intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của Proteaza và Amilaza trong khẩu phần có mức protein khác nhau đến sinh trưởng của lợn con giai đoạn sau cai sữa

Chia sẻ: Hoang Son | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

65
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thí nghiệm được thực hiện trên lợn lai 4 máu ngoại, giai đoạn sau cai sữa (từ 21 đến 56 ngày tuổi), gồm có 4 lô : Đối chứng (ĐC), thí nghiệm I, II, III (TN I, TN II, TN III), lợn của lô ĐC được ăn khẩu phần (KP) có tỷ lệ protein thô là 20 %, không bổ sung enzym, còn KP của lô TN I, TN II, TN III có tỷ lệ protein thô tương ứng là 20 %, 19 % và 18 % có bổ sung enzym proteaza và amilaza.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của Proteaza và Amilaza trong khẩu phần có mức protein khác nhau đến sinh trưởng của lợn con giai đoạn sau cai sữa

Cù Thị Thúy Nga và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 99(11): 177 - 182<br /> <br /> ẢNH HƯỞNG CỦA PROTEAZA VÀ AMILAZA TRONG KHẨU PHẦN<br /> CÓ MỨC PROTEIN KHÁC NHAU ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA LỢN CON<br /> GIAI ĐOẠN SAU CAI SỮA<br /> Cù Thị Thúy Nga*, Trần Văn Phùng, Trần Tố<br /> Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Thí nghiệm được thực hiện trên lợn lai 4 máu ngoại, giai đoạn sau cai sữa (từ 21 đến 56 ngày tuổi),<br /> gồm có 4 lô : Đối chứng (ĐC), thí nghiệm I, II, III (TN I, TN II, TN III), lợn của lô ĐC được ăn<br /> khẩu phần (KP) có tỷ lệ protein thô là 20 %, không bổ sung enzym, còn KP của lô TN I, TN II, TN<br /> III có tỷ lệ protein thô tương ứng là 20 %, 19 % và 18 % có bổ sung enzym proteaza và amilaza.<br /> Khối lượng lợn trung bình (kg/con) của 4 lô ở 56 ngày tuổi tương ứng là : 18,95 (ĐC); 19,67 (TN<br /> I); 19,28 (TN II) và 18,79 kg/con (TN III). Tiêu tốn thức ăn (TĂ) cho một kg tăng khối lượng (kg)<br /> của các lô như sau :1,45 (ĐC); 1,37 (TN I); 1,42 (TN II) và 1,47(TN III). Chi phí TĂ/1 kg tăng<br /> khối lượng với quy ước lô ĐC là 100 % thì các lô TN I, TN II, TN III tương ứng là : 97,34 % ;<br /> 101,62 % và 106,45 %. Bổ sung proteaza và amilaza vào khẩu phần ăn của lợn con sau cai sữa đã<br /> có tác dụng tốt như thúc đẩy sinh trưởng, giảm tiêu tốn thức ăn và chi phí thức ăn cho một kg tăng<br /> khối lượng.<br /> Từ khóa: Mức protein, amilase, proteaza, enzym, lợn con.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ*<br /> Việc nghiên cứu tạo ra những chế phẩm sinh<br /> học để bổ sung vào khẩu phần thức ăn cho<br /> lợn nhằm kích thích sinh trưởng, tăng cường<br /> sức đề kháng đồng thời tạo ra được những sản<br /> phẩm thịt lợn chất lượng cao thu hút sự quan<br /> tâm của nhiều nhà khoa học. Trong đó, công<br /> nghệ sản xuất enzym từ vi sinh vật đang có<br /> vai trò đặc biệt quan trọng. Các enzym thức<br /> ăn đang được nghiên cứu và ứng dụng vào<br /> sản xuất chăn nuôi nhằm tăng quá trình tiêu<br /> hoá, giảm chi phí thức ăn và tăng khối lượng<br /> vật nuôi, đồng thời còn cải tạo một số chỉ tiêu<br /> sinh lý của cơ thể vật nuôi, tạo sự cân bằng<br /> sinh học hệ vi sinh vật ruột (Fuller, 1989).<br /> Sinh trưởng của lợn con phụ thuộc rất nhiều<br /> vào các chất dinh dưỡng của thức ăn. Tuy<br /> nhiên, khi cai sữa, do thay đổi thức ăn lợn con<br /> thường bị rối loạn tiêu hoá (khả năng tiêu hóa<br /> chưa đáp ứng do nồng độ và hoạt tính các<br /> enzym nội sinh thấp), làm giảm khả năng tiêu<br /> thụ thức ăn, giảm tốc độ sinh trưởng và hiệu<br /> quả sử dụng thức ăn, tăng tỷ lệ chết của lợn<br /> con (Cromwell, 2002; Kiarie và cs, 2007). Vì<br /> vậy, việc bổ sung enzym tiêu hóa vào khẩu<br /> phần thức ăn cho lợn con là cần thiết, góp<br /> phần cung cấp thêm enzym, làm tăng hiệu<br /> quả quá trình tiêu hóa. Ngoài ra, các khẩu<br /> *<br /> <br /> Tel: 0915 213709, Email: ngalinhtn@gmail.com<br /> <br /> phần thức ăn cho lợn con thường có tỷ lệ<br /> protein cao nhằm đáp ứng đủ nhu cầu về axit<br /> amin cho cơ thể, khi đó rất dễ dẫn đến những<br /> bất cập như lợn con dễ bị tiêu chảy, tăng ô<br /> nhiễm môi trường do lượng nitơ dư thừa…<br /> Thí nghiệm này nhằm đánh giá hiệu quả việc<br /> bổ sung proteaza, amilaza vào thức ăn có mức<br /> protein khác nhau đến sinh trưởng của lợn<br /> con giai đoạn sau cai sữa.<br /> NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> Thí nghiệm tiến hành theo phương pháp phân<br /> lô so sánh, đảm bảo đồng đều về giống, tính<br /> biệt, khối lượng và điều kiện chăm sóc,<br /> nuôi dưỡng.<br /> Lợn thí nghiệm là lợn lai thương phẩm<br /> (♂PiDu x ♀ LY). Số lượng lợn một lần thí<br /> nghiệm là 40 con, được chia thành 4 lô mỗi lô<br /> 10 con, nhắc lại thí nghiệm ba lần. Lợn của lô<br /> Đối chứng (ĐC) được ăn khẩu phần (KP) có<br /> tỷ lệ protein thô là 20 %, không bổ sung<br /> enzym, lợn của các lô thí nghiệm I (TN I), thí<br /> nghiệm II (TN II), thí nghiệm III (TN III)<br /> được cho ăn khẩu phần có tỷ lệ protein tương<br /> ứng là 20 %, 19 % và 18 % có bổ sung enzym<br /> proteaza và amilaza vào thức ăn với mức<br /> 2000 UI và 56 UI/kg TĂ.<br /> Nguyên liệu thức ăn trước khi đưa vào thí<br /> nghiệm được phân tích các thành phần dinh<br /> dưỡng như: protein, lipit, axit amin, chất xơ,<br /> 177<br /> <br /> Cù Thị Thúy Nga và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> khoáng… tại Viện khoa học sự sống - trường<br /> Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Các công<br /> thức thức ăn hỗn hợp được xây dựng dựa trên<br /> phần mềm OPTIMIX - Viện nghiên cứu sinh<br /> học và thuốc thú y - Cộng hoà Séc.<br /> Thức ăn được trộn bằng tay, theo phương<br /> pháp "vết dầu loang", đảm bảo trộn thật đều.<br /> Khối lượng thức ăn một lần trộn đảm bảo đủ<br /> cho ăn 5 - 7 ngày. Sau khi trộn xong thức ăn<br /> được bảo quản trong điều kiện tốt nhất để<br /> tránh ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh đến<br /> chất lượng thức ăn.<br /> Lợn được nuôi theo chế độ ăn tự do trong<br /> máng ăn tự động. Theo dõi các chỉ tiêu về<br /> sinh trưởng của lợn và lượng thức ăn tiêu thụ.<br /> Số liệu thu được được xử lý theo phương<br /> pháp thống kê sinh vật học, trên phần mềm<br /> Statgraph version 4.0 của Cục thống kê USA<br /> và Microsoft Excell.<br /> KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm<br /> Kết quả theo dõi về sinh trưởng tích luỹ của<br /> lợn thí nghiệm được trình bày ở bảng 1.<br /> Kết quả thí nghiệm cho thấy, ở các giai đoạn<br /> theo dõi, lợn con được nuôi bằng khẩu phần<br /> có bổ sung enzym sinh trưởng nhanh hơn khi<br /> nuôi bằng khẩu phần không bổ sung enzym.<br /> So sánh giữa lô ĐC và lô TN I (Cùng mức<br /> 20% protein), khối lượng lợn con lúc 56 ngày<br /> tuổi đạt 18,95 và 19,67 kg/con. Sự chênh lệch<br /> giữa lô TN1 và lô ĐC là 3,80%.<br /> Đối với các khẩu phần có mức protein khác<br /> nhau có bổ sung enzym, sinh trưởng tích luỹ<br /> của lợn con có chiều hướng giảm khi giảm<br /> mức protein thô trong khẩu phần. Khối lượng<br /> <br /> 99(11): 177 - 182<br /> <br /> lợn con khi kết thúc thí nghiệm (56 ngày tuổi)<br /> của lô TN I; II và III đạt 19,67; 19,28 và<br /> 18,79 kg/con, tương ứng theo thứ tự các lô.<br /> Sự chênh lệch giữa lô TN I và lô TN II là<br /> 1,98%; với lô TN III là 4,47%.<br /> Khi so sánh khẩu phần có mức protein 19%<br /> (TN II) và 18% (TN III) kết hợp bổ sung<br /> enzym với khẩu phần mức protein 20% không<br /> bổ sung enzym (Lô ĐC), chúng ta thấy khối<br /> lượng của lợn con lúc 56 ngày tuổi của lô TN<br /> II cao hơn lô ĐC 1,74% (19,28 kg/con so với<br /> 18,95 kg/con); của lô TN III thấp hơn 0,84%<br /> (18,79 so với 18,95 kg/con). Tuy nhiên sự sai<br /> khác về khối lượng giữa các lô không có ý<br /> nghĩa thống kê (P>0,05).<br /> Kết quả xác định mối tương quan giữa khối<br /> lượng lợn con lúc 56 ngày tuổi và mức<br /> protein trong thức ăn ăn vào được diễn tả qua<br /> phương trình:<br /> y = 18,5862+0,0215x ; R2 = 0,095<br /> Ở đây: y là khối lượng lợn con thí nghiệm lúc<br /> 56 ngày tuổi(%); x là mức protein trong thức<br /> ăn (%)<br /> Qua phương trình biểu diễn mối tương quan<br /> giữa khối lượng lợn con lúc 56 ngày tuổi và<br /> mức độ protein có bổ sung men tiêu hoá,<br /> chúng ta thấy tương quan giữa hai đại lượng<br /> là tương quan dương, nên khi giảm mức độ<br /> protein và bổ sung thêm men tiêu hoá cũng đã<br /> làm thay đổi khối lượng lợn con lúc 56 ngày<br /> tuổi. Tuy nhiên, do hệ số tương quan rất thấp<br /> (R2 = 0,095) cho nên khi giảm tỷ lệ protein<br /> của khẩu phần và bổ sung thêm men tiêu hoá<br /> proteaza và amilaza trong khẩu phần thì sinh<br /> trưởng tích luỹ khác nhau không có ý nghĩa.<br /> <br /> Bảng 1. Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm (kg/con)<br /> Diễn giải<br /> <br /> Lô ĐC<br /> <br /> Lô TN I<br /> <br /> Lô TN II<br /> <br /> Lô TN III<br /> <br /> Bắt đầu TN<br /> 7,33a ± 0,28<br /> 7,35a ± 0,26<br /> 7,35a ± 0,24<br /> 7,33a ± 0,26<br /> (21 ngày)<br /> KL 28 ngày tuổi<br /> 8,37 ± 0,32<br /> 8,54 ± 0,34<br /> 8,49 ± 0,30<br /> 8,40 ± 0,34<br /> KL 35 ngày tuổi<br /> 9,80 ± 0,40<br /> 10,10 ±0,48<br /> 9,91 ± 0,39<br /> 9,71 ± 0,43<br /> KL 42 ngày tuổi<br /> 11,70 ± 0,52<br /> 12,19 ± 0,49<br /> 11,91 ± 0,49<br /> 11,78 ± 0,56<br /> KL 49 ngày tuổi<br /> 14,38 ± 0,65<br /> 14,95 ± 0,67<br /> 14,63 ± 0,60<br /> 14,23 ± 0,72<br /> KL 56 ngày tuổi<br /> 18,95a ± 0,78<br /> 19,67a ± 0,81<br /> 19,28a ± 0,86<br /> 18,79a ± 0,85<br /> So với lô ĐC (%)<br /> 100<br /> 103,80<br /> 101,74<br /> 99,16<br /> So với lô TN1 (%)<br /> 100<br /> 98,02<br /> 95,53<br /> a,b,c<br /> Trên hàng ngang, các số mang các chữ cái giống nhau thì khác nhau không có ý nghĩa thống kê ở mức<br /> P > 0,05.<br /> <br /> 178<br /> <br /> Cù Thị Thúy Nga và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, việc bổ<br /> sung enzym có tác động tốt đến quá trình tiêu<br /> hóa thức ăn của lợn con, lợn con sinh trưởng<br /> nhanh hơn, điều này được thể hiện ngay cả<br /> với những khẩu phần giảm và không giảm mức<br /> protein. Một số tác giả nghiên cứu về vấn đề<br /> này cũng cho kết quả tương tự (Đỗ Văn Quang<br /> và cs. 2004; Nguyễn Thị Tiết và cs., 2002; Hồ<br /> Trung Thông và cs., 2008).<br /> Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm<br /> Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm<br /> được trình bày qua bảng 2.<br /> Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh trưởng<br /> tuyệt đối bình quân (g/con/ngày) của cả đợt<br /> thí nghiệm của lợn con lô TN I cao hơn lô ĐC<br /> 6,02 % (352,0 gam so với 332,0 gam). Khi<br /> giảm mức protein xuống 19% (TN II), sinh<br /> trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm vẫn cao<br /> hơn lô đối chứng 2,67% (340,86 so với<br /> 332,0); Tuy nhiên, khi tiếp tục giảm xuống<br /> 18%, sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm<br /> lại thấp hơn 1,33%. Điều này một lần nữa<br /> khẳng định ảnh hưởng của enzym proteaza và<br /> amylaza đến tiêu hóa thức ăn của lợn con thí<br /> nghiệm; đồng thời cho thấy có thể sử dụng<br /> enzyme tiêu hoá trong khẩu phần giảm<br /> protein để nâng cao khả năng sinh trưởng của<br /> lợn. Kết quả này của chúng tôi cũng phù hợp<br /> <br /> 99(11): 177 - 182<br /> <br /> với kết quả của Hồ Trung Thông và cs<br /> (2008).<br /> Tình hình mắc bệnh tiêu chảy của lợn con<br /> thí nghiệm<br /> Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi bổ sung<br /> thêm enzym tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn<br /> con có sự khác biệt. Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy<br /> của lợn con lô ĐC (không sử dụng enzym) là<br /> 30%, cao hơn so với lô TN I (cùng mức<br /> protein nhưng được bổ sung thêm enzym<br /> proteazavà amilaza) chỉ có 23,33%. Đối với<br /> những khẩu phần giảm mức protein thô và<br /> được bổ sung thêm enzym tiêu hoá tỷ lệ lợn<br /> con mắc bệnh tiêu chảy giảm rõ rệt (Bình<br /> quân cả giai đoạn là 23,33; 12,0 và 10,0%<br /> tương ứng với lô TN I, TN II và lô TN III).<br /> Nếu xét theo ngày tuổi của lợn con, tỷ lệ mắc<br /> bệnh tiêu chảy có diễn biến giảm dần theo sự<br /> tăng lên của tuổi. Ở những tuần đầu sau cai<br /> sữa, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở tất cả các lô, ở<br /> những tuần tiếp theo đặc biệt giai đoạn 43-56<br /> ngày tuổi, tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy giảm<br /> mạnh. Thậm chí ở những lô giảm mức protein<br /> trong thức ăn, có bổ sung enzym lợn không bị<br /> tiêu chảy. Phần lớn lợn con bị tiêu chảy ở<br /> mức độ nhẹ, phân nhão, không thành khuôn.<br /> Sau khi sử dụng thuốc điều trị lợn khỏi trong<br /> thời gian ngắn.<br /> <br /> Bảng 2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm (g/con/ngày)<br /> Giai đoạn tuổi<br /> 21-28 ngày<br /> 29-35 ngày<br /> 36-42 ngày<br /> 43-49 ngày<br /> 50-56 ngày<br /> Bình quân cả giai đoạn<br /> So với lô ĐC (%)<br /> So với lô TN1 (%)<br /> <br /> Lô ĐC<br /> 148,57<br /> 204,29<br /> 271,43<br /> 382,86<br /> 652,86<br /> 332,00<br /> 100<br /> <br /> Lô TN I<br /> 170,00<br /> 222,86<br /> 298,57<br /> 394,29<br /> 674,29<br /> 352,00<br /> 106,02<br /> 100<br /> <br /> Lô TN II<br /> 162,86<br /> 202,86<br /> 285,71<br /> 388,57<br /> 664,29<br /> 340,86<br /> 102,67<br /> 96,84<br /> <br /> Lô TN III<br /> 152,86<br /> 187,14<br /> 295,71<br /> 350,00<br /> 651,43<br /> 327,57<br /> 98,67<br /> 93,06<br /> <br /> Bảng 3. Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn con trong quá trình thí nghiệm (%)<br /> Giai đoạn tuổi<br /> 21-28 ngày<br /> 29-35 ngày<br /> 36-42 ngày<br /> 43-49 ngày<br /> 50-56 ngày<br /> Bình quân cả giai đoạn<br /> <br /> Lô ĐC<br /> 26,67<br /> 36,66<br /> 30,0<br /> 30,0<br /> 26,67<br /> 30,0<br /> <br /> Lô TN I<br /> 20,0<br /> 30,0<br /> 36,67<br /> 20,0<br /> 10,0<br /> 23,33<br /> <br /> Lô TN II<br /> 10,0<br /> 30,0<br /> 20,0<br /> 0,0<br /> 0,0<br /> 12,0<br /> <br /> Lô TN III<br /> 10,0<br /> 20,0<br /> 10,0<br /> 10,0<br /> 0,0<br /> 10,0<br /> <br /> 179<br /> <br /> Cù Thị Thúy Nga và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 99(11): 177 - 182<br /> <br /> Các nghiên cứu về vấn đề này chưa được công bố nhiều, tuy nhiên vấn đề hạn chế tiêu chảy của<br /> lợn con giai đoạn sau cai sữa đã được nhiều tác giả đề cập đến dưới một khía cạnh khác. Trần<br /> Quốc Việt và cs. (2007) đã nghiên cứu sử dụng các chế phẩm probiotic vào thức ăn cho lợn con<br /> giai đoạn sau cai sữa. Kết quả nghiên cứu của các tác giả này cho thấy lợn con khi được sử dụng<br /> probiotic và kháng sinh có tỷ lệ tiêu chảy thấp với sự sai khác có ý nghĩa thống kê ở mức P0,05).<br /> Tiêu tốn và chi phí thức ăn/kg tăng khối<br /> lượng của lợn con có chiều hướng tăng lên<br /> khi giảm mức protein của khẩu phần có sử<br /> dụng enzyme (1,37; 1,42 và 1,47 kg, tương<br /> ứng lô TN I, TN II và TN III), tuy nhiên nếu<br /> so với khẩu phần có mức protein cao nhưng<br /> không sử dụng enzym thì vẫn tương đương<br /> (1,42 và 1,47 so với 1,45 kg TA tương ứng lô<br /> TN II, TN III và lô ĐC).<br /> Sử dụng enzym tiêu hoá proteaza và amylaza<br /> trong thức ăn của lợn con giai đoạn sau cai<br /> sữa, đặc biệt đối với thức ăn có mức protein<br /> 19 và 18% được cân đối các axit amin sẽ góp<br /> phần đảm bảo sinh trưởng của lợn con từ đó<br /> tiết kiệm thức ăn đạm và giảm thiểu ô nhiễm<br /> môi trường.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> [1]. Nguyễn Nghi, Lê Thanh Hải và Bùi Ngọc<br /> Thảo (1995), “Báo cáo khoa học: Nghiên cứu ảnh<br /> hưởng của protein khẩu phần và phương thức cho<br /> ăn đến năng suất và chất lượng thịt xẻ của heo<br /> <br /> 99(11): 177 - 182<br /> <br /> thịt”, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm.<br /> Viện Khoa học Nông Nghiệp miền Nam.<br /> [2]. Đỗ Văn Quang, Nguyễn Văn Hùng (2004),<br /> “Nghiên cứu cân bằng dinh dưỡng, áp dụng men<br /> sinh học và hỗn hợp axit hữu cơ nhằm tăng hiệu<br /> quả sử dụng thức ăn, giảm chât thải ra môi trường<br /> trong chăn nuôi lợn”, Tạp chí khoa học công nghệ<br /> nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi<br /> mới tháng 8/2004.<br /> [3]. Hồ Trung Thông, Đặng Văn Hồng (2008),<br /> “Ảnh hưởng của việc bổ sung chế phẩm enzyme<br /> chứa protease, amylease và phytase vào khẩu phần<br /> đến tỉ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng của lợn<br /> F1(Landrace x Yorkshire)”, Tạp chí khoa học<br /> công nghệ và phát triển nông thôn- số 3- tháng<br /> 3/2008, trang 36-40<br /> [4]. Nguyễn Thị Tiết, Ngô Kế Sương (2002), “So<br /> sánh khả năng tiêu hóa của chế phẩm enzym<br /> pancreatin (PCC) với chế phẩm enzym DPS trên<br /> lợn thịt”, Tạp chí khoa học kỹ thuật chăn nuôi số<br /> 3/2002, trang 7-9.<br /> [5]. Trần Quốc Việt, Bùi Thị Thu Huyền, Nịnh<br /> Thị Len, Nguyễn Thị Nhung, Lê Văn Huyên, Đào<br /> Đức Kiên (2007), “Ảnh hưởng của việc bổ sung<br /> probiotic vào khẩu phần đến khả năng tiêu hoá<br /> thức ăn, tốc độ sinh trưởng, hiệu quả sử dụng thức<br /> ăn và tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn con và lợn<br /> thịt ”, Báo cáo khoa học năm 2006, phần thức ăn<br /> dinh dưỡng, viện chăn nuôi.<br /> [6]. Cromwell, G. L. 2002,Why and how<br /> antibiotics are used in swine production Anim,<br /> Biotechnol, 13. 7 – 27.<br /> [7]. Fuller, R. 1989, Probiotics in man and<br /> animals, J. Appl. Bacteriol, 66. 131 – 139.<br /> [8]. Kiarie, E., C. M. Nyachoti, B. A. Slominski,<br /> and G. Blank, 2007, Growth performance,<br /> intestinal microbial populations and serum<br /> cholesterol of digestibility in early-weaned pigs<br /> fed diets containingflaxseed and carbonhydrase<br /> enzyme J. Anim. Sci. 2007. 85: 2982 – 2993.<br /> [9]. Van de Ligt C. P. A. , Lindemann M. D. , and<br /> Cromwell G. L. (2002). Assessment of chromium<br /> tripicolinate supplementation and dietary protein<br /> level on growth, carcass, and blood criteria in<br /> growing pigs. J. Anim. Sci. 2002. 80:2412–2419.<br /> <br /> 181<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2