intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Áp dụng biện pháp xử lý hành chính “đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”

Chia sẻ: Ngũ Nguyệt Thiên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

32
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nêu lên việc đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy đang trở thành một trong những mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của nước ta. Vì vậy, để xử lý triệt để tình hình tội phạm ma túy không chỉ xử lý về mặt hình sự đối với tội phạm ma túy mà còn xử lý về mặt hành chính đối với cá nhân người sử dụng ma túy để có sự răn đe, giáo dục cũng như có phương hướng, biện pháp nhằm đẩy lùi, ngăn chặn tình trạng nêu trên. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Áp dụng biện pháp xử lý hành chính “đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”

  1. ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH “ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC” Nguyễn Trần Tiến Hồng Phú Khoa Luật, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh GVHD: ThS. Nguyễn Chí Thắng TÓM TẮT Việc đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy đang trở thành một trong những mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của nước ta. Vì vậy, để xử lý triệt để tình hình tội phạm ma túy không chỉ xử lý về mặt hình sự đối với tội phạm ma túy mà còn xử lý về mặt hành chính đối với cá nhân người sử dụng ma túy để có sự răn đe, giáo dục cũng như có phương hướng, biện pháp nhằm đẩy lùi, ngăn chặn tình trạng nêu trên. Luật xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) năm 2012 và các văn bản hướng dẫn quy định về các biện pháp xử lý hành chính có sự thay đổi rất lớn về các quy định áp dụng biện pháp xứ lý hành chính mà đặc biệt là đối với những người sử dụng ma túy. Biện pháp xử lý vi phạm hành chính (XLHC) ‚Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc‛ áp dụng đối với người nghiện ma túy để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc đã đáp ứng được một phần rất lớn vào việc giải quyết tệ nạn ma túy của xã hội, vào công cuộc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Từ khóa: Luật xử lý vi phạm hành chính, xử lý hành chính, Tòa án Nhân dân. 1 KHÁI NIỆM BIỆN PHÁP “ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC” 1.1 Khái niệm Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là cách thức mà cơ quan có thẩm quyền áp dụng trực tiếp lên người bị nghiện ma túy bằng biện pháp cưỡng chế nhằm mục đích đảm bảo trật tự xã hội trong thời hạn pháp luật cho phép. Ngoài ra, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp XLHC được quy định tại Luật XLVPHC năm 2012. Đây là biện pháp do Tòa án Nhân dân (TAND) cấp huyện xem xét, quyết định áp dụng đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định nhằm mục đích cách ly người nghiện ma túy khỏi cộng đồng, buộc họ chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề tại cơ sở cai nghiện bắt buộc. 1.2 Đặc điểm Từ khái niệm trên biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có những đặc điểm như sau: Một là, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là cơ quan có thẩm quyền thi hành bằng biện pháp cưỡng chế hành chính nhà nước. Nó có tính pháp lý, bởi vì biện pháp này được quy định cụ 1655
  2. thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Luật, Nghị định của Chính phủ,… Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng theo quy định của pháp luật. Hai là, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý chỉ áp dụng đối với công dân Việt Nam, được xác định là bị nghiện và có những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Đối với trường hợp người nước ngoài có hành vi nghiện ma túy mà bị cơ quan chức năng phát hiện tại lãnh thổ Việt Nam thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ba là, việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được áp dụng theo những trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định và đối tượng bị áp dụng phải chịu sự quản lý và hạn chế một số quyền tự do cá nhân nhất định; với nội dung là hạn chế một số quyền tự do của con người khi áp dụng các biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tương đối chặt chẽ [1]. 2 ĐỐI TƯỢNG BỊ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP “ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC” Theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định: ‚Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định‛. Tại Nghị định 221/2013/NĐ – CP Quy đinh chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ, thì đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc hai trường hợp: ‚Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà còn nghiện‛; ‚Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy nhưng không có nơi cư trú ổn định.‛ Tại Nghị định số 136/2016/NĐ - CP ngày 09 tháng 09 năm 2016 của Chính phủ, sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 221/2013/NĐ-CP cũng quy định đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cụ thể, rõ ràng, dễ áp dụng như: Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định, trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện; Người nghiện ma túy từ dủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định, bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy; Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn định. 1656
  3. 3 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC 3.1 Thẩm quyền xem xét áp dụng biện pháp Chủ thể có thẩm quyền liên quan đến xác định tình trạng nghiện ma túy: Theo Khoản 3 Điều 1 Nghị định 136/2016/NĐ-CP quy định: Người có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện ma túy là bác sĩ, y sĩ, được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ tập huấn về chuẩn đoán điều trị cắt cơn nghiện ma túy do cơ quan, tổ chức được Bộ Y tế giao tổ chức tập huấn và cấp chứng chỉ, đang làm việc tại; Các cơ sở y tế quân y, y tế quân dân y; các cơ sở khám chữa bệnh, chữa bệnh của ngành công an; phòng y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc; phòng y tế của các cơ sở có chức năng tiếp nhận, quản lý người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định. Ngoài ra người có thẩm quyền xác định người nghiện ma túy phải chịu trách nhiệm về việc xác định của mình trước pháp luật. (Điều 10 NĐ số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013) Chủ thể có thẩm quyền xem xét, điều tra, và lập hồ sơ đưa đi cai nghiện bắt buộc Theo Điều 8 NĐ số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 thì trong quá trình điều tra, thụ lý các vụ vi phạm pháp luật, cơ quan công an cấp huyện hoặc cơ quan cấp tỉnh phát hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép hoặc dấu hiệu nghiện ma túy của người vi phạm thì tiến hành lập biên bản, xác minh, thu nhập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với người đó. Chủ thể có thẩm quyền trong việc quyết định đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Theo quy định của pháp luật được quy định tại Điều 12, Điều 13 NĐ số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013, quyền đề nghị áp dụng đưa đi cai nghiện bắt buộc thuộc về Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cùng cấp. Chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Căn cứ theo Pháp lệnh số 09/0214/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 ‚Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân‛ tại Điều 3 có quy định về ‚Thẩm quyền xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính‛ thì: Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính là TAND cấp huyện nơi cơ quan đề nghị có trụ sở. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xem xét lại quyết định của TAND cấp huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị. 3.2 Nguyên tắc xem xét, quy định áp dụng biện pháp Việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC phải bảo đảm các quy định tại Khoản 2 Điều 3 và Khoản 2 Điều 5 của Luật XLVPHC 2012; 1657
  4. Một là, chỉ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với đối tượng quy định tại Điều 96 của Luật XLVPHC 2012. Hai là, việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, đảm bảo công bằng, đúng quy định của pháp luật. Ba là, việc quyết định thời hạn đưa vào cơ sơ cai nghiện bắt buộc phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả, nhân thân của người nghiện, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng. Bốn là, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm chứng minh người vi phạm hành chính là người nghiện ma túy và thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện băt buộc. Cá nhân người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh không vi phạm hành chính, không nghiện ma túy hoặc không thuộc diện bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 3.2 Thời hiệu áp dụng biện pháp Thời hiệu trong việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là ba tháng (03). Đây là khoảng thời gian kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép lần cuối bị phát hiện và lập biên bản (đươc quy định tại Khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC 2012). 3.3 Quy trình áp dụng Quy trình áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở bắt buộc được quy định tại Chương 2 và Chương 3 Nghị định 221/2013/NĐ-CP. Theo đó, quy trình này trải qua 3 giai đoạn. Giai đoạn 1: Khi xác định được đối tượng bị nghiện, cơ quan công an tiến hành lập biên bản, và xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đối với người bị nghiện. Giai đoạn 2: Sau khi quá trình xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ được hoàn tất, hồ sơ sẽ được gửi qua phòng Lao động - Thương binh và Xã hội (trong thời gian 7 ngày) sẽ trả lời bằng văn bản có hay không việc đề nghị xác định áp dụng biện pháp cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nếu đồng ý, văn bản sẽ gửi lên Tòa án cùng cấp. Giai đoạn 3: Tòa án sẽ kiểm tra lại tính xác thực của hồ sơ gửi qua và xem xét việc ban hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong hồ sơ gửi qua Tòa án gồm có những giấy tờ sau: Bản tóm tắt lý lịch; Phiếu trả lời kết quả của người có thẩm quyền quy định tại Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP về tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Biên bản về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Bản tường trình của người vi phạm hoặc của người đại diện hợp pháp của họ; Tài liệu chứng minh đã chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn bao gồm: Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy và Giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp 1658
  5. xã; Giấy xác nhận hết thời hạn cai nghiện ma túy tại gia đình hoặc cai nghiện ma túy tại cộng đồng của Chủ tịch Ủy ban nhân cấp xã hoặc tài liệu chứng minh bị đưa ra khỏi chương trình điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; Quyết định của Ủy ban Nhân dân cấp xã về việc giao cho gia đình quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian làm thủ tục đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Văn bản thông báo cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện của họ về việc lập hồ sơ của của cơ quan lập hồ sơ; Văn bản của Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện về kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ; Văn bản đề nghị xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Trường phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện. 4 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 4.1 Thực trạng Một là, việc cai nghiện cho người nghiện ma túy từ 12 đến 18 tuổi: Luật phòng chống ma túy năm 2000 quy định: ‚Người nghiện ma túy từ 12 đến dưới 18 tuổi được giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đã cai nghiện tại gia đình, cộng đồng mà vẫn còn nghiện thì được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và không coi là biện pháp xử lý hành chính‛. Tại Khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên và thẩm quyền quyết định là TAND cấp huyện. Do đó, có áp dụng biện pháp đưa người dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nữa hay không đến nay còn có ý kiến khác nhau giữa các cơ quan gây rất nhiều khó khăn. ‚Lê Văn D (16 tuổi) đăng ký hộ khẩu thường trú tại 234A Âu Cơ, Phường 10, Quận Tân Bình. Lê Văn D đã bị bắt 1 lần về hành vi xử dụng ma túy và được đưa về địa phương quản lý và cai nghiện. Sau đó, ngày 12/8/2019 Lê Văn D bị bắt lần 2 cũng về hành vi sử dụng ma túy. Ngày 01/10/2018 Tòa án quận Tân Bình mở phiên họp và ra quyết định đưa Lê Văn D vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do trước đó Lê Văn D đã sử dụng ma túy và vẫn tiếp tục tái diễn hành vi vi phạm mặc dù trước đó đã được đưa về địa phương quản lý. Ngay sau đó Viện kiểm sát đã đưa ra ý kiến cho rằng Lê Văn D chưa đủ 18 tuổi nên việc đưa D vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là không phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 mà chỉ có thể đưa Lê Văn D vào cơ sở cai nghiện tự nguyện.‛ Hai là, Về trình tự, thủ tục lập hồ sơ quản lý người nghiện hiện nay phải qua nhiều cơ quan như Công an xã (phường), Công an quận (huyện), Phòng Tư pháp, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, TAND cấp quận (huyện) nên mất rất nhiều thời gian. Nếu thực hiện theo đúng quy trình, thời gian đưa ra được quyết định đưa người đi cai nghiện nhanh nhất là 1 tháng. Trong thời gian chờ có quyết định, người nghiện có hộ khẩu thường trú tại địa phương sẽ được gửi về gia đình quản lý, những người không rõ nơi cư trú phải đưa đến các cơ sở xã hội quản lý. Tuy nhiên, tại quận Tân Bình chưa có nhà lưu giữ, không có cán bộ chuyên môn để xử lý cắt cơn nghiện nên việc quản lý, lưu giữ đối tượng phải đưa xuống cơ sở cai nghiện Nhị Xuân. Ngoài ra, tại điểm b khoản 1 Điều 103 Luật XLVPHC năm 2012 quy định hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện không có nơi cư trú ổn định ‚Tài liệu chứng minh người đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi nghiện ma túy‛. Quy định như vậy rất khó thực hiện và dễ bị Tòa án trả lại hồ sơ, vì đa phần người nghiện 1659
  6. trên địa bàn quận Tân Bình không có nơi cư trú ổn định, không bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Mặc dù, Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc không quy định nội dung này nhưng theo quy định Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, tại Khoản 1 Điều 8 quy định ‚Khi nhận được hồ sơ của cơ quan có thẩm quyền chuyển đến, Tòa án phải vào sổ giao nhận; trường hợp hồ sơ không đủ tài liệu theo quy định tại khoản 2 Điều 100, khoản 2 Điều 102 hoặc khoản 2 Điều 104 của Luật XLVPHC thì Tòa án trả lại hồ sơ và nêu rõ lý do‛. Đối với một số người nghiện ma túy không cư trú tại quận Tân Bình mà ở tỉnh khác tới, theo quy định của điểm b, khoản 1 Điều 103 Luật xử lý vi phạm hành chính thì Chủ tịch UBND phường phải xác minh, trường hợp xác định được nơi cư trú thì có trách nhiệm chuyển người đó kèm theo biên bản vi phạm về địa phương để xử lý. Việc pháp luật quy định như vậy là không thể thực hiện được, vì những đối tượng nghiện ở nhiều tỉnh rất xa, trong khi pháp luật chưa quy định việc chuyển giao người nghiện sẽ thực hiện như thế nào… Ba là, Về xác định đối tượng có nơi cư trú ổn định, thì Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định: Nơi cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm trú, nhưng phải là nơi người đó hiện đang thường xuyên sinh sống. Quy định này chưa chặt chẽ, dẫn đến các cơ quan áp dụng pháp luật hiểu và thực hiện không thống nhất: Có quan điểm cho rằng đối tượng không thường xuyên sinh sống ở phạm vi một xã, phường, thị trấn là không có nơi cư trú ổn định. Trong thực tế, các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn quận Tân Bình nhiều trường hợp không có nơi cư trú hoặc sinh sống ổn định mà các đối tượng này thường ở nơi khác đến tham gia các hoạt động mua bán, làm công nhân tại các công ty hoặc tham gia vào những nhóm sử dụng ma túy và thường xuyên thay đổi địa điểm sinh hoạt, hút chích ma túy. Việc xác minh nơi cư trú ổn định của những đối tượng nghiện ma túy tại địa bàn quận Tân Bình diễn ra chậm trễ, kết quả trả lời chung chung, một số trường hợp không trả lời kết quả xác minh, làm mất thời gian của cơ quan công an gửi hồ sơ đi xác minh dẫn đến khó khăn trong việc hoàn thiện hồ sơ xét đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. ‚Nguyễn Văn A (20 tuổi) đăng ký thường trú tại xã Hòa Long, huyện Xuân Mộc, tỉnh Bà Rịa  Vũng Tàu lên Phường 7, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh để làm công nhân và có đăng ký tạm trú ở nhiều nơi. Ngày 20/10/2019 Nguyễn Văn A bị bắt khi sử dụng ma túy tại sinh nhật một người bạn tại Phường 9, Quận Tân Bình. Khi bị bắt A khai có đăng ký tạm trú tại Phường 15, 2, 8, Quận Tân Bình và thường xuyên về nhà thăm gia đinh tại xã Hòa Long, huyện Xuân Mộc, tỉnh Bà Rịa  Vũng Tàu. Ngay sau đó Công an phường 9 đã xác minh tình trạng cư trú đối với kết quả xác minh Nguyễn Văn A không thường xuyên có mặt và sinh sống tại các địa chỉ trên‛. Thời gian để xác minh hết 30 ngày, như vậy có thể thấy quá trình xác minh cư trú này rất mất thời gian trong việc lập hồ sơ. 4.2 Một số kiến nghị Một là, Tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn, rút kinh nghiệm về nghiệp vụ và ban hành các văn bản hướng dẫn theo thẩm quyền để thống nhất triển khai áp dụng. Chỉ đạo thực hiện công tác 1660
  7. lập hồ sơ, hoàn chỉnh các thủ tục theo thẩm quyền, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật nói chung cũng như đối với tác hại của ma túy để chủ động phòng ngừa, hạn chế thấp nhất số người vi phạm pháp luật, số người nghiện mới phát sinh. Mặt khác, bố trí nguồn kinh phí phù hợp cho việc thực hiện nhiệm vụ đưa đối tượng đi cai nghiện tập trung, thực hiện công khai minh bạch, thuận tiện, dễ tiếp cận các dịch vụ điều trị cai nghiện ma túy. Các ban, ngành, đoàn thể ở cơ sở cũng cần tăng cường hơn nữa việc phối hợp cùng gia đình động viên, giúp đỡ, hỗ trợ tìm việc làm ổn định cho người sau cai nghiện để tránh tái nghiện, nâng cao chất lượng dịch vụ và có chính sách hỗ trợ để thu hút người nghiện vào cai nghiện tự nguyện, giảm số người bị Tòa án áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, giảm áp lực cho Tòa án nhân dân. Hai là, Quy trình, trình tự, thủ tục xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân bao gồm nhiều giai đoạn như lập hồ sơ đề nghị, kiểm tra và chuyển hồ sơ đề nghị đến Tòa án nhân dân và cuối cùng là việc Tòa án căn cứ vào hồ sơ đề nghị, xem xét, quyết định có áp dụng hay không áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Các giai đoạn này do nhiều cơ quan khác nhau tiến hành với nhiều các thủ tục, giấy tờ như xác định độ tuổi, số lần vi phạm, các biện pháp xử lý hành chính đã áp dụng trước đó, nơi cư trú, tình trạng nghiện của đối tượng vi phạm…những điều này đòi hỏi rất nhiều thời gian mới tiến hành được. Trong khi đó, một yêu cầu có tính nguyên tắc trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và hành vi vi phạm hành hính nói riêng đó là sự nhanh chóng, kịp thời. Do vậy, cần có những thay đổi nhằm rút ngắn thời gian của quá trình này, cần bỏ giai đoạn thẩm định hồ sơ đề nghị của Phòng tư pháp vì dù Phòng tư pháp có kiểm tra, thẩm định thì khi nhận hồ sơ đề nghị Tòa án cũng phải xem xét lại toàn bộ các quy trình trước đó trước khi xem xét áp dụng biện pháp xử lý hành chính, như vậy việc quy định giai đoạn kiểm tra hồ sơ của Phòng tư pháp là chồng chéo, kéo dài thời gian, việc bỏ giai đoạn này sẽ rút ngắn được rất nhiều thời gian cho quá trình xem xét, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân so với hiện nay.[2] Ba là, Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là khâu công tác mới nhưng rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ; đòi hỏi lãnh đạo, kiểm sát viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, nghiên cứu nắm chắc quy định của pháp luật, thực hiện tốt quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm đảm bảo quyết định áp dụng biện pháp hành chính của Tòa án có căn cứ, đúng pháp luật. Để thực hiện được những vấn đề nêu trên thì giữa Tòa án và Viện kiểm sát cùng cấp cũng phải tăng cường phối hợp tốt; Tòa án phải tạo điều kiện để Kiểm sát viên tiếp cận, nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên họp; Kiểm sát viên nghiên cứu, chuẩn bị ý kiến phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp hành chính… Bên cạnh đó, cũng cần sửa đổi hoàn thiện quy định trong Pháp lệnh 09 theo hướng: Quy định quyền kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (cấp tỉnh) khi xem xét lại các quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hoặc phát sinh tình tiết mới. Ngoài ra, cũng cần quy định trình tự, thủ tục để Tòa án cấp trên (cấp tỉnh) xem xét việc khiếu nại quá hạn của người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai 1661
  8. nghiện bắt buộc, vấn đề này cần phải được khắc phục nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. 5 KẾT LUẬN Áp dụng biện pháp XLHC ‚đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc‛ là một nhiêm vụ mới của Tòa án được quy định trong Luật XLVPHC năm 2012. Đây là kết quả của quá trình cải cách tư pháp, phù hợp với xu hướng hội nhập của nền tư pháp nước ta, phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo đó, việc quyết định các vấn đề liên quan đến các quyền cơ bản của con người phải do Tòa án thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định. Việc nghiên cứu đầy đủ, cụ thể lý luận về mặt bản chất, vai trò, ý nghĩa của biện pháp xử lý vi phạm hành chính ‚đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc‛ do Tòa án tiến hành sẽ giúp chúng ta có được sự nhận thức đúng đắn về quy định này. Đặc biệt, đối với những người làm công tác áp dụng pháp luật, việc nghiên cứu đầy đủ về lý luận của việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính ‚đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc‛ sẽ giúp áp dụng quy định này một cách chính xác trong thực tiễn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Cao Văn Cần, 2019, Áp dụng biện pháp xử lý hành chính của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Khoa học Xã hội. [2] PGS. TS Hà Hùng Cường, 2013, Luật Xử lý vi phạm hành chính - bước phát triển mới về cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta (Xem tại: https://nhandan.com.vn/thoi-su-phap-luat/luat-xu-ly-vi-pham-hanh-chinh-buoc-phat-trien- moi-ve-co-che-phap-ly-bao-dam-quyen-con-nguoi-quyen-cong-dan-o-nuoc-ta-180144/, truy cập ngày 24/3/2020) 1662
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2