TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 52, 2009<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ẢNH HƯỞNG CỦA NGUỒN PROTEIN TRONG THỨC ĂN TINH<br />
ĐẾN LƯỢNG ĂN VÀO, TỶ LỆ TIÊU HÓA VÀ TĂNG TRỌNG Ở BÒ THNT<br />
Đinh Văn Dũng<br />
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br />
Nguyễn Xuân Bả<br />
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Thí nghiệm được thực hiện trên 12 bò Vàng Việt Nam tuổi từ 10 - 12 tháng với khối<br />
lượng 88,3 kg (± 3,3 kg) tại Trại thí nghiệm của Trường Đại học Nông Lâm Huế. Thí nghiệm<br />
được thiết kế theo phương pháp phân lô ngẫu nhiên (3 lô thí nghiệm) theo nguyên tắc đồng đều.<br />
Tất cả bò thí nghiệm được ăn cỏ tự nhiên với lượng 1,25% (so với khối lượng bò) vào ban ngày,<br />
rơm tự do vào ban đêm và 1% (khối lượng bò) là thức ăn tinh bao gồm cám gạo, bột sắn, bột<br />
ngô, rỉ mật, u rê và nguồn thức ăn giàu đạm: bột cá (lô 1), bột đậu nành (lô 2) hoặc khô dầu lạc<br />
(lô 3). Tỷ lệ các thành phần có khác nhau nhỏ giữa các hỗn hợp thức ăn tinh ở các lô thí<br />
nghiệm nhằm đảm bảo hàm lượng protein thô trong thức ăn tinh là 15%. Kết quả cho thấy<br />
không có sự sai khác thống kê giữa các lô thí nghiệm về lượng thức ăn thu nhận, tỷ lệ tiêu hóa<br />
các thành phần dinh dưỡng kh'u phần và tăng trọng của bò (P>0,05). Kết quả thí nghiệm đã<br />
tạo cơ hội lựa chọn cho người nông dân về nguồn thức ăn giàu protein để nuôi bò thịt trong<br />
từng điều kiện khác nhau của các địa phương.<br />
<br />
I. Đặt vấn đề<br />
Chăn nuôi bò thịt đóng vai trò quan trọng trong hệ thống sản xuất nông nghiệp và<br />
đời sống nông hộ ở nước ta. Tổng đàn bò và sản lượng thịt đã không ngừng tăng lên<br />
trong những năm gần đây. Năm 2007, cả nước có 6,72 triệu con, tăng 3,29% so với năm<br />
2006, sản lượng thịt bò tăng 9,66%/năm trong giai đoạn từ 2001 đến 2006 (Viện Chăn<br />
nuôi, 2007). Tuy vậy, sản lượng thịt bò còn quá thấp so với nhu cầu, bình quân thịt bò<br />
tiêu thụ mới đạt 1,7 kg hơi/đầu người/năm (Cục Chăn nuôi, 2006). Ngành chăn nuôi trâu<br />
bò nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức lớn như giá thành sản phNm<br />
cao, bò tăng trọng chậm, năng suất chăn nuôi thấp (Nguyễn Xuân Bả, 2006). Phương<br />
thức chăn nuôi bò của các nông hộ ở vùng đồng bằng chủ yếu là chăn thả hoặc chăn dắt<br />
vào ban ngày và bổ sung thêm rơm lúa khi bò về chuồng vào ban đêm. Thức ăn tinh<br />
dùng để nuôi bò thịt thường là cám gạo, bột ngô và bột sắn với mức khoảng 1-2 kg/ngày<br />
(Ba và cs, 2005) và nguồn thức ăn giàu protein trong khNu phần bò thịt chưa được người<br />
dân quan tâm nhiều. Nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng bò được nuôi dưỡng bằng<br />
<br />
37<br />
thức ăn thô xanh có tỉ lệ tiêu hóa thấp và đã đạt được tăng trọng đáng kể khi bổ sung<br />
thêm thức ăn giàu năng lượng và protein (Hennessy và Murrison, 1982; Lee và cs, 1987;<br />
Hennessy và cs, 1995). Hơn nữa, khi tăng lượng thức ăn tinh trong khNu phần có thể rút<br />
ngắn thời gian vỗ béo và làm tăng lợi nhuận. Ba và cs (2008) cho biết tăng lượng hỗn<br />
hợp thức ăn tinh trong khNu phần bò Vàng sinh trưởng từ 0,33 lên 1,98% so với khối<br />
lượng cơ thể bò đã làm tăng tuyến tính mức tăng trọng và hiệu quả kinh tế. Để cải thiện<br />
dinh dưỡng cho bò thịt, việc sử dụng các nguồn thức ăn giàu protein là rất cần thiết. Tuy<br />
vậy, việc sử dụng nguồn protein nào là vấn đề cần quan tâm. Xuất phát từ vấn đề trên<br />
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này. Giả thuyết của nghiên cứu là các nguồn<br />
protein khác nhau trong thức ăn tinh để nuôi bò thịt có ảnh hưởng đến tăng trọng và hiệu<br />
quả chăn nuôi.<br />
II. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu<br />
2.1. Thiết kế thí nghiệm và quản lý nuôi dưỡng<br />
Thí nghiệm được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu vật nuôi Thủy An, Trường<br />
Đại học Nông Lâm Huế từ ngày 21/01/2008 đến 21/04/2008 (92 ngày) trên 12 bò đực<br />
giống bò Vàng Việt Nam với độ tuổi khoảng 10 - 12 tháng, khối lượng trung bình 88,3<br />
± 3,3 kg. Bò được phân lô theo nguyên tắc đồng đều vào 3 lô thí nghiệm tương ứng với<br />
3 nguồn protein trong thức ăn tinh. Sơ đồ bố trí thí nghiệm được trình bày ở bảng 1.<br />
Bảng 1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm<br />
Lô thí nghiệm<br />
Chỉ tiêu<br />
Lô 1 Lô 2 Lô 3<br />
Nguồn protein trong thức ăn tinh Bột cá Bột đậu tương Khô dầu lạc<br />
Số bò (con) 4 4 4<br />
Khối lượng bò (kg) 88,6 ± 5,0 88,5 ± 4,9 87,9 ± 8,5<br />
Thức ăn tinh cho ăn (% khối lượng<br />
1 1 1<br />
cơ thể)<br />
Cỏ tự nhiên (% khối lượng cơ thể) 1,25 1,25 1,25<br />
Rơm lúa Tự do Tự do Tự do<br />
Tảng đá liếm khoáng Tự do Tự do Tự do<br />
Bò được nuôi cá thể trong ô chuồng riêng có máng ăn, máng uống và được tNy<br />
nội ngoại ký sinh trùng, tiêm vắc xin phòng bệnh tụ huyết trùng, bệnh lở mồm long<br />
móng trước khi đưa vào theo dõi thí nghiệm 15 ngày. Bò được cho ăn cỏ tự nhiên vào<br />
ban ngày, chia làm hai bữa lúc 07 giờ 30 phút và 13 giờ 15 phút; rơm lúa được cho ăn<br />
tự do vào ban đêm từ 18 giờ 30 phút đến 07 giờ 00 phút sáng hôm sau. Thức ăn tinh<br />
được trộn đều các loại nguyên liệu với nhau trước khi cho ăn và cho bò ăn 3 bữa/ngày,<br />
vào lúc 07 giờ 15 phút, 13 giờ 00 phút và 16 giờ 30 phút. Lượng thức ăn dư thừa sẽ<br />
được thu lại và cân vào lúc 06 giờ 00 phút sáng hôm sau. Luợng thức ăn tinh bổ sung<br />
và lượng cỏ cho ăn được điều chỉnh hàng tuần sau khi cân bò để đảm bảo tỷ lệ cho ăn<br />
38<br />
1% đối với thức ăn tinh và 1,25% đối với cỏ tự nhiên tính theo khối lượng cơ thể của<br />
từng con. Tất cả bò được cung cấp tảng đá liếm khoáng và nước uống tự do trong suốt<br />
thời gian thí nghiệm.<br />
Thức ăn tinh của từng lô được phối trộn trên các nguyên liệu sẵn có và theo các<br />
công thức nhất định, đảm bảo tỷ lệ protein thô khoảng 15%. Công thức phối trộn thức<br />
ăn tinh ở các lô thể hiện ở bảng 2.<br />
Bảng 2: Thành phần và giá trị dinh dưỡng của các hỗn hợp thức ăn tinh<br />
Thức ăn tinh lô Thức ăn tinh lô Thức ăn tinh lô<br />
Loại thức ăn<br />
1 2 3<br />
Cám gạo 40 43 42<br />
Bột ngô 11 10 10<br />
Bột sắn 28 24 24<br />
Bột cá 8 - -<br />
Bột đậu tương - 10 -<br />
Khô dầu lạc - - 11<br />
Rỉ mật 10 10 10<br />
Urê 2 2 2<br />
Muối 1 1 1<br />
Giá trị dinh dưỡng của thức ăn<br />
Vật chất khô (%) 82,99 83,72 83,55<br />
Chất hữu cơ (% VCK) 88,20 88,75 88,99<br />
Protein thô (%VCK) 14,72 15,06 14,72<br />
NDF (%VCK) 31,95 36,56 35,55<br />
Thí nghiệm kéo dài 92 ngày, lượng ăn vào được theo dõi hàng ngày bằng cách<br />
cân lượng thức ăn cho ăn và lượng dư thừa. Bò thí nghiệm được cân từ 7 giờ 00 đến 7<br />
giờ 30 (trước khi cho ăn) và cân hàng tuần. Tăng trọng được tính toán theo phương trình<br />
hồi quy.<br />
Tỷ lệ tiêu hóa khNu phần được xác định từ ngày 21 đến ngày 27 (giai đoạn 1) và<br />
từ ngày 42 đến ngày 48 (giai đoạn 2) của thí nghiệm. Mẫu thức ăn cho ăn và dư thừa<br />
được thu hàng ngày, được sấy khô và bảo quản cho phân tích hóa học. Phân được thu<br />
ngay sau khi gia súc thải ra và cân xác định khối lượng trong ngày. Cuối mỗi ngày được<br />
trộn đều, lấy mẫu phụ khoảng 5% và bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ -200C. Cuối giai<br />
đoạn thí nghiệm tiêu hóa phân được trộn đều theo từng gia súc và sấy khô ở nhiệt độ<br />
600C cho phân tích thành phần hóa học. Tất cả mẫu phân được nghiền qua lỗ sàng 1 mm<br />
ở máy nghiền (Retsche, Germany).<br />
<br />
<br />
39<br />
2.2. Phân tích hóa học<br />
Mẫu thức ăn, phân được phân tích vật chất khô (VCK), ni tơ tổng số, khoáng<br />
tổng số theo AOAC (1990). Protein thô được tính toán bằng công thức N x 6,25. Xơ<br />
trung tính (NDF) được xác định theo Van Soest et al. (1991).<br />
2.3. Xử lý số liệu<br />
Số liệu được xử lý bằng phần mềm MINITAB version 14.0 theo phương pháp<br />
phân tích ANOVA.<br />
III. Kết quả và thảo luận<br />
3.1. Ảnh hưởng của nguồn protein trong thức ăn tinh đến lượng thức ăn ăn<br />
vào của bò<br />
Lượng thức ăn ăn vào là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá giá trị<br />
của các loại thức ăn. Thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, có tính ngon miệng cao sẽ được<br />
gia súc thu nhận nhiều hơn. Kết quả đánh giá ảnh hưởng của các nguồn protein khác<br />
nhau trong thức ăn tinh đến lượng thức ăn ăn vào của bò được trình bày ở bảng 3.<br />
Bảng 3: Lượng thức ăn ăn vào của bò ở các lô thí nghiệm (kgVCK/con/ngày)<br />
Lô thí nghiệm<br />
Chỉ tiêu SEM p<br />
Lô 1 Lô 2 Lô 3<br />
Rơm 1,36 1,38 1,36 0,036 0,886<br />
Cỏ 1,04 1,01 1,02 0,037 0,872<br />
Tổng thức ăn thô 2,40 2,39 2,37 0,067 0,916<br />
Thức ăn tinh 0,94 0,93 0,98 0,081 0,916<br />
Tổng TĂ /ngày 3,34 3,32 3,35 0,134 0,987<br />
kgVCK/100P/ngày 3,16 3,20 3,23 0,090 0,847<br />
Qua bảng 3 cho thấy, tổng lượng thức ăn ăn vào của bò ở các lô thí nghiệm<br />
tương đương nhau từ 3,32 kg VCK/con/ngày (lô 2) đến 3,35 kgVCK/con/ngày (lô 3)<br />
và không có sự sai khác có ý nghĩa về thống kê (p>0,05).<br />
3.2. Ảnh hưởng của các nguồn protein trong thức ăn tinh đến tỷ lệ tiêu hóa<br />
các chất dinh dưỡng trong khu phần<br />
Cùng với lượng thức ăn ăn vào, tỷ lệ tiêu hóa của thức ăn được coi là yếu tố then<br />
chốt đảm bảo cho năng suất chăn nuôi tăng cao. Kết quả đánh giá ảnh hưởng của các<br />
nguồn protein trong thức ăn tinh đến tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong khNu phần<br />
ở các lô thí nghiệm được trình bày ở bảng 4.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
40<br />
Bảng 4: Tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong kh'u phần (%)<br />
Lô thí nghiệm<br />
Chỉ tiêu SEM P<br />
Lô 1 Lô 2 Lô 3<br />
Vật chất khô 65,71 62,91 65,08 1,753 0,508<br />
Chất hữu cơ 62,59 65,97 68,00 2,822 0,408<br />
Protein thô 68,65 68,57 70,73 1,680 0,596<br />
NDF 64,17 57,29 64,30 2,977 0,218<br />
Qua bảng 4 cho thấy tỷ lệ tiêu hóa chất khô khNu phần ở các lô thí nghiệm trong<br />
khoảng 62,91% đến 65,71%, tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ là từ 62,59 đến 68%, tỷ lệ tiêu<br />
hóa protein từ 68,57 đến 70,73% và tỷ lệ tiêu hóa NDF từ 57,29 đến 64,3%. Khi sử<br />
dụng các nguồn protein khác nhau trong thức ăn tinh bổ sung cho bò đã không ảnh<br />
hưởng có ý nghĩa đến tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong khNu phần (p>0,05). Với<br />
tỷ lệ tiêu hóa protein như trên thì lượng protein tiêu hóa ăn vào và chất hữu cơ tiêu hóa<br />
ăn vào ở lô 1, lô 2, lô 3 lần lượt tương ứng là 0,27; 0,27 và 0,28 kg/con/ngày và 1,72;<br />
1,94 và 2,02 kg/con/ngày.<br />
Kết quả đánh giá tỷ lệ tiêu hóa các thành phần dinh dưỡng khNu phần trong thí<br />
nghiệm này là khá cao có lẽ do bò thí nghiệm ở độ tuổi có tốc độ sinh trưởng cao (10-12<br />
tháng tuổi) và lượng thức ăn tinh sử dụng ở mức thấp (1% so với khối lượng cơ thể bò)<br />
nên đã có ảnh hưởng xúc tác đến lượng ăn vào và tỷ lệ tiêu hóa so với khNu phần 100% là<br />
thức ăn xơ thô. Ba và cs (2008a) cho biết khi tăng lượng bột sắn trong khNu phần từ 0 -<br />
2,21 kg/con/ngày cho bò nuôi bằng khNu phần cơ bản là rơm lúa và cỏ đã làm tăng tuyến<br />
tính tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ từ 56,5% đến 67,2% và tỷ lệ tiêu hóa NDF giảm từ 62,3%<br />
xuống còn 41,3%. Một thí nghiệm khác đánh giá ảnh hưởng của các mức hỗn hợp thức ăn<br />
tinh từ 0 – 2,45 kg/con/ngày cho bò Vàng nuôi bằng rơm và cỏ cho biết tăng lượng thức<br />
ăn tinh đã làm tăng tuyến tính tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ từ 51,2- 60,5% và tỷ lệ tiêu hóa<br />
NDF giảm từ 56,2% xuống còn 46,4% (Ba và cs, 2008b).<br />
3.3. Ảnh hưởng của các nguồn protein trong thức ăn tinh đến tăng trọng, tiêu<br />
tốn và chi phí thức ăn<br />
Kết quả đánh giá ảnh hưởng của các nguồn protein khác nhau trong thức ăn tinh đến<br />
tăng trọng, tiêu tốn và chi phí thức ăn cho 1 kg tăng trọng của bò được trình bày ở bảng 5.<br />
Bảng 5: Tăng trọng, tiêu tốn và chi phí thức ăn của bò ở các lô thí nghiệm<br />
Lô thí nghiệm<br />
Chỉ tiêu SEM p<br />
Lô 1 Lô 2 Lô 3<br />
Khối lượng bò bắt đầu thí nghiệm (kg) 88,6 88,5 87,9 6,376 0,996<br />
Khối lượng bò kết thúc thí nghiệm (kg) 120,3 116,3 118,4 6,810 0,918<br />
Tăng trọng (g/con/ngày) 344 302 332 28,09 0,570<br />
Tiêu tốn thức ăn (kg/kg tăng trọng) 10,7 12,2 10,2 0,519 0,059<br />
Chi phí thức ăn (đồng/kg tăng trọng) 24138 26803 24118 2132 0,609<br />
41<br />
Qua bảng 5 cho thấy, khối lượng của bò lúc bắt đầu thí nghiệm có độ đồng đều<br />
cao. Sau 92 ngày thí nghiệm khối lượng bò ở lô 1 cao nhất với 120,3 kg, thấp nhất là ở<br />
lô 2 chỉ với 116,3 kg. Tuy nhiên, sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).<br />
Tăng trọng của bò ở lô 1 cao nhất với 344 g/con/ngày, tiếp đến là lô 3 với 332<br />
g/con/ngày, tăng trọng thấp nhất là ở lô 2 chỉ với 302 g/con/ngày. Tiêu tốn thức ăn dao<br />
động từ 10,2 (lô 3) đến 12,2 kg thức ăn/kg tăng trọng (lô 2), chi phí thức ăn cho cho 1<br />
kg tăng trọng thấp nhất là lô 3, cao nhất là ở lô 2. Tuy vậy, các sự sai khác này là không<br />
có ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05).<br />
Tăng trọng của bò trong thí nghiệm này là thấp và chi phí thức ăn cho tăng trọng<br />
còn cao do thời gian chúng tôi triển khai thí nghiệm đúng vào dịp rét đậm, rét hại vào<br />
cuối năm 2007 và đầu năm 2008 nên năng lượng cho duy trì đã tăng lên. Ba và cs<br />
(2008b) cho biết ảnh hưởng của các mức hỗn hợp thức ăn tinh từ 0 - 2,45 kg/con/ngày<br />
cho bò Vàng nuôi bằng rơm và cỏ đã làm tăng tuyến tính mức tăng trọng của bò (LWG<br />
= 0,19 (+ 0,026) + 0,29 (+ 0,021) CI (R2 = 0,916; p0,05). Cần có các nghiên cứu về ảnh hưởng của các nguồn thức ăn giàu<br />
protein trong khNu phần vỗ béo bò thịt đến năng suất và chất lượng thịt.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. AOAC, Official Methods of Analysis, 15th edn. Association of Official Analytical<br />
Chemists, Arlington, Virginia, 1990.<br />
2. Nguyễn Xuân Bả, Đánh giá khả năng sử dụng cây dâu tằm (Morus alba), cây dâm bụt<br />
(Hibiscus Rosa Sinensi) làm thức ăn cho gia súc nhai lại ở miền Trung, Việt Nam,<br />
Luận án tiến sĩ Nông Nghiệp, 2006.<br />
3. Ba, N. X., L. D. Ngoan, C. M. Gloag and P. T. Doyle, Feed resources for cattle in<br />
Quang Ngai, south central Vietnam, Proceedings of AHAT/BSAS International<br />
<br />
42<br />
conference: Integrating systems to meet the challenges of globalisation, Vol 2 (2005),<br />
P4 .<br />
4. Ba, Nguyen Xuan, Nguyen Huu Van, Le Duc Ngoan, Clare M. Leddin & Peter T.<br />
Doyle, Amount of cassava powder fed as a supplement affects feed intake and live<br />
weight gain in Laisind cattle in Vietnam, Asian-Australasian Journal of Animal<br />
Science, Vol. 21, No.8, (2008a), 1143-1150.<br />
5. Ba, N. X., N. H. Van, L. D. Ngoan, C. M. Leddin and P. T. Doyle, Effects of amount of<br />
concentrate supplement on forage intake, diet digestibility and live weight gain in<br />
yellow cattle in Vietnam, Asian-Aust. J. Anim. Sci. 20, 2008b.<br />
6. Cục chăn nuôi, Báo cáo tình hình chăn nuôi giai đoạn 2001-2005 và định hướng phát<br />
triển thời kỳ 2006-2015, Hà Nội, 2006.<br />
7. Hennessy, D. W. and R. D. Murrison, Cottonseed meal and molasses as sources of<br />
protein and energy for cattle offered low quality hay from pastures of the north coast<br />
of New South Wales, Aust. J. Expt. Agric. Anim. Husb. 22 (1982), 140-146.<br />
8. Hennessy, D. W., P. J. Kohun, P. J. Williamson, D. A. Brown and J. V. Nolan, The<br />
effect of nitrogen and protein supplementation on feed intake, growth and digestive<br />
function of steers with different Bos indicus, Bos taurus genotypes when fed a low<br />
quality grass hay, Aust. J. Agric Res. 46 (1995), 1121-1136.<br />
9. Lee, G. J., D. W. Hennessy, J. V. Nolan and R. A. Leng, Responses to nitrogen and<br />
maize supplements by young cattle offered a low-quality pasture hay, Aust. J. Agric.<br />
Res. 38 (1987), 195-207.<br />
10. Vũ Văn Nội, Phạm Kim Cương, Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Văn Vinh, Nghiên cứu sử<br />
dụng các nguồn thức ăn sẵn có để vỗ béo bò nâng cao khả năng cho thịt và hiệu quả<br />
kinh tế, Báo cáo khoa học tại Hội nghị khoa học Bộ Nông nghiệp và PTNT, tháng<br />
6/1999, phần dinh dưỡng và thức ăn.<br />
11. Van Soest, P.J., J. B. Robertson and B. A. Lewis, Methods for dietary fibre, neutral<br />
detergent fibre and non-starch polysaccharide in relation to animal nutrition, J. Dairy<br />
Sci. 74 (1991), 3583-3597.<br />
12. Viện Chăn nuôi, Hội nghị đ'y mạnh sản xuất, chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh<br />
phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ, Hà Nội, 18-19/12/2007.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
43<br />
EFFECTS OF PROTEIN SOURCES IN MIXED CONCENTRATE ON FEED<br />
INTAKE, DIGESTIBILITY AND LIVEWEIGHT GAIN OF BEEF CATTLE<br />
Dinh Van Dung<br />
College of Padagogy, Hue University<br />
Nguyen Xuan Ba<br />
College of Agriculture and Forestry, Hue University<br />
<br />
SUMMARY<br />
<br />
A feeding experiment was conducted to test the hypothesis that growth rates of cattle<br />
given differrent protein sources in concentrate would be different. Twelve Vietnamese Yellow<br />
cattle, 10-12 months old with an average liveweight of 88,3 kg (± 3,3 kg) were allocated into<br />
three treatments: a basal diet of native grass fed at 1,25% of BW and rice straw fed ad libitum<br />
and supplemented with 1% of BW of mixed concentrate consisted of different protein sources<br />
(fish meal, soyabean powder or groundnut cake). The crude protein content in supplement was<br />
15%. There was no significant difference (P>0,05) in the total feed intake, apparent digestibility<br />
of organic matter or crude protein or in digestibility of neutral detergent fibre or liveweight gain<br />
between treatments. It was concluded that in beef cattle diet with the limited amount of mixed<br />
concentrate (below 1% of BW) and the low crude protein content, the protein sources would not<br />
effect the growth rate of cattle.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
44<br />