thalassiosira ở quy mô sinh khối, cung cấp<br />
các dữ liệu quan trọng cho việc thiết lập quy<br />
trình nuôi thu sinh khối loài tảo này phù hợp với<br />
điều kiện khí hậu ở nước ta.<br />
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
1. Vật liệu nghiên cứu<br />
Đối tượng nghiên cứu là giống tảo<br />
Thalassiosira pseudonana (Hasle & Heimdal,<br />
1970) được nhập từ Đan Mạch từ năm 2012<br />
và đang được lưu giữ tại phòng Tảo giống<br />
thuộc Viện Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại<br />
học Nha Trang. Nghiên cứu được thực hiện từ<br />
tháng 9 đến tháng 12 năm 2015.<br />
Nguồn nước biển được lấy từ khu vực<br />
Hòn Đỏ thuộc vịnh Nha Trang, cấp vào bể<br />
chứa 10m3, qua hệ thống lọc cát, sau đó để<br />
lắng từ 2 – 3 ngày nhằm loại bỏ cặn, chất hữu<br />
cơ lơ lửng...Nước biển sau khi lọc và lắng<br />
được cấp vào các túi nylon 60 lít và được<br />
xử lý bằng Chlorine 25 ppm trong 1 ngày với<br />
sục khí mạnh để diệt khuẩn, sau đó trung hòa<br />
bằng Natrithiosulfat với tỉ lệ 1:1. Môi trường<br />
dinh dưỡng được sử dụng trong nghiên cứu<br />
này là f/2.<br />
2. Phương pháp nghiên cứu<br />
Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ được<br />
bố trí với 4 nghiệm thức lần lượt là: 10, 15, 20<br />
và 25 vạn tế bào/ml trong nuôi sinh khối tảo<br />
T. pseudonana trong túi nylon 60 lít. Mỗi<br />
nghiệm thức được lặp lại 3 lần cùng thời điểm.<br />
Ảnh hưởng của pH lên sinh trưởng, mật<br />
độ cực đại và thời gian đạt pha cân bằng<br />
của tảo được bố trí với 5 mức khác nhau:<br />
pH 7,0; 7,5; 8,0; 8,5 và 9,0. Các mức pH được<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
điều chỉnh bằng cách sử dụng các hóa chất<br />
HCl và NaOH. Mật độ ban đầu là kết quả tốt<br />
nhất ở thí nghiệm 1. Mỗi nghiệm thức được lặp<br />
lại 3 lần cùng thời điểm.<br />
Trong suốt quá trình thí nghiệm, các thông<br />
số kĩ thuật được đảm bảo phù hợp với sự sinh<br />
trưởng và phát triển của tảo T. pseudonana<br />
gồm: nhiệt độ từ 25 – 350C, độ mặn 30 –<br />
35‰, cường độ ánh sáng dưới 20 klux (nhờ<br />
hệ thống mái che), sục khí liên tục với tốc độ<br />
300 lít/phút.<br />
3. Phương pháp thu thập và xử lí số liệu<br />
3.1. Phương pháp lấy mẫu tảo<br />
Mẫu tảo được lấy một lần trong ngày vào 8<br />
giờ sáng để xác định mật độ tế bào. Lượng mẫu<br />
tảo được lấy mỗi lần là 5 ml. Mẫu sau khi thu<br />
được cố định bằng dung dịch Neutral Lugols<br />
(20g Potasium Iodin (KI) + 10g I2 + 200 mL<br />
nước cất).<br />
3.2. Phương pháp xác định mật độ tế bào tảo<br />
Việc xác định mật độ tế bào được tiến<br />
hành bằng buồng đếm hồng cầu (Neubaeur’s<br />
Hemacytometer); buồng đếm có 25 ô vuông<br />
lớn, mỗi ô có 16 ô vuông nhỏ, mỗi ô vuông nhỏ<br />
có diện tích 0,0025 mm2, độ sâu buồng đếm<br />
0,1 mm.<br />
Lắc đều mẫu tảo, dùng micropipet hút<br />
mẫu tảo cho vào buồng đếm đã được đậy sẵn<br />
lamen, để lắng một lúc rồi đưa vào thị trường<br />
kính để đếm ở vật kính 40. Mật độ tế bào được<br />
xác định theo 2 trường hợp:<br />
- Trường hợp mật độ tảo thưa (dưới 5´106<br />
TB/mL): Mật độ tế bào (TB/mL) = Số tế bào<br />
đếm được trong 25 ô lớn ´ 104.<br />
- Trường hợp mật độ tảo dày (trên 5´106<br />
TB/mL): Mật độ tế bào (TB/mL) = (Số tế bào ở<br />
5 ô lớn/5) ´ 25 ´ 104.<br />
3.3. Quản lý các yếu tố môi trường<br />
Các yếu tố môi trường được xác định hàng<br />
ngày. Nhiệt độ đo bằng nhiệt kế rượu (độ chính<br />
xác 10C). pH được đo bằng máy đo pH (Hanna<br />
pH Meter, độ chính xác 0,1). Độ mặn được đo<br />
<br />
Số 2/2017<br />
bằng khúc xạ kế (Refractometer, độ chính xác<br />
0,5‰). Cường độ ánh sáng được đo bằng máy<br />
đo cầm tay Hanna Digital Illuminometer – Đài<br />
Loan (độ chính xác ±6% giá trị đọc được).<br />
3.4. Phương pháp xử lý số liệu<br />
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm<br />
SPSS 16.0. Sử dụng phương pháp phân tích<br />
phương sai một yếu tố (Oneway - ANOVA) và<br />
phép kiểm định Duncan để so sánh sự khác<br />
biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) về mật độ<br />
tảo giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Toàn bộ<br />
số liệu được trình bày dưới dạng giá trị trung<br />
bình (TB) ± sai số chuẩn (SE).<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
1. Ảnh hưởng của mật độ nuôi<br />
Kết quả nghiên cứu cho thấy, mật độ có<br />
ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng, mật độ cực<br />
đại và thời gian đạt pha cân bằng của quần<br />
thể tảo T. pseudonana với xu hướng chung là<br />
mật độ nuôi càng cao thì khả năng sinh trưởng<br />
của tảo càng nhanh, mật độ cực đại đạt được<br />
càng lớn và thời gian đạt pha cân bằng càng<br />
sớm (Hình 1).<br />
Ở nghiệm thức có mật độ thấp 10 vạn tb/ml,<br />
tảo sinh trưởng chậm, mật độ cực đại đạt được<br />
thấp (71,53 ± 1,99) và thời gian đạt pha cân<br />
bằng muộn hơn (ngày nuôi thứ 6) so với các<br />
nghiệm thức có mật độ cao hơn (P < 0,05).<br />
Khi gia tăng mật độ từ 15 đến 25 vạn tb/ml,<br />
sinh trưởng của tảo tăng nhanh, mật độ cực<br />
đại đạt từ 81,77 – 82,27 vạn tb/ml, thời gian<br />
đạt pha cân bằng sớm ở ngày nuôi thứ 4 và 5.<br />
Không có sự khác biệt thống kê về mật độ cực<br />
đại, giữa các mật độ 15, 20 và 25 vạn tb/ml<br />
(82,27 ± 2,08; 81,93 ± 2,17 và 81,77 ± 1,79)<br />
(P > 0,05). Tuy nhiên, ở mật độ ban đầu cao<br />
25 vạn tb/ml có thời gian đạt pha cân bằng<br />
rất sớm (ngày thứ 4) nhưng thời gian duy trì<br />
của quần thể tảo T. pseudonana ngắn hơn 2<br />
ngày so với các mật độ còn lại (8 ngày so với<br />
10 ngày)<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 123<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 2/2017<br />
<br />
Hình 1. Ảnh hưởng của mật độ<br />
<br />
Mật độ nuôi là một trong những yếu tố có<br />
liên quan mật thiết đến tốc độ sinh trưởng, mật<br />
độ cực đại và thời gian tảo đạt pha cân bằng<br />
[1], [2], [5]. Nhiều nghiên cứu cho thấy: các loài<br />
tảo nói chung và tảo T. pseudonana nói riêng<br />
đều phát triển theo quy luật chung: khi mật độ<br />
nuôi cao thì tốc độ sinh trưởng của tảo nhanh,<br />
mật độ cực đại lớn và thời gian đạt pha cân<br />
bằng sớm hơn [3, 4, 6]. Mật độ nuôi cao làm số<br />
lượng tế bào tham gia vào quá trình phân chia<br />
càng lớn, kết quả là tốc độ sinh trưởng của<br />
tảo càng nhanh, số lượng tế bào tạo ra càng<br />
lớn và ngược lại [1, 3]. Điều này có ý nghĩa<br />
rất lớn trong nuôi sinh khối các loài tảo nhằm<br />
rút ngắn thời gian của pha 1 (pha thích nghi),<br />
nhanh chóng đạt đến pha cân bằng nhằm thu<br />
được lượng sinh khối lớn [10]. Do đó, trong<br />
trường hợp cần thu sinh khối tảo lớn trong thời<br />
gian ngắn nhất, bên cạnh các tác động về môi<br />
trường, dinh dưỡng và hệ thống nuôi, gia tăng<br />
mật độ nuôi là một trong những giải pháp phổ<br />
biến và hiệu quả.<br />
Tuy nhiên, việc gia tăng mật độ nuôi cũng<br />
có những tác động tiêu cực đối với sự sinh<br />
trưởng và phát triển của quần thể tảo. Sự<br />
tăng nhanh mật độ tế bào kéo theo sự thay<br />
đổi nhanh chóng của các yếu tố trong hệ thống<br />
nuôi, gồm: cạn kiệt dinh dưỡng, pH tăng, thiếu<br />
hụt CO2, hạn chế ánh sáng, tăng số lượng<br />
<br />
124 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
tế bào chết và các sản phẩm thải,… [1], [6].<br />
Hậu quả là, quần thể tảo nhanh chóng đạt đến<br />
pha cân bằng sau đó bước vào pha suy vong<br />
và tàn lụi; do đó thời gian duy trì quần thể giảm<br />
một cách đáng kể. Điều này giải thích tại sao ở<br />
nghiệm thức có mật độ nuôi cao 25 vạn tb/ml,<br />
sinh trưởng của tảo nhanh, thời gian đạt pha<br />
cân bằng sớm nhưng thời gian tàn lụi cũng xảy<br />
ra nhanh hơn.<br />
Như vậy, mật độ nuôi thích hợp cho sinh<br />
trưởng, mật độ cực đại và thời gian pha cân<br />
bằng của tảo T. pseudonana nuôi sinh khối là<br />
15 vạn tb/ml nhằm tiết kiệm nguồn tảo giống,<br />
đem lại hiệu quả kinh tế cho người nuôi.<br />
2. Ảnh hưởng của pH<br />
Tương tự, pH cũng có ảnh hưởng lớn đến<br />
sinh trưởng, mật độ cực đại và thời gian đạt<br />
pha cân bằng của tảo T. pseudonana với xu<br />
hướng chung là pH ở mức thấp hơn (7,0 – 8,0)<br />
cho kết quả sinh trưởng, mật độ cực đại và thời<br />
gian pha cân bằng tốt hơn pH ở mức cao (8,5<br />
và 9,0) (P < 0,05) (Hình 2).<br />
Trong khoảng pH từ 7,0 – 8,0, khả năng sinh<br />
trưởng và mật độ cực đại của tảo tăng nhanh<br />
và đạt cao nhất ở pH 7,5 và 8,0 với mật độ<br />
cực đại lần lượt là 76,9 ± 1,05 và 78,83 ± 1,01<br />
(P > 0,05) so với tảo được nuôi ở pH 8,5 và<br />
9,0. Trong đó, mật độ cực đại ở nhóm pH thấp<br />
(7,0 – 8,0) cao hơn xấp xỉ 1,5 lần so với nhóm<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
pH cao (67,87 – 78,83 so với 45,53 và 56,33<br />
vạn tb/ml) (P < 0,05). Mặt khác, nuôi tảo ở pH<br />
thấp 7,0 – 8,0 cho thời gian đạt pha cân bằng<br />
sớm hơn (ngày nuôi thứ 5) và thời gian duy trì<br />
<br />
Số 2/2017<br />
quần thể dài hơn (10 ngày) so với tảo được<br />
nuôi ở các mức pH cao 8,5 và 9,0 (đạt pha cân<br />
bằng vào ngày thứ 6 và tàn lụi nhanh sau 8<br />
ngày thí nghiệm) (P < 0,05).<br />
<br />
Hình 2. Ảnh hưởng của pH<br />
<br />
Nhìn chung, mỗi loài tảo có sự thích ứng<br />
với pH riêng và tùy thuộc vào sự phân bố tự<br />
nhiên với khoảng pH thích hợp dao động từ<br />
7,5 – 8,7 [13]. Nghiên cứu của Chen & Durbin,<br />
1994 [8] đã kết luận: Thalassiosira pseudonana<br />
phát triển tốt nhất trong khoảng pH từ 8,0 – 8,4.<br />
Khi pH tăng, lượng CO2 trong nước rất thấp là<br />
nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng của<br />
tảo giảm rõ rệt. Bên cạnh đó, mức pH cao còn<br />
làm ức chế quá trình điều hòa áp suất thẩm<br />
thấu, quang hợp và trao đổi chất của tảo [16].<br />
Do đó, khi tăng pH từ 8,5 – 9,0 như ở nghiên<br />
cứu này tảo sinh trưởng rất chậm, mật độ cực<br />
đại thấp và thời gian đạt pha cân bằng muộn.<br />
Trong quá trình quang hợp, tảo hấp thụ<br />
CO2 mạnh nên thường làm pH tăng lên rất cao.<br />
Có thể khắc phục tình trạng này bằng phương<br />
pháp sục khí có bổ sung khí CO2 hoặc bổ sung<br />
NaHCO3 vào môi trường nuôi tảo hoặc thay đổi<br />
chu kỳ chiếu sáng [6].<br />
<br />
tb/ml cho sinh trưởng, mật độ cực đại cao hơn<br />
<br />
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br />
<br />
đa nối đôi có trong tảo T. pseudonana. Đây là<br />
<br />
1. Kết luận<br />
Tảo được nuôi ở mật độ 15, 20 và 25 vạn<br />
<br />
một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh<br />
<br />
(81,77 – 82,27 so với 71,53 vạn tb/ml) và thời<br />
gian đạt pha cân bằng sớm hơn (4 hoặc 5 so<br />
với 6 ngày) so với mật độ thấp 10 vạn tb/ml<br />
(P < 0,05).<br />
Tảo được nuôi pH 7,0 – 8,0 cho sinh<br />
trưởng, mật độ cực đại cao hơn và thời gian<br />
đạt pha cân bằng tốt hơn so với pH 8,5 và 9,0<br />
(67,87 – 78,83 so với 45,53 và 56,33 và ngày<br />
thứ 5 so với ngày thứ 6) (P < 0,05).<br />
Mật độ nuôi 15 vạn tb/ml và pH từ 7,5 – 8,0<br />
nên được sử dụng trong thực tiễn sản xuất để<br />
tiết kiệm nguồn tảo giống, hóa chất điều chỉnh<br />
pH mang lại hiệu quả kinh tế cao.<br />
2. Kiến nghị<br />
Cần nghiên cứu sâu hơn ảnh hưởng của<br />
mật độ nuôi và pH đến thành phần sinh hóa,<br />
đặc biệt là hàm lượng các acid béo không no<br />
<br />
giá giá trị dinh dưỡng của loài tảo này.<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 125<br />
<br />