intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của phương pháp tưới và chu kỳ tưới đến một số chỉ tiêu sinh lý, năng suất của giống ngô nếp (Zea mays L.)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

25
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp tưới và chu kỳ tưới đến sự sinh trưởng và năng suất của giống ngô nếp có ý nghĩa rất quan trọng nhằm mục đích khuyến cáo kỹ thuật trồng tiết kiệm nước, thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu và nâng cao hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của phương pháp tưới và chu kỳ tưới đến một số chỉ tiêu sinh lý, năng suất của giống ngô nếp (Zea mays L.)

  1. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 ẢNH HƯỞNG CỦA PHƯƠNG PHÁP TƯỚI VÀ CHU KỲ TƯỚI ĐẾN MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH LÝ, NĂNG SUẤT CỦA GIỐNG NGÔ NẾP (ZEA MAYS L.) *Phạm Ngọc Nhàn; Huỳnh Quang Tín; Lê Đức Huy; Lê Trần Thanh Liêm Trường Đại học Cần Thơ Email: *pnnhan@ctu.edu.vn TÓM TẮT Kỹ thuật canh tác là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất cây trồng. Trong đó, tưới tiêu hợp lý không chỉ giúp cây trồng sinh trưởng tốt mà còn tiết kiệm nguồn nước tưới thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, nguồn nước tưới ngày càng khan hiếm. Thí nghiệm được tiến hành ở vụ Xuân Hè trên nền đất lúa tại huyện Châu Thành A – tỉnh Hậu Giang với mục tiêu tìm ra phương pháp tưới và chu kỳ tưới phù hợp trên giống ngô nếp để giúp cây tăng trưởng tốt nhất. Thí nghiệm được bố trí gồm 2 nhân tố với 7 nghiệm thức, 4 lần nhắc lại. Kết quả thí nghiệm cho thấy chiều cao cây ngô ở nghiệm thức A2B1 (phương pháp tưới gốc kết hợp chu kỳ tưới 1 ngày/lần) cao nhất, tốc độ tăng trưởng ở các nghiệm thức có chu kỳ tưới 1 ngày/lần luôn cao nhất. Trọng bắp, đường kính bắp, trọng lượng 1000 hạt, năng suất lý thuyết và năng suất thực thu ở nghiệm thức A1B2 (phương pháp tưới phun kết hợp 3 ngày tưới/lần) cao nhất. Theo dõi ngày chín sinh lý của ngô thí nghiệm cho thấy nghiệm thức A1B2 (phương pháp tưới phun kết hợp 3 ngày tưới/lần) và A2B2 (phương pháp tưới gốc kết hợp 3 ngày tưới/lần) có thời gian chín sinh lý ngắn nhất. Tính toán hiệu quả mô hình trồng ngô trên ruộng cho thấy chi phí đầu tư là 24.390.000 đồng, lợi nhuận thu được từ mô hình là 20.020.000. Kết quả bước đầu xác định với chu kỳ tưới 3 ngày/lần kết hợp phương pháp tưới phun sẽ giúp nâng cao năng suất của ngô nếp trong vụ Xuân Hè ở tỉnh Hậu Giang. Từ khóa: ngô, chu kỳ tưới, phương pháp tưới, năng suất, sinh trưởng. GIỚI THIỆU Cây ngô (Zea mays L.) là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, đứng vị trí thứ 3 sau lúa mì và lúa nước về diện tích, trong khi đứng đầu về năng suất và sản lượng (FAO, 1995). Cây ngô được xem là một trong những thành tựu có ý nghĩa nhất trong việc phát triển nông nghiệp góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho thế giới. Trong bối cảnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo chủ trương của Nhà nước, cây ngô là một trong những giống cây trồng cạn mang lại hiệu quả cho người nông dân khi họ thực hiện việc chuyển đổi giảm diện tích lúa 3 vụ sang 2 lúa – 1 màu. Ngô nếp có tiềm năng phát triển trên các vùng đất lúa kém hiệu quả ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, là một trong những mô hình sản xuất được sự quan tâm của nhiều địa 40
  2. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 phương khuyến cáo áp dụng trong nông hộ. Số liệu từ Tổng cục thống kê (2017) cho thấy tỉnh Hậu Giang có xu hướng tăng diện tích cây ngô trong giai đoạn chuyển đổi cây trồng, diện tích trồng ngô trên tỉnh tăng liên tục qua các năm, từ năm 2012 (2.190 ha) đến 2016 là 3.200 ha (tăng 1.100 ha). Ở vụ Xuân Hè, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh thường xuyên bị thiếu nước tưới, nhiều hộ nông dân đã chuyển sang các giống cây trồng cạn có khả năng chịu hạn và ngô là một trong những mô hình sản xuất hiệu quả cho nông hộ. Với mục tiêu tăng năng suất ngô nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, giảm nhập khẩu từ nước ngoài, các giống ngô có năng suất cao thường xuyên được nghiên cứu và chọn tạo, song song với đó là kỹ thuật canh tác phù hợp cũng đã được quan tâm khuyến cáo. Tuy nhiên, phương pháp tưới và chu kỳ tưới còn đang là vấn đề trở ngại, nông dân có tập quán sử dụng nhiều nước, tưới nhiều lần với mong muốn cung cấp lượng nước tốt nhất cho cây, điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cây, giảm năng suất và lãng phí công lao động. Bên cạnh đó, chi phí đầu vào cho sản xuất ngô luôn ở mức cao trong khi giá bán lại thấp. Hơn nửa, tình trạng thiếu lao động, giá ngày công lao động tăng cao dẫn đến hiệu quả sản xuất ngô còn thấp. Nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp tưới và chu kỳ tưới đến sự sinh trưởng và năng suất của giống ngô nếp có ý nghĩa rất quan trọng nhằm mục đích khuyến cáo kỹ thuật trồng tiết kiệm nước, thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu và nâng cao hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thời gian và địa điểm nghiên cứu – Thời gian: Từ ngày 15/3/2018 đến ngày 05/6/2018 – Địa điểm: Thí nghiệm được bố trí trên đất nông hộ tại ấp Trường Long Tây, xã Trường Long A, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Phương pháp bố trí thí nghiệm Thí nghiệm gồm 2 nhân tố: Nhân tố 1 là 2 phương pháp tưới gồm tưới phun (A1) và tưới gốc (A2); Nhân tố 2 là chu kỳ tưới gồm 3 chu kỳ: (B1) 1 ngày tưới, (B2) 3 ngày tưới và (B3) 5 ngày tưới. Phương pháp bố trí lô phụ theo kiểu split-plot được sử dụng cho thí nghiệm, gồm 4 lần nhắc lại với diện tích ô nhỏ 15 m2 (5m × 3m) trên mỗi nghiệm thức, diện tích ô lớn là 45 m2. Tổng diện tích bố trí cho thí nghiệm là 1000 m2 bao gồm đất trồng thí nghiệm, bờ bao và rảnh thoát nước, khoảng cách giữa các lần nhắc lại là 1,2 m. Kỹ thuật chăm sóc ngô dựa trên tài liệu khuyến cáo của Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Hậu Giang, khoảng cách cây là 70 cm, hàng là 35 cm. Nguồn nước tưới được sử dụng từ kênh dẫn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp của địa phương. Giống ngô được sử dụng trong nghiên cứu là ngô nếp của địa phương có chất lượng hạt đáp ứng thị hiếu trên thị trường. Thí nghiệm được bố trí gồm 7 nghiệm thức, trong đó: – Nghiệm thức 1: Phương pháp tưới phun kết hợp chu kỳ tưới 1 ngày/lần (ký hiệu A1B1). – Nghiệm thức 2: Phương pháp tưới phun kết hợp chu kỳ tưới 3 ngày/lần (ký hiệu A1B2). 41
  3. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 – Nghiệm thức 3: Phương pháp tưới phun kết hợp chu kỳ tưới 5 ngày/lần (ký hiệu A1B3). – Nghiệm thức 4: Phương pháp tưới gốc kết hợp chu kỳ tưới 1 ngày/lần (ký hiệu A2B1). – Nghiệm thức 5: Phương pháp tưới gốc kết hợp chu kỳ tưới 3 ngày/lần (ký hiệu A2B2). – Nghiệm thức 6: Phương tưới gốc kết hợp chu kỳ tưới 5 ngày/lần (ký hiệu A2B3). – Nghiệm thức 7: Nghiệm thức đối chứng từ nông dân trồng theo tập quán tưới phun ở thời kỳ gieo hạt đến khi ngô trổ cờ chuyển sang tưới gốc, chu kỳ tưới cho ngô mỗi ngày, nước tưới được dẫn vào giữa các rãnh trong ruộng ngô (ký hiệu DC). Các chỉ tiêu thu thập Một số chỉ tiêu theo dõi bao gồm: (1) Các chỉ tiêu nông sinh học: chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, số lá trên cây, độ cao rễ, đường kính thân; (2) Chỉ tiêu các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất bắp tươi: trọng lượng bắp lúc thu hoạch, đường kính bắp, số hạt/hàng, trọng lượng 1000 hạt lúc thu hoạch, trọng lượng 1000 hạt khi bảo quản (sấy đưa về ẩm độ bảo quản là 14%), chiều dài bắp, số bắp hữu hiệu trên cây. Từ lúc gieo hạt đến khi cây 15 ngày được chăm sóc như nhau trên mỗi nghiệm thức, mỗi ngày tưới 2 lần đảm bảo ẩm độ đất cho cây phát triển ở giai đoạn còn nhỏ. Hai nhân tố của thí nghiệm được áp dụng sau 15 ngày gieo hạt (lúc cây đã phát triển 4-5 lá). Các chỉ tiêu về chiều cao cây, số lá/cây thu mẫu lần đầu sau 15 ngày gieo hạt, sau đó thu mẫu định kỳ cách 10 ngày/1 lần đến lúc ngô được 55 ngày (thời điểm ngô đã trổ cờ). Các chỉ tiêu về độ cao rể, đường kính thân, các chỉ tiêu cấu thành năng suất được thu 1 lần lúc thu hoạch. Phương pháp thu mẫu: Phương pháp phân phối đều theo đường chéo 5 điểm được áp dụng trong nghiên cứu. Mỗi điểm gồm 6 cây được đánh số thứ tự (5 điểm × 6 cây = 30 cây/1 lần nhắc lại), mỗi nghiệm thức gồm 4 lần nhắc lại × 30 cây = 120 cây/nghiệm thức. Phương tiện thí nghiệm Ngô được bố trí trên đất phù sa có độ pH đất dao động trong suốt quá trình thí nghiệm từ 4,5 đến 7,0. Nguồn nước tưới có pH dao động từ 7,2 đến 8,2 (trung bình là 7,6). Các phương tiện thu mẫu gồm thước dây đo chiều cao (200 cm  2 mm), cân điện tử (500 g  0,01 mg), máy đo ẩm độ hạt Tetkit, máy đo ẩm độ đất kết hợp pH đất, máy đo pH nước tưới, tủ sấy hạt. Phương pháp phân tích dữ liệu Số liệu được tính toán giá trị trung bình, so sánh sự khác biệt giữa các nghiệm thức bằng phân tích ANOVA 2 nhân tố với phép thử Ducan ở mức ý nghĩa 
  4. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Độ ẩm đất và pH đất trong thời gian thí nghiệm A. Ẩm độ B. pH đất Hình 1: Độ ẩm đất và pH đất của các nghiệm thức thí nghiệm Đất đai là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng. Ngô là một trong những giống cây trồng có khả năng phát triển tốt trên vùng đất thịt hoặc đất thịt pha cát có pH dao động từ 4,5 đến 7,0 (Ngô Hữu Tình, 2003). Điều kiện pH đất trong thí nghiệm dao động từ 4,8 đến 5,3 giữa các nghiệm thức, đây là điều kiện pH phù hợp để cây ngô sinh trưởng tốt. Phương pháp tưới và chu kỳ tưới trong thí nghiệm có liên quan mật thiết với nhau. Kết quả theo dõi ẩm độ thí nghiệm cho thấy đối với nghiệm thức A1B3 có trung bình ẩm độ đất thấp nhất (52,4%), kế đến là nghiệm thức A2B3 (56,2%), cao nhất ở nghiệm thức DC (ẩm độ đất là 69,3%). Đối với nghiệm thức A2B1 và A1B1 có ẩm độ đất lần lượt là 63,3% và 64,9%, nghiệm thức A2B2 (59,7%), nghiệm thức A1B2 (56,3%). Kết quả trên Hình 1 cho thấy ẩm độ đất của chu kỳ tưới 3 ngày/lần (B2), 5 ngày/lần (B3) ở phương pháp tưới phun có xu hướng thấp hơn so với ẩm độ đất ở phương pháp tưới gốc. Một số chỉ tiêu về sinh trưởng của cây bắp Chiều cao cây ngô qua các thời kỳ thí nghiệm Bảng 1: Chiều cao cây ngô qua các thời kỳ thí nghiệm Nghiệm thức H15 H25 H35 H45 H55 A1B1 36,3 83,5 152,6 175,5 189,3 A1B2 36,6 86,7 154,9* 180,3 191,5 A1B3 37,4 88,3 155,2* 177,5 191,0 A2B1 38,5* 91,2* 158,4* 181,1 194,0* A2B2 36,2 87,3 152,3 174,9 188,9 43
  5. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 Nghiệm thức H15 H25 H35 H45 H55 A2B3 38,2 91,7* 150,8 174,7 186,4* DC 35,4* 80,8* 146,9* 174,0 191,4 CV% 3,56 6,09 2,78 2,07 1,65 F(A) 0,145 0,016 0,791 0,528 0,513 F(B) 0,113 0,241 0,343 0,407 0,164 F(A*B) 0,173 0,181 0,009 0,006 0,006 Ghi chú: H15: Chiều cao cây lúc 15 ngày, H25: Chiều cao cây lúc 25 ngày, H35: Chiều cao cây lúc 35 ngày, H45: Chiều cao cây lúc 45 ngày và H55: Chiều cao cây lúc 55 ngày. Đối với cây ngô, tăng trưởng chiều cao cây là chỉ tiêu phản ánh tương đối chính xác về sự sinh trưởng, phát triển của cây qua các thời kỳ khác nhau. Đây là đặc trưng hình thái có liên quan chặt chẽ đến các yếu tố kỹ thuật canh tác, cấu trúc di truyền và đặc điểm sinh lý, sinh hóa của ngô. Theo Ngô Hữu Tình (2003), chiều cao của cây ngô có liên quan mật thiết đến khả năng sử dụng ánh sáng mặt trời, khả năng chống đổ và bố trí mật độ trồng trên đồng ruộng. Để đánh giá khả năng sinh trưởng của cây ngô qua các nghiệm thức, chiều cao cây được đo từ sau 15 ngày gieo hạt (H15), 25 ngày (H25), 35 ngày (H35), 45 ngày (H45) và 55 ngày (H55), đây cũng là giai đoạn cây ra hoa và không có sự tăng trưởng chiều cao. Theo dõi chiều cao cây trong thí nghiệm này cho thấy sau 25 ngày trồng, chiều cao cây ở nghiệm thức A2B3 cao nhất (91,7 cm), kế đến là A2B1 (91,2 cm) và thấp nhất là nghiệm thức DC của nông dân (80,8 cm). Kết quả phân tích thống kê cho thấy sau 35 ngày trồng, chiều cao cây có sự ảnh hưởng bởi phương pháp tưới kết hợp chu kỳ tưới, hệ số Sig. của A*B lần lượt là 0,009, 0,006 và 0,006. Kết quả phân tích cũng cho thấy chiều cao cây ở nghiệm thức A2B1 luôn có xu hướng cao hơn các nghiệm thức còn lại và ngược lại chiều cao cây ở nghiệm thức DC thấp nhất ở các thời kỳ theo dõi. Kết quả nghiên cứu của Dương Thị Loan và ctv (2014) cho thấy ngô bị thiếu nước làm ảnh hưởng mạnh đến quá trình sinh trưởng của thân. Khi gặp hạn hoặc thiếu nước, cây ngô có xu hướng rút ngắn thời gian sinh trưởng hơn trong điều kiện đủ nước. 44
  6. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 Hình 2: Tốc độ tăng trưởng của ngô qua các thời kỳ Ghi chú: D25: Tốc độ tăng trưởng của cây sau 25 ngày trồng, D35: Tốc độ tăng trưởng của cây sau 35 ngày trồng, D45: Tốc độ tăng trưởng của cây sau 45 ngày trồng và D55: Tốc độ tăng trưởng của cây sau 55 ngày trồng. Kết quả phân tích được thể hiện trên hình 2 cho thấy tốc độ tăng trưởng của cây ngô đạt cao nhất ở giai đoạn 25 đến 35 ngày sau gieo hạt. Trong đó, nghiệm thức A1B1 có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, trung bình mỗi ngày ngô cao thêm 6,9 cm/ngày, và thấp nhất là nghiệm thức A2B3 (5,9 cm/ngày). Từ thời kỳ 45 ngày trồng trở đi, tốc độ tăng trưởng của ngô giảm dần đến lúc thu hoạch. Kết quả phân tích cho thấy, đối với các nghiệm thức có chu kỳ tưới 5 ngày/lần (B3) cho tốc độ tăng trưởng chậm nhất và các nghiệm thức có chu kỳ tưới 1 ngày/lần (B1) cho tốc tăng trưởng nhanh nhất. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn Đức và ctv (2017), cho rằng chiều cao cây của các giống ngô có sự tăng trưởng mạng nhất vào giai đoạn 35 – 42 ngày sau khi gieo hạt, ở giai đoạn 49 ngày sau khi gieo cây ngô đã bước vào thời kỳ trổ cờ nên chiều cao cây có tốc độ tăng trưởng chậm lại. Theo Dương Thị Loan và ctv (2014), hạn hán là một trong những trở ngại chính ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, nghiên cứu bổ sung các đặc tính chống chịu hạn sẽ làm tăng tính ổn định của ngô trong bối cảnh ngô là một trong những cây trồng có ưu thế chuyển đổi trên đất trồng lúa 3 vụ, đất sản xuất lúa kém hiệu quả. Do vậy, kỹ thuật canh tác với chu kỳ tưới hợp lý sẽ giúp nông dân bố trí mùa vụ hợp lý, thích ứng với điều kiện của thời tiết trong thời gian tới. Chiều cao đóng bắp Chiều cao đóng bắp của cây được tính từ gốc cho đến đốt thân mang bắp hữu hiệu trên cùng và thay đổi tùy thuộc đặc điểm di truyền của từng giống ngô, cũng như biện pháp chăm sóc kỹ thuật. Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp phù hợp sẽ giúp quá trình thụ phấn, thụ tinh và tích lũy dinh dư�ng vào hạt được thuận lợi. Chiều cao đóng bắp quá cao hoặc quá thấp đều gây bất lợi cho cây, như chiều cao đóng bắp quá cao giúp cây có khả năng nhận phấn tốt nhưng dễ bị đổ ngã, gẫy thân khi có tác động của điều kiện ngoại cảnh, chiều cao đóng bắp quá thấp sẽ hạn chế quá trình nhận 45
  7. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 phấn, điều này ảnh hưởng đến năng suất của ngô và chất lượng hạt. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nghiệm thức A2B1 có chiều cao đóng bắp cao nhất (85,6 cm), kế đến là nghiệm thức A1B3 (83,6 cm) và thấp nhất là nghiệm thức A1B1 (77,7 cm). Hình 3: Chiều cao đóng bắp của các nghiệm thức Kết quả phân tích sự khác biệt về chiều cao đóng bắp giữa các nghiệm thức cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức thí nghiệm ở mức ý nghĩa α
  8. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 Tương tự như chỉ tiêu chiều cao cây, số lá trên cây cũng là một chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh trưởng, phát triển của ngô. Lá ngô là bộ phận quyết định đến khả năng quang hợp tích lũy chất hữu cơ nuôi sống cây và cung cấp chất dinh dư�ng nuôi hạt. Tốc độ ra lá nhanh phản ánh cây sinh trưởng, phát triển tốt và ngược lại. Theo Long Thúy Vân (2015), số lá/cây nhiều hay ít có vai trò quan trọng đối với năng suất, phẩm chất hạt ngô. Số lá phụ thuộc vào đều kiện thời tiết, kỹ thuật canh tác, giống,… trong đó giống và khí hậu gây ra sự biến động mạnh nhất. Tuy nhiên, sự biến động số lá/cây giữa các nghiệm thức ở từng thời kỳ trong thí nghiệm không lớn và có tương quan chặt chẽ với thời gian sinh trưởng. Ở thời kỳ gieo hạt và cây con có số lá thấp, được tăng dần lên và đạt tối đa ở thời kỳ ra hoa, sau đó số lá giảm dần cho đến khi thu hoạch. Qua theo dõi số lá/cây của thí nghiệm cho thấy số lá có xu hướng tăng dần qua các đợt theo dõi và tăng nhanh nhất vào thời kỳ 25 đến 35 ngày trồng. Ở giai đoạn này, tốc độ ra lá trung bình/ngày ở nghiệm thức DC cao nhất, tương đương 0,45 lá/ngày và thấp nhất ở nghiệm thức A2B2 (0,18 lá/ngày) sau 35 ngày theo dõi. Số lá trên cây cao nhất ở giai đoạn 35 đến 45 ngày trồng, sau đó giảm nhẹ đến lúc thu hoạch. Kết quả phân tích thống kê cho thấy luôn có sự tương tác giữa phương pháp tưới và chu kỳ tưới đến số lá/cây qua các thời kỳ tăng trưởng của cây. Một số chỉ tiêu về năng suất của ngô Năng suất là một trong những chỉ tiêu quan trọng của công tác nghiên cứu, đây được xem là chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá quá trình sinh trưởng, phát triển của cây qua các nghiệm thức thí nghiệm được bố trí trên đồng ruộng. Các yếu tố cấu thành năng suất bao gồm các chỉ tiêu theo dõi như số bắp/cây, trọng lượng bắp tươi, đường kính bắp, trọng lượng 1000 hạt, trọng lượng 1000 hạt sau khi sấy bảo quản,… Số bắp trên cây Kết quả theo dõi thí nghiệm trên hình 6 cho thấy các nghiệm thức A2B2, A2B3 và DC có số bắp/cây cao nhất (trung bình 2,1 bắp/cây), kế đến là nghiệm thức A2B1 (trung bình 2 bắp/cây), nghiệm thức A1B1 (trung bình 1,9 bắp/cây) và thấp nhất là nghiệm thức A1B2, A1B3 (trung bình 1,8 bắp/cây). Khối lượng, đường kính bắp và trọng lượng 1000 hạt Bảng 3: Các yếu tố cấu thành năng suất ngô của các nghiệm thức Nghiệm TL Bắp ĐK Bắp D bắp Số hạt/hàng T 1000t T 1000s NSLT NSTT thức A1B1 193,0 5,1 16,1 22,6 391,7 142,9 61,1 58,4 A1B2 195,6 5,2 16,2 22,8 395,2 142,3 66,8 65,5 A1B3 164,7 5,0 14,6 21,0 383,6 133,5 61,4 53,4 A2B1 179,3 5,1 15,2 21,9 368,0 135,6 58,1 49,1 47
  9. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 Nghiệm TL Bắp ĐK Bắp D bắp Số hạt/hàng T 1000t T 1000s NSLT NSTT thức A2B2 187,6 5,0 17,4 21,8 395,0 148,6 59,9 56,5 A2B3 167,0 4,9 15,3 21,1 391,1 141,0 56,1 51,9 DC 165,7 4,9 15,5 20,5 353,6 119,0 47,4 43,5 CV% 9,09 2,78 4,54 7,10 4,8 6,8 9,9 12,4 F(A) 0,350 0,139 0,416 0,447 F(B) 0,006 0,062 0,000 0,284 F(A*B) 0,630 0,469 0,020 0,839 Ghi chú: TL Bắp: Trọng lượng bắp lúc thu hoạch (gram); ĐK Bắp: Đường kính bắp (cm); Dài bắp: Độ dài bắp (cm); Số hạt/hàng: Số hạt/hàng (hạt); T1000t: Trọng lượng 1000 hạt tươi (gram); T 1000s: Trọng lượng 1000 hạt sau khi sấy về ẩm độ 14% (gram); NSLT: Năng suất lý thuyết (tạ/ha); NSTT: Năng suất thực tế (tạ/ha). – Trọng lượng bắp lúc thu hoạch: Kết quả phân tích cho thấy nghiệm thức A1B2 có trọng lượng trung bình của bắp cao nhất (195,6 g), kế đến là nghiệm thức A1B1 (193,0 g) và thấp nhất là nghiệm thức DC (165,7 g). Đối với các nghiệm thức có chu kỳ tưới 5 ngày/lần cho thấy khối lượng trung bình/bắp thấp hơn so với các chu kỳ tưới 1 ngày/lần và 3 ngày/lần. Kết quả phân tích cho thấy có sự khác biệt chu kỳ tưới giữa các nghiệm thức thí nghiệm ở mức ý nghĩa α = 0,05 (Sig.= 0,006). – Đường kính bắp: Đường kính bắp dao động từ 4,9 đếm 5,2 cm giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Trong đó, nghiệm thức A1B2 cho kết quả đường kính bắp cao nhất (5,2 cm) và thấp nhất ở nghiệm thức A2B3 và nghiệm thức DC (4,9 cm). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy trong điều kiện tưới ít nước hoặc được cung cấp quá nhiều nước, đường kính bắp giảm so với các nghiệm thức được cung cấp nước vừa đủ (chu kỳ tưới 3 ngày/lần). – Chiều dài bắp: Chiều dài bắp dao động từ 14,6 cm đến 17,4 cm ở các nghiệm thức thí nghiệm. Trong đó, nghiệm thức có chiều dài bắp lớn nhất là A2B2 (17,4 cm), kế đến là nghiệm thức A1B2 (16,2 cm) và thấp nhất là nghiệm thức A1B3 (14,6 cm). – Số hạt/hàng: Số hạt/hàng giữa các nghiệm thức dao động từ 20,5 đến 22,8 (hạt/hàng). Trong đó, nghiệm thức A1B2 có số hạt/hàng cao nhất (22,8 hạt/hàng), kế đến là nghiệm thức A1B1 (22,6 hạt/hàng) và thấp nhất là nghiệm thức DC (20,5 hạt/hàng). – Trọng lượng 1000 hạt: Kết quả phân tích cho thấy trọng lượng 1000 hạt lúc thu hoạch ở nghiệm thức A1B2 cao nhất (395,2 g), kế đến là nghiệm thức A2B2 (395,0 g) và thấp nhất là nghiệm thức DC (353,6 g). Trọng lượng 1000 hạt sau khi sấy về ẩm độ 14% (phù hợp với ẩm độ bảo quản) cho thấy nghiệm thức A2B2 có trọng lượng 1000 hạt cao nhất (148,6 g), kế đến là A1B1 (142,9 g), A1B2 có trọng lượng là 142,3 g và thấp nhất là nghiệm thức DC (119,0 g). 48
  10. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 – Năng suất lý thuyết: Kết quả phân tích năng suất lý thuyết của các nghiệm thức cho thấy nghiệm thức A1B2 có năng suất lý thuyết cao nhất (66,8 tạ/ha), kế đến là nghiệm thức A1B3 (61,4 tạ/ha) và thấp nhất là ở nghiệm thức DC (47,4 tạ/ha). Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy đối với các nghiệm thức sử dụng phương pháp tưới phun cho năng suất cao hơn so với các nghiệm thức sử dụng phương pháp tưới gốc. Đối với chu kỳ tưới trên ngô cho thấy các nghiệm thức tưới theo kỳ kỳ 3 ngày tưới/lần cho năng suất cao nhất. – Năng suất thực thu: Kết quả phân tích cho thấy năng suất thực tế của nghiệm thức A1B2 cao nhất (65,5 tạ/ha), thấp nhất ở nghiệm thức DC (43,5 tạ/ha). Kết quả nghiên cứu cho thấy khi cung cấp nhiều nước cho cây hoặc quá ít nước làm cây không thể phát huy hết khả năng sinh trưởng làm năng suất của ngô cũng giảm. Một số chỉ tiêu theo dõi ngày trổ cờ, ngày phun râu và ngày chín sinh lý Hình 4: Ngày trổ cờ, phun râu và chính sinh lý giữa các nghiệm thức – Ngày trổ cờ: Kết quả phân tích cho thấy giữa các nghiệm thức có số ngày bắp trổ cờ dao động từ 51,3 đến 54 ngày. Trong đó, nghiệm thức DC cho ngày trổ cờ dài nhất là 54 ngày kể từ lúc gieo hạt, kế đến là nghiệm thức A2B2 (52,3 ngày) và thấp nhất là nghiệm thức A1B3 (51,3 ngày), nghiệm thức A1B2 có số ngày trở cờ là 52 ngày. – Ngày phun râu: Kết quả thể hiện trên hình 4 cho thấy số ngày bắp phun râu dao động từ 55,5 đến 57 ngày kể từ lúc gieo hạt. Trong đó, nghiệm thức có ngày phun râu dài nhất là DC (57 ngày), kế đến là nghiệm thức A1B2 (56,8 ngày) và thấp nhất là 55,5 ngày đối với 3 nghiệm thức A1B1, A1B3 và A2B2. – Ngày chín sinh lý: Sau khi thụ phấn, thụ tinh hạt ngô hình thành và bắt đầu tích lũy chất vào hạt. Giai đoạn chín sinh lý là giai đoạn cuối cùng trong vòng đời của cây ngô, được tính từ khi chân hạt ngô xuất hiện vết sẹo đen, thân lá chuyển sang màu vàng, lá bi khô. Cũng ở giai đoạn này tất cả các hạt trên bắp đã tích lũy vật chất khô tối đa, hàm lượng nước trong hạt giảm. Số 49
  11. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 ngày bắp chín sinh lý cao nhất ở nghiệm thức DC và A2B3 (69 ngày), kế đến là nghiệm thức A1B1, A1B3 và A2B1 (68,8 ngày) và thấp nhất ở 2 nghiệm thức A1B2 và A2B2 (68,5 ngày). Kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng cách giữa ngày trổ cờ và phun râu của nghiệm thức A1B2 và A2B3 dài nhất (4,8 ngày), khoảng cách giữa ngày trổ cờ đến chín sinh lý ở nghiệm thức dài nhất A1B3 (17,5 ngày). Hiệu quả của mô hình Bảng 4: Hạch toán mô hình canh tác bắp trên ruộng lúa của nông hộ STT Nội dung Số tiền 1 Chi phí đầu tư (đồng/ha) 24.390.000 2 Thu nhập (đồng/ha) 43.700.000 3 Lợi nhuận (đồng/ha) 20.020.000 4 Tỷ suất lợi nhuận/chi phí đầu tư (đồng/ha) 0,82 Kết quả phân tích chi phí của mô hình được thể hiện trên bảng 4 cho thấy chi phí đầu tư vào mô hình sản xuất ngô là 24.390.000 đồng/ha, lợi nhuận của mô hình thu được 20.020.000 đồng/ha. Tỷ suất lợi nhuận của mô hình là 0,82, điều này có nghĩa là nông hộ đầu tư 1 đồng thì sẽ thu được lãi là 0,82 đồng. Kết luận Nghiên cứu về sinh trưởng, phát triển của cây ngô trên đồng ruộng mang ý nghĩa lớn đối với khoa học và sản xuất, giúp bố trí mùa vụ, kỹ thuật canh tác phù hợp thích ứng với sự thay đổi của thời tiết hiện nay. Kết quả thí nghiệm cho thấy tốc độ tăng trưởng của cây đạt cao nhất ở thời kỳ 25-35 ngày trồng, trong đó nghiệm thức A1B1 cho tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Chiều cao đóng bắp của ngô ở nghiệm thức A2B1 cao nhất. Theo dõi chỉ tiêu trọng lượng bắp, đường kính bắp, trọng lượng 1000 hạt lúc thu hoạch, năng suất lý thuyết và năng suất thực tế cho thấy nghiệm thức A1B2 cao nhất. Theo dõi ngày ngô chín sinh lý cho thấy nghiệm thức A1B2 và A2B2 có ngày chín sinh lý ngắn nhất. Như vậy, kết quả thí nghiệm cho thấy sử dụng phương pháp tưới phun kết hợp chu kỳ 3 ngày tưới/lần đã ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất của ngô. Phân tích hiệu quả mô hình trồng ngô trên ruộng lúa cho thấy chi phí đầu tư của nông hộ là 24.390.000 đồng/ha, lợi nhuận thu được từ mô hình là 20.020.000 đồng/ha, tỷ suất lợi nhuận của mô hình đạt 0,82. KẾT LUẬN Tác giả chân thành gửi lời cảm ơn đến Ban Chủ nhiệm Dự án SD=HS, hộ gia đình ông Nguyễn Thanh Liêm ở ấp Trường Long Tây, xã Trường Long A, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, cán bộ xã trên địa bàn nghiên cứu và các em sinh viên ngành Kỹ thuật Nông nghiệp - Trường Đại học Cần Thơ đã tạo điều kiện và hỗ trợ cho nghiên cứu này được thực hiện. 50
  12. Hội nghị Khoa học An toàn dinh dưỡng và An ninh lương thực lần 2 năm 2018 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011). Qui chuẩn kỹ thuật Quốc gia về khảo nghiệm giá trị canh tác và sử dụng của giống ngô. Thông tư số 67/2011/TT-BNNPTNT, ngày 17 tháng 10 năm 2011. [2] Dương Thị Loan, Trần Thị Thanh Hà, Vũ Thị Bích Hạnh và Vũ Văn Liết (2014). Đánh giá khả năng chịu hạn của các dòng tự phối và tổ hợp lai ngô nếp. Tạp chí Khoa học và Phát triển. Số 08/12/2014: 1202-1212. [3] Dương Thị Loan, Vũ Thị Bích Hạnh, Nguyễn Văn Hà, Trần Thị Thanh Hà, Hoàng Thị Thùy và Vũ Văn Liết (2016). Ảnh hưởng của các mức đạm bón và mật độ trồng đến một số chỉ tiêu sinh lý, năng suất của giống ngô nếp lai HUA518. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Tập 14, số 6: 833-842. [4] Kwanchai A. Gomez and Arturo A. Gomez (1984). Statistical Proceddures for Agricultural Research (2 nd Edition). Publication: John Wiley & Sons. Canada. 680 pages. [5] Lê Quý Kha (2001). Ảnh hưởng của thiếu nước và đạm và giai đoạn trước trỗ đến các yếu tố cầu thành năng suất và năng suất của ngô nhiệt đới. Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển nông thôn. Số 4/2001: 221-222. [6] Long Thúy Vân (2015). Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ và phân bón đến sinh trưởng, phát triển giống ngô VS36 tại tỉnh Lai Châu. Luận văn Thạc sĩ Khoa học Cây trồng. Trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên. [7] Ngô Hữu Tình (1995). Nghiên cứu xây dựng qui trình trồng ngô trên đất ruộng một vụ ở các tỉnh miền núi Đông Bắc. NXB Nông nghiệp Hà Nội. Hà Nội. [8] Nguyễn Văn Đức, Lê Đức Thuận, Châu Võ Trung Thông (2017). Nghiên cứu xác định giống ngô nếp lai và mật độ gieo trồng thích hợp tại tỉnh Phú Yên. Tạp chí Khoa học & Công nghệ Nông nghiệp. Tập 1 (1)-2017: 55-65. [9] Trần Đức Thiện (2014). Ảnh hưởng của lượng phân đạm dạng viên nén đến sinh trưởng, phát triển và năng suất giống ngô C919 tại huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Tạp chí Khoa học và Phát triển. Số 04/12/2014: 495-501. [10] Tổng cục thống kê (2017). Niên giám thống kê tỉnh Hậu Giang năm 2016. Nhà xuất bản Thống kê. 51
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1