ÁP DỤNG CÁC CHIẾN LƯỢC HỖ TRỢ<br />
<br />
BS NGUYỄN MINH TIẾN<br />
<br />
Tiến trình hỗ trợ bao gồm hai giai đoạn: (1) Giai đoạn thiết lập quan hệ hỗ trợ và (2) Giai đoạn áp dụng các<br />
chiến lược hỗ trợ. Trong khoảng thời gian chuyển tiếp giữa hai giai đoạn, nhà trị liệu và thân chủ sẽ xem xét các<br />
mục đích và mục tiêu của mối quan hệ hỗ trợ, sau đó cả hai sẽ tập trung vào các nhu cầu trị liệu có tính đặc hiệu<br />
để cuối cùng có thể đạt đến sự nhất trí với nhau về mục đích trị liệu. Thân chủ và nhà trị liệu cần phải định rõ<br />
vấn đề nào cần phải giải quyết và loại hình can thiệp hỗ trợ nào sẽ được áp dụng.<br />
<br />
Sau khi xác định rõ vấn đề là gì, nhà trị liệu có thể chọn lựa một chiến lược thích hợp hoặc phối hợp nhiều chiến<br />
lược khác nhau để áp dụng vào việc giải quyết vấn đề. Các tham số như thời gian trị liệu, thời lượng mỗi phiên trị<br />
liệu, thiết kế khuôn khổ trị liệu và bản chất của vấn đề hiện tại sẽ ảnh hưởng đến cách thức chuyển tiếp giữa hai<br />
giai đoạn lẫn các chiến lược được chọn để giải quyết vấn đề.<br />
<br />
CÁC CHIẾN LƯỢC HỖ TRỢ VÀ BA BÌNH DIỆN CHÍNH TRONG SỰ THỂ HIỆN CÁC VẤN ĐỀ<br />
<br />
Các chiến lược hỗ trợ có thể được phân loại tùy theo chúng nhắm giải quyết các vấn đề thuộc bình diện nào: cảm<br />
xúc (affective), nhận thức (cognitive) hoặc hành vi (behavioral domains). Trong thời gian gần đây (Bruce, 1984),<br />
đã có nhiều cố gắng phân loại các chiến lược và triết lý của nhiều học thuyết hỗ trợ khác nhau, để có thể hình<br />
thành nên một kiểu “phác đồ” có thể áp dụng được. Các cố gắng phân loại này phần lớn đều có tính chất “phi<br />
học thuyết” (atheoretical), nghĩa là không phải phụ thuộc vào một học thuyết duy nhất, mà có thể vận dụng<br />
nhiều loại chiến lược khác nhau tùy từng thân chủ và tùy theo vấn đề của thân chủ được thể hiện trên bình diện<br />
nào. Mục đích của những cố gắng này cũng là để nhằm lấp dần khoảng cách giữa ba yếu tố sau: (1) Hiệu năng<br />
của phương pháp trị liệu; (2) Nhu cầu ngắn hạn và dài hạn của thân chủ và (3) Nhu cầu và định hướng của nhà<br />
trị liệu.<br />
<br />
Các vấn đề về cảm xúc (affective problems) là những vấn đề liên quan đến lĩnh vực tình cảm, lĩnh vực tự nhận<br />
biết bản thân cũng như nhận biết những cảm xúc của người khác. Ví dụ: cảm thấy mình yếu kém, không hiệu<br />
quả, hoặc không thể nhận biết được cảm xúc của chính mình, không hiểu được cảm xúc của người khác… Đối với<br />
loại vấn đề này, những chiến lược theo kiểu “kinh nghiệm” (experiential strategies) tỏ ra có hiệu quả. Đây là<br />
những chiến lược tập trung can thiệp trên những tư duy hình ảnh, sự nhận biết bằng các giác quan, cùng những<br />
cách thức biểu lộ cảm xúc bằng lời và không lời.<br />
<br />
Các vấn đề thuộc bình diện nhận thức (cognitive problems) có liên quan đến quá trình suy nghĩ, ví dụ những vấn<br />
đề liên quan đến khả năng quyết định và giải quyết vấn đề. Những thân chủ thường hay có những quyết định sai<br />
lầm, lo sợ khi phải quyết định, hoặc những người từ chối nhận lãnh trách nhiệm về những việc làm của mình… là<br />
những người đang có vấn đề trên bình diện nhận thức. Sự hỗ trợ có hiệu quả nhất đối với những thân chủ này là<br />
các chiến lược có tính chất huấn luyện (didactic) hoặc có hướng dẫn (instructional). Các chiến lược này tập trung<br />
vào việc thực hiện từng bước quá trình trao đổi, chỉ dẫn bằng lời nói, hướng đến việc giúp thân chủ có thể quyết<br />
định, phân tích và giải quyết vấn đề.<br />
<br />
Các vấn đề trên bình diện hành vi (behavioral problems), ví dụ như làm thế nào để bỏ thuốc lá, thay đổi một thói<br />
quen, học cách trở nên quyết đoán hơn, hoặc thay đổi từ một hành vi có hại sang một hành vi có lợi… Các chiến<br />
lược can thiệp về hành vi bao gồm những hướng dẫn bằng lời và định hướng hành động (action-oriented) được<br />
bố trí thực hiện sao cho thân chủ có thể được kích thích thay đổi hành vi và nhận được những tưởng thưởng từ<br />
môi trường khi thực hiện những thay đổi này.<br />
<br />
Các vấn đề của thân chủ cũng có khi cùng xảy ra trên cả ba bình diện cảm xúc-nhận thức-hành vi, với sự thể<br />
hiện đa dạng nhiều loại triệu chứng: những trường hợp thuộc loại này có thể gặp như trầm cảm, rối loạn ăn<br />
uống, tính khí bốc đồng, hoặc những rối loạn hành vi có tính chuyên biệt. Các chiến lược hỗ trợ theo kiểu “nhận<br />
thức-hành vi” có thể hiệu quả, bao gồm những kỹ thuật “tái cấu trúc nhận thức” (cognitive restructuring), giúp<br />
thân chủ có khả năng nhận định, đánh giá về khả năng của bản thân, của người khác và đánh giá các sự kiện<br />
trong đời sống, huấn luyện những kỹ năng ứng phó và những hành vi mới.<br />
Các cách thức phân loại vấn đề và phân loại chiến lược hỗ trợ không luôn luôn tách bạch rõ ràng, mà chúng có<br />
thể xảy ra đồng thời hoặc chồng chéo với nhau. Bản chất vấn đề mà thân chủ đang gặp phải, bản chất của mối<br />
quan hệ hỗ trợ và kỹ năng thành thạo của nhà trị liệu, tất cả đều có ảnh hưởng trên sự lựa chọn các chiến lược<br />
hỗ trợ.<br />
<br />
Khi nói về chiến lược can thiệp trong bối cảnh mối quan hệ hỗ trợ, tức là chúng ta đang nói về những phương<br />
thức tổng quát được thực hiện nhằm đạt đến những mục đích chung và có tính dài hạn. Các chiến lược phản ánh<br />
các khái niệm và các giả thuyết của những lý thuyết chuyên biệt, trong khi những kỹ thuật là sự áp dụng cụ thể<br />
của các chiến lược. Một số chiến lược và kỹ thuật tương ứng có thể tác dụng tốt nhất khi được áp dụng đúng vào<br />
một loại tình huống cụ thể. Và mặc dù có những loại kỹ thuật có tính đặc thù riêng cho một loại chiến lược,<br />
nhưng cũng có nhiều kỹ thuật lại có thể được áp dụng trong nhiều chiến lược khác nhau.<br />
<br />
Có lúc những vấn đề của thân chủ xuất hiện rõ ràng ở trên một trong ba bình diện cảm xúc, nhạn thức hoặc<br />
hành vi, khi ấy sự áp dụng các chiến lược là khá rõ ràng. Ví dụ, nếu vấn đề thể hiện là tình trạng làm việc chậm<br />
chạp của một nhân viên – một vấn đề thuộc bình diện hành vi – thì khi đó, chiến lược được lựa chọn có thể là sự<br />
can thiệp trên hành vi và những kỹ thuật áp dụng sẽ là lập thỏa thuận cam kết, có thể cần đến hoặc không cần<br />
đến việc tái cấu trúc nhận thức. Tuy nhiên, trong thực tế, vấn đề được thể hiện (presenting problems) có khi lại<br />
do một vấn đề khác tiềm ẩn bên dưới (underlying problems), và thường thì hai vấn đề ấy lại có thể nằm trên hai<br />
bình diện khác nhau. Khi ấy việc chọn lựa các chiến lược can thiệp cần phải được xem xét kỹ.<br />
<br />
Ví dụ: Một nữ thân chủ được một chuyên viên tham vấn gửi đến một nhà tâm lý trị liệu với yêu cầu được làm<br />
một kỹ thuật gọi là “giải cảm ứng hệ thống” (systematic desensitization), một loại kỹ thuật tác động trên bình<br />
diện hành vi. Thân chủ này có triệu chứng là không thể nuốt được các thức ăn đặc (một vấn đề trên bình diện<br />
hành vi). Khám y khoa không phát hiện bất cứ căn nguyên thực thể nào gây ra tình trạng này. Nhưng sau vài<br />
buổi trao đổi, thiết lập quan hệ và tìm hiểu những kỳ vọng của thân chủ, nhà trị liệu nhận thấy rõ nỗi khổ tâm<br />
mà thân chủ đang gặp phải lại xuất phát từ bình diện cảm xúc chứ không phải là một vấn đề thuộc về hành vi.<br />
Cô thân chủ này đã không thể bày tỏ được sự tức giận đối với một người; cô đã tức giận rất nhiều vì trước đó cô<br />
đã bị người yêu phá vỡ sự đính ước giữa họ với nhau. Cô sụt cân rất nhanh và sức khỏe đang bị đe doạ nghiêm<br />
trọng vì cô chỉ có thể nuốt được những thức ăn lỏng. Sau đó, những phiên trị liệu với sự áp dụng các kỹ thuật<br />
theo kiểu gestalt và thân chủ trọng tâm đã giúp cô nhận ra được những cảm xúc của mình và có thể bày tỏ<br />
những cảm xúc ấy một cách phù hợp. Sau cùng, cô đã có thể nuốt được những thức ăn đặc và dần dần cải thiện<br />
những mối quan hệ với người xung quanh. Đây là ví dụ về một vấn đề tiềm ẩn bên dưới (khó khăn trong việc bộc<br />
lộ sự tức giận) đòi hỏi việc thực hiện các chiến lược can thiệp hoàn toàn khác với vấn đề được thể hiện (khó<br />
nuốt). Trong khi vấn đề được thể hiện đang hướng đến một chiến lược can thiệp về hành vi, thì vấn đề thực sự<br />
tiềm ẩn bên dưới lại cần đến một chiến lược can thiệp trên bình diện cảm xúc.<br />
<br />
Những phần sau đây sẽ cung cấp cho bạn đọc một tổng quan ngắn gọn về các chiến lược và những kỹ thuật<br />
tương thích với từng bình diện xuất hiện vấn đề (cảm xúc, nhận thức hoặc hành vi). Xin lưu ý rằng có một số<br />
chiến lược chỉ phù hợp với những người hỗ trợ chuyên nghiệp (professional helpers) và có kinh nghiệm hơn là<br />
dành cho người hỗ trợ bán chuyên nghiệp hoặc người mới hành nghề. Việc giới thiệu các chiến lược hỗ trợ sẽ<br />
cung cấp cho bạn những ý tưởng để biết được bạn đang quan tâm điều gì và có thiên hướng như thế nào, và có<br />
lẽ cũng sẽ đề xuất một số hướng dẫn cho việc nghiên cứu sâu thêm. Bài viết chỉ trình bày ở đây phần tổng quan<br />
tóm tắt. Bạn đọc cần xem và thực hành thêm các bài tập (xem Giáo trình Nhập môn). Nếu bạn thực hiện các bài<br />
tập, hãy cố gắng tìm xem chiến lược nào là phù hợp và có ý nghĩa đói với bạn<br />
<br />
CÁC CHIẾN LƯỢC VỀ CẢM XÚC<br />
<br />
Cơ sở lý thuyết cho các chiến lược hỗ trợ về cảm xúc được rút ra từ hai trường phái tâm lý trị liệu là trường phái<br />
thân chủ trọng tâm của Carl Rogers và trường phái Gestalt. Các chiến lược can thiệp cảm xúc có trọng tâm nhấn<br />
mạnh vào sự tự nhận biết về bản thân (self-awareness) và sự trải nghiệm các cảm xúc.<br />
<br />
Kỹ thuật<br />
<br />
Liệu pháp thân chủ trọng tâm đóng góp vào những kỹ năng giao tiếp dựa trên sự “lắng nghe có đáp<br />
ứng” (responsive listening). Nhà trị liệu, bằng cách giao tiếp một cách thấu cảm, chân thành, hài hòa, trung thực<br />
và chấp nhận thân chủ, sẽ tạo nên một môi trường có tính an toàn, không đe dọa, trong đó thân chủ có thể<br />
khám phá những cảm xúc, ý nghĩ và hành vi của chính họ, và từ đó có thể hiểu biết được bản thân và thế giới<br />
xung quanh. Môi trường có tính hỗ trợ này sẽ giúp cho thân chủ phát triển nên một ý niệm có tính tích cực về<br />
bản ngã của họ. Để kỹ thuật này thực hiện hiệu quả, thân chủ hẳn phải nhận được những cảm xúc và thái độ<br />
tích cực từ nhà trị liệu như đã nêu trên. Kỹ thuật “lắng nghe có đáp ứng” có thể đủ để trở thành một chiến lược<br />
duy nhất cần thiết trong việc thiết lập một mối quan hệ hỗ trợ.<br />
<br />
Các chiến lược can thiệp của liệu pháp Gestalt, trái lại, chú trọng đến việc giúp thân chủ tự nhận biết về bản<br />
thân. Những nhà trị liệu không thuộc trường phái Gestalt vẫn thường sử dụng những kỹ thuật Gestalt để giúp<br />
thân chủ nhận được sự tự hiểu biết bản thân. Mục đích của chiến lược Gestalt là nhằm hợp nhất sự chú tâm và<br />
nhận biết của thân chủ, sao cho thân chủ có thể nhận trách nhiệm về những hành vi hiện tại của họ. Một số quy<br />
luật trong khi vận dụng các chiến lược Gestalt:<br />
<br />
1. Sử dụng cụm từ “ở đây và ngay lúc này” (here and now) để tập trung vào hoàn cảnh hiện tại và những<br />
người đang có mặt tại chỗ;<br />
2. Sử dụng ngôn ngữ trực tiếp, ví dụ: dùng đại từ “Tôi” thay vì “Nó”, “Chuyện ấy”… và sử dụng cách nói “Tôi<br />
sẽ không…” thay vì “Tôi không thể…”<br />
3. Không nói về một “ngôi thứ ba”: thân chủ không nên nói về một người vắng mặt, thay vào đó có thể nói<br />
chuyện trực tiếp với người vắng mặt bằng cách sắm vai;<br />
4. Khẳng định rằng thân chủ là người làm chủ các cảm xúc, tư duy và hành động của họ, bằng cách sử dụng<br />
những từ ngữ như “tôi”, “của tôi”, “tôi chịu trách nhiệm về việc”…<br />
5. Hướng dẫn thân chủ thực hiện các hành động thay vì chỉ suy nghĩ và tưởng tượng.<br />
<br />
Các trò chơi như “Đối thoại” (Dialogue), “Tôi nhận trách nhiệm” và “Đảo vai” (Reversals) sẽ khuyến khích tác<br />
phong nói chuyện định hướng vào hiện tại và định hướng vào trách nhiệm. Trong những trò chơi này, thân chủ<br />
sẽ cư xử với một người vắng mặt bằng cách sắm vai, đảm nhận cả hai vai trong một cuộc đối thoại, đóng tất cả<br />
các vai trò, có khi bao gồm cả các vật vô tri vào trong các giấc mơ, vv…<br />
<br />
Kỹ thuật nói chuyện trong chiến lược Gestalt có mục đích giữ cho thường xuyên tiếp xúc với những sự kiện đang<br />
diễn biến. Và kỹ thuật nói chuyện này có những quy luật sau:<br />
<br />
1. Giữ cho sự giao tiếp giữa thân chủ và nhà trị liệu luôn ở trong hiện tại bằng cách dùng những câu ở thì<br />
hiện tại và nhấn mạnh vào những sự việc đang diễn ra. Sử dụng những câu hỏi như “Bạn đang cảm thấy<br />
như thế nào?” và “Bạn có nhận thấy rằng…?”<br />
2. Sử dụng các đại từ nhân xưng ngôi thứ I và ngôi thứ II (I-though) và giao tiếp trực tiếp với người đang<br />
đối thoại.<br />
3. Sử dụng đại từ nhân xưng “Tôi” chứ không nói về “Điều đó”, “Ngừơi ấy”, để giúp cho thân chủ có trách<br />
nhiệm hơn về hành vi của chính mình: Thay vì nói “Tiếng ồn trong ký túc xá khiến tôi không thể làm bài<br />
tập được” thì nên nói “Tôi đã không thể làm bài được”…<br />
4. Theo đuổi những câu hỏi “Cái gì?” và “Như thế nào?” chứ không hỏi “Tại sao?”. Ví dụ có thể hỏi “Hiện bạn<br />
nhận thấy được điều gì?” hoặc “Bạn cảm thấy như thế nào?” chứ không hỏi “Tại sao bạn lại cảm thấy…?”.<br />
Việc này sẽ giúp đưa thân chủ ra khỏi những lý giải, biện hộ dài dòng, bất tận.<br />
5. Không nói phiếm, không nói về người vắng mặt. Qui luật này khuyến khích sự giải bày cảm xúc và giúp<br />
thân chủ đối diện trực tiếp với những con người. Nếu người mà thân chủ muốn nói đến đang không có<br />
mặt, thì thân chủ sẽ được khuyến khích nói chuyện trực tiếp với người này bằng cách sử dụng một “chỗ<br />
ngồi trống” hoặc sử dụng một đồ vật khác để thay thế.<br />
6. Chuyển các câu hỏi sang câu xác định, khuyến khích thân chủ đảm nhận trách nhiệm và đương đầu trực<br />
tiếp với các vấn đề.<br />
<br />
Những quy luật nêu trên được dựa trên cơ sở những hướng dẫn sau đây (Levitsky & Perls, 1970):<br />
<br />
1. Hãy sống trong hiện tại; quan tâm đến hiện tại thay vì quá khứ hoặc tương lai. Chúng ta đã dành quá<br />
nhiều thời gian để nói về quá khứ và tương lai. Thói quen này làm chúng ta xao lãng và giảm khả năng<br />
nhận biết hiện tại.<br />
2. Hãy sống tại đây, và hãy giải quyết những gì đang hiện diện thay vì đương đầu với những sự việc không<br />
có tại đây. Một trong những chiến lược né tránh mà chúng ta thường sử dụng là nhắm vào những điều<br />
không xảy ra thay vì là nhắm vào những gì đang có, nhắm vào người vắng mặt hơn là vào những người<br />
đang hiện diện.<br />
3. Hãy ngưng sự tưởng tượng và hãy trải nghiệm sự thật. Sự tưởng tượng đưa chúng ta rời xa những điều<br />
đang có trong thực tế, làm tắc nghẽn các trải nghiệm và sự nhận biết của chúng ta. Chúng ta đôi lúc đã<br />
mất đi khả năng nhìn thấy những gì là thật đối với chúng ta.<br />
4. Hãy ngưng những suy nghĩ không cần thiết; hãy nếm, hãy nhìn, hãy cảm… Lần cuối cùng bạn ăm cam là<br />
lúc nào? Khi ấy bạn chỉ ăn, cảm nhận, nếm và ngửi quả cam chứ không có một ý nghĩ nào về khái niệm<br />
quả cam cả? Chúng ta lâu nay cho phép sự suy nghĩ làm tắc nghẽn các giác quan của chúng ta, và chúng<br />
ta cần có thời gian để trở lại tiếp xúc với các giác quan ấy.<br />
5. Hãy thể hiện thay vì lý giải, giải thích, phê phán… Hãy học cách thể hiện bản thân mình một cách trực<br />
tiếp, để yêu cầu những gì bạn muốn, để chấp nhận bản thân và chấp nhận người khác vì những gì vốn dĩ<br />
họ như thế, chứ không vì những ngôn từ khéo léo của họ.<br />
6. Hãy trải rộng sự nhận biết của bạn bằng cách trải nghiệm những nỗi khổ đau lẫn những niềm vui thú. Sự<br />
nhận biết thực sự phải bao gồm cả những trải nghiệm tiêu cực lẫn tích cực, và nếu chúng ta sử dụng năng<br />
lượng của chúng ta để ngăn chận lại những trải nghiệm không vui thì chúng ta cũng sẽ phần nào mất đi<br />
khả năng cảm nhận được hạnh phúc.<br />
7. Đừng chấp nhận những điều khuyên răn, những cái “nên” và “không nên”. Thay vì thế hãy làm theo<br />
những quyết định của chính bạn và không cần phải theo đuổi những thần tượng. Chúng ta phải nhận lãnh<br />
trách nhiệm về những luật lệ, tập tục và những hành vi của chính mình.<br />
8. Nhận trách nhiệm hoàn toàn về những hành động, cảm xúc và suy nghĩ của bạn. Đây là bản chất của sự<br />
trưởng thành theo tư duy kiểu Gestalt. Hãy ngưng đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh và hãy tự quyết<br />
định, tự lựa chọn dù trong bất kỳ hoàn cảnh như thế nào.<br />
9. Hãy chấp nhận là người bạn vốn dĩ đã như thế. Hãy chấp nhận chính bản thân mình, chấp nhận con người<br />
mà ban đang là thay vì con người mà bạn hoặc người khác nghĩ bạn “nên” là.<br />
<br />
Những trò chơi đối thoại (dialogue games) là những kỹ thuật có tính đặc trưng của liệu pháp Gestalt. Nó có thể<br />
được thực hiện bởi một trong hai cách: (1) đối thoại giữa hai “mặt” đối lập của cùng một thân chủ; (2) đối thoại<br />
giữa thân chủ với một người mà thân chủ vẫn đang trải qua xung đột.<br />
<br />
Các kỹ thuật Gestalt khác bao gồm việc sử dụng sự nhận biết về hình ảnh và giác quan (imagery and sensory<br />
awareness), tập trung vào mối tương quan giữa hành vi bằng lời và không lời (vd, “Bạn nói bạn đang giận, sao<br />
bạn lại mỉm cười?”), thể hiện những huyễn tưởng ra ngoài bằng hành động (sắm vai để thể hiện những huyễn<br />
tưởng, kể cả những thành phần là sinh vật lẫn vật thể vô tri), lập lại và cường điệu hóa những hành vi bằng lời<br />
và không lời (“Bạn có thể dừng lại ở những cảm xúc đó được không?”, “Hãy đung đưa chân bạn mạnh hơn nào,<br />
và lập lại những gì bạn vừa nói, lớn lên, lớn lên!”); sắm những “vai trò được phóng chiếu” (projected roles) bằng<br />
cách làm cho người khác những gì mà người này làm đối với chính bạn, và hoàn tất những công việc chưa hoàn<br />
tất thông qua việc sắm vai tích cực. Những nhà trị liệu theo trường phái Gestalt cũng yêu cầu thân chủ diễn xuất<br />
các giấc mơ theo cùng cách thức mà họ diễn xuất các huyễn tưởng. Bất cứ một thành phần hoặc một “mảnh”<br />
của giấc mơ hoặc huyễn tưởng đều được xem là một khía cạnh trong con người của thân chủ, một hình ảnh ẩn<br />
dụ (metaphor) để hiểu những gì đang xảy ra tại đây và ngay lúc này.<br />
<br />
Trường phái Gestalt thường sử dụng những câu hỏi quan trọng như:<br />
<br />
- “Bạn đang trải nghiệm điều gì vào lúc này?”<br />
<br />
- “Bạn đang ở đâu đây?”<br />
<br />
- “Bạn đang muốn làm gì?”<br />
<br />
- “Bạn đang làm gì lúc này?”<br />
<br />
- “Bạn đang tránh né điều gì?”<br />
Thân chủ được khuyến khích sử dụng những thông điệp có đại từ “tôi” để hoàn tất những câu nói như “Tôi biết<br />
rằng…”, “Hiện giờ, tôi cảm thấy rằng…” và “Tôi cho rằng…”. Nhà trị liệu Gestalt sử dụng những câu nói hướng<br />
dẫn như “Hãy nói Tôi thay vì là Nó, điều đó”, “Hãy cảm nhận những điểm mạnh của bạn”, “Hãy cụ thể hơn<br />
nào”, “Nói lại điều ấy lần nữa xem nào… nói mạnh lên…”, “Hãy nói với con người mạnh mẽ bên trong bạn rằng<br />
nó nên làm những gì”, “Hãy hành động một cách ngốc nghếch xem nào”, “Hãy hành động như thể bạn bất cần đi<br />
nào”… Nhà trị liệu Gestalt thường chia sẻ những trải nghiệm mà mình có được về những gì thân chủ đang làm<br />
vào thời điểm hiện tại, ví dụ “Tôi nhận thấy bạn đong đưa chân khi bạn nói về điều ấy” hoặc “Linh cảm báo cho<br />
tôi biết rằng bạn đang sợ, như thể bạn đang muốn bỏ chạy và trốn đi”.<br />
<br />
Mục đích của những chiến lược can thiệp về mặt cảm xúc là phát triển khả năng nhận biết các cảm xúc và nhận<br />
biết bản thân của thân chủ, bằng cách áp dụng những kỹ thuật như “lắng nghe có đáp ứng” và các thực nghiệm<br />
theo kiểu Gestalt với trọng tâm nhấn mạnh vào những gì đang diễn ra tại đây và ngay lúc này.<br />
<br />
“Lắng nghe có đáp ứng” (responsive listening) được định nghĩa là sự chú tâm (lắng nghe, quan sát và hiểu)<br />
những thông điệp có lời và không lời, cùng những ý nghĩ, cảm xúc của thân chủ, dù ở dạng bộc lộ hay còn ẩn<br />
kín. Đây là một loại kỹ năng mà nói đến thì dễ hơn thực hiện rất nhiều, và được xem là kỹ năng cơ bản mà nhà<br />
trị liệu cần có để đáp ứng với thân chủ. Nó đòi hỏi nhà trị liệu cần phải phát triển một sự nhận biết rõ về bản ngã<br />
của mình như một công cụ để giao tiếp cũng như phải rèn luyện những kỹ năng lắng nghe và nhận hiểu người<br />
khác.<br />
<br />
“Lắng nghe có đáp ứng” ngụ ý rằng nhà trị liệu có khả năng thông tin cho thân chủ biết về sự thấu cảm, chấp<br />
nhận và quan tâm của mình đối với thân chủ. Cùng lúc ấy, nhà trị liệu dùng cách làm rõ nghĩa câu nói của thân<br />
chủ (clarification) để có thể giúp thân chủ nâng cao khả năng hiểu biết vấn đề của họ. Vì thế, nhà trị liệu phải có<br />
khả năng thông tin cho thân chủ biết ông ta đã xác định và hiểu được những mối bận tâm suy nghĩ và những<br />
cảm xúc trong lòng thân chủ, cũng như thông tin cho thân chủ về những quan tâm chăm sóc của nhà trị liệu.<br />
Điều thiết yếu là nhà trị liệu phải hài hòa trong cung cách giao tiếp bằng lời lẫn không lời, nếu không thân chủ sẽ<br />
có thể trở nên nhầm lẫn khi tiếp nhận những thông điệp nước đôi, nhập nhằng từ nhà trị liệu.<br />
<br />
Việc dùng những câu như “Đừng lo!” hoặc “Bạn nên…” không có lợi ích gì. Các kiểu đáp ứng này không hề giúp<br />
gì cho thân chủ trong việc nâng cao khả năng hiểu biết được bản thân họ.<br />
<br />
Khi nào áp dụng các chiến lược can thiệp về cảm xúc<br />
<br />
Các chiến lược áp dụng kỹ thuật lắng nghe có đáp ứng và phát triển một mối quan hệ có tính chân thành và thấu<br />
cảm thì rất phù hợp với những cá nhân không có khả năng giải bày cảm xúc của mình và không thể có được<br />
những mối quan hệ cá nhân thân thiết, có ý nghĩa với người thân trong gia đình và bạn bè. Kỹ thuật lắng nghe<br />
có đáp ứng có thể đủ để trở thành một chiến lược can thiệp duy nhất trong mối quan hệ hỗ trợ mà mục đích của<br />
nó là nhằm phát triển một ý niệm về bản ngã (self-concept) nơi thân chủ. Khi một thân chủ thường gặp khó khăn<br />
trong việc thiết lập những mối quan hệ liên cá nhân, lại có thể phát triển được một mối quan hệ chân thành, thân<br />
mật và có ý nghĩa với nhà trị liệu, thì khi ấy những trải nghiệm mà thân chủ có được từ nhà trị liệu sẽ có tính bền<br />
vững, không thể đảo ngược được. Một khi thân chủ đã thiết lập được một mối quan hệ theo kiểu này với một ai<br />
đó, thì sau đó, họ sẽ có khả năng nhận được những mối quan hệ thân tình với những người khác. Lắng nghe có<br />
đáp ứng cũng là một phương thức áp dụng phù hợp trong việc thiết lập những mối quan hệ ngắn hạn và không<br />
chính thức, khi mà một người cảm thấy có ai đó biết lắng nghe và hiểu được những mối bận tâm của bản thân<br />
mình thì điều đó tự nó đã hữu ích rồi.<br />
<br />
Các kỹ thuật Gestalt đặc biệt hiệu quả ở những người thiếu khả năng nhận biết được về hành vi của họ, những<br />
người từ chối nhận lãnh trách nhiệm đối với bản thân và cuộc sống của họ, những người có sự tương tác một<br />
cách cứng nhắc, kiểu cách với môi trường sống, những người bị chìm đắm vào những việc chưa được hoàn tất<br />
trong quá khứ hoặc cứ suy đi nghĩ lại về tương lai, và những người mà bản thân dường như bị chia cắt làm đôi<br />
bởi vì họ đã từ chối hoặc loại bỏ đi một phần nào đó trong bản thân của họ. Các kỹ thuật Gestalt cũng đặc biệt<br />
hiệu quả đối với trẻ em, những con người thường hay tiếp xúc với thế giới huyễn tưởng và tưởng tượng nhiều<br />
hơn so với người lớn. Những kỹ thuật Gestalt nói chung không hiệu quả nhiều đối với những ai không muốn phát<br />
triển sự nhận biết cảm xúc của họ, những người đang cần tìm kiếm thông tin để thực hiện những quyết định về<br />
mặt nhận thức, những người đang trải qua một cơn khủng hoảng bất ngờ, và những người không có khả năng<br />
tưởng tượng hoặc huyễn tưởng hóa một cách đầy đủ để có thể tham gia vào các trò chơi và thực nghiệm theo<br />
kiểu Gestalt.<br />
<br />
CÁC CHIẾN LƯỢC CAN THIỆP CẢM XÚC-NHẬN THỨC (AFFECTIVE-COGNITIVE STRATEGIES)<br />
<br />
Cơ sở của các chiến lược can thiệp cảm xúc-nhận thức là học thuyết tâm động học (psychodynamic theory). Mục<br />
đích chủ yếu của chiến lược này là nhằm mang các tư liệu ở tầng vô thức đưa ra khu vực ý thức, nhằm làm tăng<br />
cường sức mạnh của cái Tôi nơi thân chủ, khiến cho hành vi của thân chủ sẽ phải dựa trên những suy nghĩ có ý<br />
thức thay vì bị điều khiển bởi những bản năng trong vô thức. Nhân cách của thân chủ được tái cấu trúc bằng<br />
cách nhận được khả năng “nội thị” (insight): bao gồm sự nhận biết về mặt cảm xúc và sự thấu hiểu về mặt nhận<br />
thức. Mục tiêu của chiến lược là nhằm loại bỏ những tác động gây hại từ những mối lo âu bên trong nội tâm, mà<br />
những nỗi lo này vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của cơ chế dồn nén, sao cho thân chủ có thể sống một cách<br />
đầy đủ hơn trong hiện tại với khả năng tự hiểu biết bản thân và một sự bình an nội tâm. Điều này cho phép thân<br />
chủ có được những mối quan hệ có tính xây dựng hơn và khả năng sống tốt hơn.<br />
<br />
Kỹ thuật<br />
<br />
Các kỹ thuật chính yếu của liệu pháp tâm động học là liên tưởng tự do (free association), phân tích giấc mộng<br />
(dream anlysis) và diễn giải (interpretation). Đây là những kỹ thuật dùng đến lời nói (verbal techniques) nhằm<br />
cho phép thân chủ đẩy nhanh tốc độ phát triển nên một mối quan hệ chuyển di với nhà trị liệu, và sau cùng là<br />
giúp khơi thông các xung đột trong vô thức. Mục đích của liên tưởng tự do và phân tích giấc mộng là để giúp<br />
thân chủ dần dần hiểu được ý nghĩa của những tư liệu đang ở sâu trong tầng vô thức. Trọng tâm nhấn mạnh vào<br />
những trải nghiệm của thời thơ ấu; giúp thân chủ hiểu được mối liên hệ giữa những sự việc trong quá khứ với<br />
chức năng tâm trí hiện tại của họ.<br />
<br />
Trong hiện tượng chuyển di (transference), thân chủ sẽ chuyển những cảm xúc, thái độ và xung đột được trải<br />
nghiệm trong quá khứ sang các tình huống và các mối quan hệ hiện tại. Bằng cách nhận ra hiện tượng này, thân<br />
chủ có thể nhận biết được những ảnh hưởng của nó trong tiến trình trị liệu. Watkins đưa ra năm khuôn mẫu<br />
chuyển di chính thường gặp trong quan hệ trị liệu, trong đó nhà trị liệu có thể được thân chủ nhìn nhận và cư xử<br />
theo như một trong số các hình tượng như sau: (1) một mẫu người lý tưởng (ideal); (2) một nhà tiên tri (seer);<br />
(3) một người bảo dưỡng (nurturer); (4) một người gây hụt hẫng (frustrator); và (5) một đối tượng phi thực thể<br />
(non-entity). Sự nhận thức theo mỗi mẫu người vừa nêu sẽ có ảnh hưởng lên trên thái độ và hành vi của thân<br />
chủ, đồng thời cũng ảnh hưởng lên trên những trải nghiệm của nhà trị liệu trong mối quan hệ. Chẳng hạn, nếu<br />
thân chủ xem nhà trị liệu như một nhà tiên tri, thân chủ sẽ trông đợi có được những lời khuyên và giải pháp của<br />
một chuyên gia; còn nhà trị liệu khi ấy sẽ có thể cảm nhận bản thân mình hoặc như một người toàn năng hoặc<br />
ngược lại như một người bất toàn vì đã không thể giải đáp thỏa đáng tất cả các câu hỏi của thân chủ. Trong<br />
trường hợp đó, nhà trị liệu cần áp dụng các chiến lược sao cho nó có thể chỉ ra được những nhu cầu lệ thuộc<br />
trong quá khứ của thân chủ cũng như phải làm rõ những mối quan hệ trong quá khứ của thân chủ với những<br />
người “có uy quyền”, và tập trung vào việc giúp thân chủ có được lòng tự tôn (self-esteem) và tính độc lập.<br />
<br />
Khi nào áp dụng các chiến lược cảm xúc-nhận thức<br />
<br />
Các kỹ thuật tâm động học là cần thiết đối với những người có những vấn đề thường xuyên và sâu xa trong nội<br />
tâm cần đến sự tái cấu trúc về nhân cách. Trừ khi được huấn luyện sâu về phân tâm học, bằng không bạn sẽ<br />
không thể làm được gì nhiều để mang đến sự hỗ trợ theo cách này.<br />
<br />
CÁC CHIẾN LƯỢC CAN THIỆP VỀ NHẬN THỨC (COGNITIVE STRATEGIES)<br />
<br />
Các chiến lược can thiệp về nhận thức nhấn mạnh đến sự hợp lý, các tiến trình tư duy và sự hiểu biết. Cơ sở lý<br />
thuyết của chiến lược này là thông tin và các hệ thống thực hiện quyết định.<br />
<br />
Kỹ thuật<br />
<br />
Kỹ thuật ra quyết định (decision-making) được áp dụng cho các vấn đề về nhận thức, bởi vì các quyết định là<br />
những tiến trình nhận thức. Điều quan trọng là cần phải giúp thân chủ học được các kỹ năng ra quyết định sao<br />
cho họ được tự do nhiều hơn trong việc quản lý cuộc sống của họ.<br />
<br />
Mặc dù có nhiều mô hình ra quyết định khác nhau, nhưng tiến trình cơ bản được khuyến cáo dành cho các mố<br />
quan hệ hỗ trợ bao gồm các bước sau đây:<br />
<br />
1. Làm rõ vấn đề : Phải chắc chắn rằng bạn đã xác định vấn đề nào đang gây ra những khó khăn hiện tại<br />
Vấn đề phải được xác định chính xác thì việc quyết định giải pháp mới có thể hiệu quả.<br />
2. Xác định và chấp nhận trách nhiệm trong việc giải quyết vấn đề : Trừ khi người ra quyết định thấy<br />
được mình có sức mạnh để ra một quyết định, nếu không tiến trình ra quyết định sẽ trở nên vô ích. Con<br />
người nói chung không đầu tư sức lực vào việc quyết định nếu kết quả không cho họ lợi ích gì.<br />
3. Đề xuất tất cả các giải pháp khả thi cho vấn đề (động não) : Thường chúng ta chỉ nghĩ đến những giải<br />
pháp có giới hạn. Sự động não cho phép chúng ta xem xét đến tất cả những giải pháp khả thi mà không phán xét<br />
chúng. Việc này giúp chúng ta có nhiều cơ hội mà từ đó có thể lựa chọn.<br />
4. Đánh giá từng giải pháp được đưa ra bằng cách dựa vào những điều kiện thực tế và dựa vào những hệ quả<br />
theo giả thuyết (làm rõ giá trị của các giải pháp này). Có một số giải pháp sẽ bị chúng ta tự động loại bỏ, hoặc vì nó có<br />
tính không khả thi, hoặc vì nó làm tổn hại đến hệ thống các giá trị của chúng ta. Tuy nhiên, trước khi loại bỏ một giải<br />
pháp nào, chúng ta cũng nên đặt giả thuyết về tất cả các kết quả của nó.<br />
5. Đánh giá lại những giải pháp trong danh sách được lựa chọn sau cùng, những kết quả có thể<br />
có, cùng những nguy cơ có thể gặp khi thực hiện : Các giải pháp được chọn sẽ được đưa vào một danh<br />
sách để chúng ta xem xét, mõi giải pháp cần phải được xem xét từng bước khi thực hiện và những kết quả có thể dẫn<br />
đến. Ở giai đoạn này, chúng ta lại có thể loại thêm một số giải pháp nữa.<br />
6. Quyết định chọn một giải pháp để thực hiện : Dựa vào tất cả các bước xem xét và đánh giá nêu trên,<br />
chúng ta sẽ lựa chọn một giải pháp. Ở giai đoạn này, chúng ta thậm chí còn có thể liệt kê lại một danh<br />
sách các lựa chọn một lần nữa.<br />
7. Xác định cách thực hiện kế hoạch đã chọn, thực hiện như thế nào và khi nào thực hiện : Đến<br />
đây, chúng ta sẽ nêu ra một cách chính xác những gì cần đến để thực thi quyết định này: ai cần làm điều<br />
gì, khi nào, ở đâu, cùng những phương tiện nào sẽ được cần đến, vv… Các quyết định nói chung thường<br />
đều thường không được thực hiện bởi vì chúng ta thất bại trong việc vượt qua giai đoạn này.<br />
8. Khái quát hóa sang các tình huống khác : Việc này là bước đi có thể cần hoặc không cần đến, tuy<br />
nhiên nó có liên quan đến việc khám phá những tác động của quyết định đã chọn và của việc thực th<br />
quyết định ấy đối với những tình huống sống khác ngoài tình huống khó khăn hiện tại.<br />
9. Đánh giá việc thực thi quyết định : Đây bước tối hậu để xác định rằng việc thực thi kế hoạch và quyết<br />
định đã chọn là có thuận lợi hay không. Chúng ta rất thường hay nói rằng một sự lựa chọn nào đó là<br />
không hay, trong khi thực tế chính việc thực thi quyết định ấy mới là chuyện có sai sót.<br />
<br />
Nhà trị liệu có thể thúc đẩy quá trình trên bằng cách làm rõ ý nghĩa, cung cấp thêm thông tin và đề xuất thêm<br />
nhiều giải pháp để lựa chọn trong giai đoạn động não. Trong những tình huống như hoạch định kế hoạch giáo<br />
dục và hướng nghiệp, những thông tin từ các trắc nghiệm có thể được sử dụng cho tiến trình quyết định. Việc thu<br />
thập và tổng hợp các thông tin thích đáng sẽ là một công cụ có giá trị trong quá trình quyết định.<br />
<br />
Ngoài việc diễn giải kết quả trắc nghiệm và phổ biến các thông tin chính xác, nhà trị liệu còn áp dụng cách thức<br />
làm rõ giá trị, quan sát và hướng dẫn thân chủ học cách hiểu và vận dụng những dữ liệu nhận được từ các trắc<br />
nghiệm, các thông tin bằng văn bản hoặc lời nói, và các thông tin từ quan sát. Những dữ liệu này lại có thể giúp<br />
thân chủ làm rõ và giải thích các giá trị, thái độ và niềm tin của họ cũng như những phẩm chất và trách nhiệm<br />
của họ. Chính thân chủ mới là người quyết định sau cùng; người hỗ trợ chỉ mang đến sự giúp đỡ mà thôi.<br />
<br />
Đôi khi, quá trình trị liệu không nhất thiết phải hoàn tất bằng việc có ngay một quyết định; cuộc làm việc có kh<br />
chỉ nhằm để giúp thân chủ có thêm thật nhiều thông tin trước khi người này có thể đưa ra quyết định sau cùng<br />
Điều này thực sự là đúng đắn, vì có những lúc người ta đã ra những quyết định quá nhanh trước khi thâu thập tất<br />
cả những dữ liệu cần thiết.<br />
<br />
Khi nào áp dụng các chiến lược can thiệp nhận thức<br />
<br />
Các chiến lược can thiệp trên bình diện nhận thức và quyết định sẽ hiệu quả trong các tình huống tham vấn giáo<br />
dục, hướng nghiệp, cũng như trong bất kỳ tình huống sống nào cần đến kỹ năng quyết định và giải quyết vấn<br />
đề. Trong một số trường hợp, các quyết định cần có những thông tin thuộc loại suy nghĩ và hiểu biết; nhưng<br />
cũng có trường hợp trước khi quyết định người ta cần có những thông tin thuộc về thái độ và niềm tin.<br />
<br />
CÁC CHIẾN LƯỢC CAN THIỆP VỀ NHẬN THỨC - HÀNH VI (COGNITIVE-BEHAVIORAL STRATEGIES)<br />
<br />
Các chiến lược nhận thức – hành vi là những phương thức cùng một lúc tác động trên cả tiến trình suy nghĩ lẫn<br />
các hành vi ứng xử của một con người. Cơ sở lý luận của các chiến lược này dựa trên giả thuyết cho rằng: những<br />
suy nghĩ không đúng cần phải được thay đổi trước khi xảy ra sự thay đổi về mặt hành vi. Một số học thuyết được<br />
vận dụng trong các chiến lược này bao gồm: trường phái trị liệu “cảm xúc – hợp lý” của Albert Ellis (RET:<br />
Rational-Emotive Therapy), liệu pháp thực tại của William Glasser (RT: Reality Therapy) và liệu pháp nhận thức -<br />
hành vi của Aaron Beck (CBT: Cognitive-Behavioral Therapy), cũng như từ học thuyết hành vi (Behavior Theory).<br />
Tính hợp lý và trách nhiệm là những khái niệm then chốt trong các phương pháp trị liệu này.<br />
<br />
Kỹ thuật<br />
<br />
Các kỹ thuật nhận thức – hành vi chủ yếu sử dụng lời nói và cần thiết phải có những “bài tập về nhà” (homework<br />
assignment) bên ngoài khuôn khổ các phiên trị liệu để thúc đẩy thân chủ chuyển những suy nghĩ mới vào các<br />
ứng xử và hành động’<br />
<br />
Mô hình RET đã góp phần vào bằng một chiến lược khá hiệu quả gọi là “tái cấu trúc nhận thức” (cognitive<br />
restructuring), có nghĩa là: thay thế những suy nghĩ sai lầm bằng những suy nghĩ mới, hợp lý hơn. Chiến lược<br />
này bao gồm những kỹ thuật có tính chỉ dẫn như: huấn luyện (teaching), thuyết phục (persuading), thách thức<br />
(confronting), thiết kế bài tập về nhà (assigning homework). Mục đích của chiến lược tái cấu trúc nhận thức là<br />
nhằm giúp thân chủ kiểm soát được những tình cảm của họ bằng cách hướng dẫn họ có được những ý tưởng<br />
hợp lý hơn, ít gây tổn hại cho bản thân hơn và thuyết phục họ nhận ra sự phi lý của những ý tưởng mà họ đang<br />
có.<br />
<br />
Albert Ellis (1962) đã xác định được nhiều kiểu ý tưởng phi lý như sau:<br />
<br />
1. Điều tối cần thiết đối với tôi là phải được mọi người yêu thương và chấp nhận vì tất cả mọi việc mà tôi làm<br />
2. Có những hành động xấu xa và sai trái, và những ai làm những hành động ấy đều phải bị trừng phạt thật<br />
nặng<br />
3. Thật là thảm hoạ, kinh khủng và đáng sợ khi những sự việc bên ngoài diễn ra không theo cách thức mà<br />
tôi mong muốn<br />
4. Phần lớn những bất hạnh của con người là do những nguyên nhân từ bên ngoài và bị áp đặt từ những<br />
người ngoài hoặc sự kiện bên ngoài<br />
5. Nếu có điều gì đó đáng sợ hoặc nguy hiểm, thì tôi phải hết sức quan tâm đến nó<br />
6. Sẽ dễ hơn nếu tôi tránh né những khó khăn trong đời và tránh né những trách nhiệm bản thân thay vì là<br />
đối mặt với chúng<br />
7. Tôi cần một thứ gì đó khác hơn, mạnh hơn hoặc lớn hơn tôi, để tôi có thể trông nhờ vào đó<br />
8. Tôi nên là một người hoàn toàn giỏi dang, đầy đủ, thông minh và thành công về mọi phương diện<br />
9. Nếu có điều gì đó từng ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của tôi, việc ấy hẳn sẽ có ảnh hưởng đến tôi<br />
suốt đời<br />
10. Những gì mà người khác làm đều rất quan trọng cho sự hiện hữu của tôi, và tôi nên cố gắng thật nhiều để<br />
thay đổi chúng theo hướng mà tôi muốn<br />
11. Hạnh phúc có thể có được bằng cách ngồi yên và chẳng cần làm gì cả<br />
12. Tôi gần như không thể kiểm soát được những tình cảm của mình và lúc nào cũng phải cảm nhận được<br />
những điều gì đó<br />
<br />
Những nhà trị liệu nào sử dụng các kỹ thuật nhận thức – hành vi sẽ liên tục lột bỏ những suy nghĩ sai lầm của<br />
thân chủ bằng cách nêu những suy nghĩ ấy ra cho thân chủ chú ý đến, chỉ cho họ thấy bằng cách nào mà các tư<br />
tưởng phi lý đó đã trở thành cơ sở cho các vấn đề của họ, minh họa bằng các liên kết theo trình tự A-B-C-D-E:<br />
trong đó A (Activating Event) là sự kiện khởi phát; B (Belief System) là hệ thống niềm tin; C (Consequences) là<br />
các hệ quả; D (Disputing Irrational Ideas) là sự loai bỏ các niềm tin phi lý và E (new Emotional Consequence /<br />
Effect) là hiệu ứng cảm xúc mới. Nhà trị liệu huấn luyện thân chủ cách suy nghĩ lại, phát ngôn lại những ý tưởng<br />
phi lý theo một cách thức hợp lý hơn, xây dựng hơn. Vì thế, nhà trị liệu sẽ trực tiếp phủ nhận và chối bỏ những<br />
câu phát biểu sai trái mà thân chủ cứ tự mình lập đi lập lại, và yêu cầu thân chủ phải thực hiện một số hoạt động<br />
(bài tập về nhà) mà những việc ấy sẽ có tác dụng như một lực đối trọng chống lại hệ thống những niềm tin phi lý<br />
của thân chủ.<br />
<br />
Một bài tập về nhà có thể dưới hình thức thân chủ thực hiện theo những ý kiến hướng dẫn của nhà trị liệu mỗi<br />
khi cảm thấy buồn phiền vì những sự việc xung quanh không diễn ra tốt đẹp theo như ý muốn. Thân chủ sau đó<br />
báo cáo lại những gì họ đã làm ngoài những phiên trị liệu. Theo phương pháp của Ellis, những ý tưởng hợp lý<br />
như sau nên được hướng dẫn lại cho thân chủ:<br />
<br />
1. Không nhất thiết mỗi người phải được tất cả mọi người xung quanh thương yêu và chấp nhận. Con người<br />
có thể chú tâm vào việc yêu thương người khác thay vì là chỉ muốn người khác yêu thương mình.<br />
2. Tốt hơn hết là không nên chỉ đánh giá những giá trị của bản thân dựa vào những khía cạnh bên ngoài như<br />
sự giỏi dang, đầy đủ, thành đạt, mà còn phải đặt trọng tâm vào lòng tự trọng và được chấp nhận do bởi<br />
những gì bản thân mình làm được.<br />
3. Những người làm điều sai trái không nhất thiết phải bị buộc tội hoặc bị trừng phạt, mà nên được xem là<br />
những kẻ ngu dốt, khờ khạo hoặc có những xáo trộn về cảm xúc.<br />
4. Hạnh phúc mà một con người có được và duy trì được là do việc người ấy xem xét các sự vật như thế nào<br />
hơn là do bản thân các sự vật quyết định.<br />
5. Nếu có một việc gì đó nguy hiểm thì người ta nên đối mặt với nó và làm cho nó bớt nguy hiểm, chứ không<br />
nên xem là thảm họa.<br />
6. Cách duy nhất để giải quyết các nan đề là đương đầu với chúng một cách trực tiếp<br />
7. Tốt hơn hết, mỗi người nên tự đứng trên đôi chân của chính mình, đặt lòng tin vào bản thân và dùng khả<br />
năng của mình để giải quyết các hoàn cảnh khó khăn hơn là phải phụ thuộc vào người khác.<br />
8. Mỗi người nên nhìn thấy bản thân mình là không hoàn hảo, có những hạn chế tự nhiên và cũng có thể sai<br />
lầm.<br />
9. Người ta nên học từ các kinh nghiệm trong quá khứ, nhưng không nên bị gắn quá chặt vào chúng hoặc có<br />
những thành kiến bởi chúng.<br />
10. Những khuyết điểm của người khác chủ yếu là những vấn đề của họ, nếu làm áp lực để bắt họ thay đổi thì<br />
sẽ không thể giúp họ làm gì được.<br />
11. Con người thường hạnh phúc nhất khi họ tích cực theo đuổi và đạt đến những mục đích bên ngoài bản<br />
thân mình.<br />
12. Người ta có khả năng kiểm soát được những tình cảm của mình nếu lựa chọn cách thức làm việc để có<br />
được những ý tưởng mới và hợp lý.<br />
<br />
Rõ ràng là việc chỉ một lần nêu ra các ý tưởng sai lầm vẫn chưa đủ để đưa đến sự thay đổi hành vi bền vững.<br />
Thay vào đó, nhà trị liệu phải liên tục “công phá” hết đợt này đến đợt khác vào hệ thống những niềm tin phi lý<br />
nơi thân chủ. Nhà trị liệu cũng phải yêu cầu thân chủ hoàn tất việc thực hiện những bài tập về nhà, mà chính<br />
những việc làm này mới là sự minh họa cụ thể cho sự thay đổi hành vi nơi thân chủ.<br />
<br />
Liệu pháp thực tại (RT) áp dụng một kỹ thuật khác trên bình diện nhận thức – hành vi, bao gồm 8 bước sau đây:<br />
<br />
1. Thiết lập quan hệ với thân chủ, thông tin (cả bằng lời nói lẫn hành động) cho thân chủ biết rằng “Tôi đang<br />
lưu tâm đến anh”<br />
2. Hãy tập trung vào những gì “tại đây và ngay lúc này”, không tham khảo nhiều vào quá khứ và cũng tránh<br />
việc “dây dưa” vào các cảm xúc. Điều mà một người làm với chính họ thì quan trọng hơn các cảm xúc của<br />
họ.<br />
3. Yêu cầu thân chủ đánh giá những hành vi của chính họ và tự hỏi: “Trong những điều mình làm, điều gì là<br />
đúng?”, “Việc đó giúp ích gì cho mình… cho người khác…?”. Nếu thân chủ không thể đánh giá được hành<br />
vi của họ, điều cần làm có lẽ sẽ là trở lại bước 1 và thân chủ cần phải quyết định rằng họ có muốn thay<br />
đổi hành vi của mình hay không.<br />
4. Vạch một kế hoạch thay đổi hành vi và hỏi thân chủ “Bạn nghĩ việc này có thể được thực hiện tốt nhất<br />
theo cách thức như thế nào?”. Giúp thân chủ định hình một kế hoạch. Để thân chủ lựa chọn, nhà trị liệu<br />
đưa ra các đề xuất nhưng không cung cấp một kế hoạch trọn vẹn. Kế hoạch cần ngắn gọn, chuyên biệt và<br />
cụ thể (“Bạn sẽ làm việc đó khi nào? Như thế nào?”), có tính tích cực thay vì là tiêu cực và có tính trừng<br />
phạt, và kế hoạch cũng cần có tính khả thi cao.<br />
5. Thực hiện một hợp đồng cam kết thực hiện theo kế hoạch. Nếu cần có thể viết ra một bản cam kết về<br />
cách thức thực hiện việc thay đổi hành vi và hỗ trợ cho việc này thành công. Hợp đồng cam kết được làm<br />
giữa thân chủ và nhà trị liệu.<br />
6. Chấp nhận mà không cần đến những lời bào chữa hay xin lỗi nếu thân chủ không thực hiện theo kế<br />
hoạch. Nếu hợp đồng trên không được thân chủ làm theo, hãy hỏi thân chủ “Khi nào bạn có thể thực hiện<br />
việc này?” chứ không hỏi “Tại sao bạn không làm việc này?”. Nếu không thành công, hãy đi theo kết quả<br />
tự nhiên của việc không làm theo kế hoạch, rồi sau đó quay trở lại các bước ban đầu để làm một kế hoạch<br />
mới.<br />
7. Thân chủ nên biết và tham gia vào việc làm ra các luật lệ. Áp dụng các hệ quả tự nhiên khi luật lệ bị vi<br />
phạm chứ không dùng những biện pháp trừng phạt.<br />
8. Không bao giờ từ bỏ việc giúp thân chủ.<br />
<br />
Nhà trị liệu khi áp dụng các kỹ thuật của liệu pháp thực tại sẽ trở nên quan tâm nhiều hơn đến thân chủ; còn<br />
thân chủ sau đó có thể sẽ bắt đầu đánh giá hành vi của chính bản thân họ và sẽ thấy được những gì ở bản thân<br />
họ là phi thực tế. Nhà trị liệu thách thức thân chủ đối diện với thực tại và cứ lập đi lập lại việc yêu cầu thân chủ<br />
quyết định xem họ có thực hiện những việc làm có trách nhiệm hay không. Nhà trị liệu có thể phản bác những<br />
hành vi thiếu thực tế của thân chủ, nhưng vẫn giữ thái độ tôn trọng và chấp nhận con người của thân chủ. Nhà<br />
trị liệu sẽ hướng dẫn cho thân chủ những cách thức để đáp ứng các nhu cầu mà không gây tổn thương cho bản<br />
thân và cho người khác. Thân chủ sẽ chịu trách nhiệm về hành vi của mình, sẽ làm việc trong bối cảnh hiện tại,<br />
sẽ học cách đánh giá khía cạnh đạo đức trong hành vi của họ và sẽ học được những cách thức ứng xử hiệu quả<br />
hơn.<br />
<br />
Liệu pháp thực tại của William Glasser áp dụng một chiến lược có tính chất huấn luyện nhằm trực tiếp giải quyết<br />
các giải pháp chọn lựa của thân chủ. Triết lý cơ bản của liệu pháp này là thân chủ có thể quyết định được việc họ<br />
có còn bị phiền nhiễu nữa hay không.<br />
<br />
Liệu pháp nhận thức – hành vi (CBT) của Aaron Beck lại vận dụng một loạt các chiến lược mà cốt lõi bao gồm<br />
những kỹ thuật tác động vừa trên bình diện nhận thức lẫn trên bình diện hành vi. Phần nhiều những kỹ thuật của<br />
Beck cũng gần giống với kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức của A. Ellis (liệu pháp RET). Một số kỹ thuật mà Beck<br />
thường áp dụng gồm có: “tổng duyệt lại” về nhận thức (cognitive rehearsal) để phát hiện ra những điều gì đang<br />
gây cản trở trong suy nghĩ, liên hệ cảm xúc với các hành vi bằng cách tưởng tượng thật chi tiết những tình huống<br />
sống thực ngay trong các phiên trị liệu, vận dụng những phương pháp “kiểm định thực tại” (reality testing) như<br />
tìm kiếm những cách thức để đáp ứng lại với những suy nghĩ tiêu cực, sắp xếp các công việc, tích cực kiểm định<br />
những suy nghĩ và giả định có tính tiêu cực.<br />
<br />
Việc giúp thân chủ nhận biết và lìa xa những tư duy sai lầm sẽ có thể tránh được những sai lầm tương tự về sau.<br />
Beck (1976) liệt kê ra 7 bước của kỹ thuật kiểm định thực tại minh họa cho việc vận dụng chiến lược trị liệu của<br />
ông:<br />
<br />
1. Xác định những ý nghĩ và những lời nói nào ở thân chủ có tính chất tiêu cực và khiến cho thân chủ bị<br />
vướng mắc vào những cảm xúc không hay<br />
2. Hỏi thân chủ xem họ tin vào các ý tưởng đó đến mức độ như thế nào và theo họ có nhiều khả năng xảy ra<br />
một sự kiện tiêu cực hay không.<br />
3. Kiểm tra những cảm xúc có liên quan đến các ý tưởng này, vd. “Khi tự nói với mình về điều đó, nó khiến<br />
bạn cảm thấy như thế nào?”<br />
4. “Tháo dỡ” tính kiên định của những ý tưởng như thế bằng cách đặt những câu hỏi mở, nhẹ nhàng dẫn<br />
thân chủ thăm dò đến những chứng cứ: tìm hiểu kết quả từ những tình huống tương tự trong quá khứ,<br />
các kết quả khác nhau và tần số xuất hiện những kết quả ấy, số lần xảy ra những tình huống tương tự<br />
nhưng cho kết quả tốt hơn hoặc xấu hơn so với những kết quả được tưởng tượng ra trong hiện tại…<br />
5. Đánh giá (cho điểm) khả năng có những tác hại trong tương lai. Vd, “Việc sau này bạn không thể tìm được<br />
một người khác giống như anh ấy có nhiều khả năng xảy ra không? Bạn đánh giá khả năng ấy như thế<br />
nào? Một phần mười? Hay một phần trăm?”<br />
6. Tiếp tục thách thức thân chủ đối diện với thực tại.<br />
7. Kiểm tra lại lòng tin của thân chủ đối với những ý tưởng ban đầu mà họ có, sau khi đã làm việc qua những<br />
bước nêu trên.<br />
<br />
Lưu ý: những kỹ thuật nhận thức – hành vi bao gồm cả những công việc như đánh giá (evaluation) và phán xét<br />
(judgment) của nhà trị liệu, qua đó các ý tưởng cũng như hành vi của thân chủ sẽ được đánh giá là hợp lý hay<br />
phi lý, có trách nhiệm hoặc thiếu trách nhiệm. Nhà trị liệu tuy vậy sẽ không áp đặt các giá trị của mình lên trên<br />
thân chủ, thay vì thế, nhà trị liệu sẽ xem xét và đánh giá các giá trị của thân chủ. Nói cách khác, nhà trị liệu<br />
thách thức thân chủ, nhưng không trừng phạt hoặc phản bác họ vì họ đã không có những giá trị và niềm tin<br />
“đúng đắn”. Các phương pháp này có nhiều khác biệt với những chiến lược của những liệu pháp “hiện tượng<br />
học” (phenomenological strategies) như liệu pháp Gestalt và liệu pháp thân chủ trọng tâm, vì các liệu pháp này<br />
có tính không phê phán (non-judgmental) và không đánh giá (non-evaluative).<br />
<br />
Khi nào áp dụng các chiến lược nhận thức – hành vi<br />
<br />
Các chiến lược nhận thức – hành vi được áp dụng với nhiều đối tượng và hoàn cảnh khác nhau, tại các trường<br />
học, bệnh viện, xí nghiệp, các cơ sở giáo huấn… Liệu pháp “cảm xúc-hợp lý” (RET) có thể không hiệu quả đối với<br />
những thân chủ có trình độ học vấn thấp, không đủ khả năng theo đuổi một sự phân tích hợp lý, hoặc những<br />
thân chủ quá gắn chặt vào những tình cảm khiến cho họ không thể làm theo những phương thức có tính duy lý.<br />
Liệu pháp thực tại (RT) cũng có thể áp dụng được trên rất nhiều loại thân chủ. Liệu pháp CBT của Beck ban đầu<br />
có hiệu quả chuyên biệt trên những thân chủ bị trầm cảm, và hiện nay còn được áp dụng trên nhiều loại rối loạn<br />
khác. Các loại liệu pháp này đòi hỏi những khả năng diễn đạt bằng lời nói và thân chủ phải có động cơ muốn<br />
thay đổi.<br />
<br />
CÁC CHIẾN LƯỢC CAN THIỆP TRÊN BÌNH DIỆN HÀNH VI (BEHAVIORAL STRATEGIES)<br />
<br />
Các chiến lược hành vi có cơ sở lý luận dựa trên lý thuyết về học tập (learning theory) và tập trung vào những<br />
hành vi chuyên biệt, có thể quan sát được chứ không phải những cảm xúc hoặc ý nghĩ. Nhà trị liệu chỉ có thể<br />
đánh giá được hiệu quả của những chiến lược này bằng cách quan sát những thay đổi cụ thể trên những hành vi<br />
chuyên biệt ấy.<br />
<br />
Kỹ thuật<br />
<br />
Nhà trị liệu cần có một số kỹ năng sau đây để có thể thực hiện những chiến lược về hành vi:<br />
<br />
1. Hiểu được những khái niệm và nguyên lý về tác nhân củng cố (reinforcement), sự trừng phạt<br />
(punishment), sự loại trừ (extinction), sự phân biệt (discrimination), định dạng (shaping), tiếp cận tuần tự<br />
(successive approximation) và việc lập các kế hoạch thực hiện sự củng cố (schedules of reinforcement).<br />
2. Có khả năng xác định được những hành vi đích có tính chuyên biệt mà thân chủ muốn thay đổi.<br />
3. Có khả năng xác định và đánh giá những điều kiện khởi phát hành vi đích ấy.<br />
4. Có khả năng thu thập những dữ liệu cơ bản ban đầu (baseline data) về tần suất và cường độ của những<br />
hành vi đích ấy.<br />
5. Có khả năng xác định và đánh giá những điều kiện gây ra hành vi đích cũng như những điều kiện duy trì<br />
(củng cố) hành vi đích ấy.<br />
6. Có khả năng tìm ra những tác nhân củng cố nào có ý nghĩa đối với thân chủ.<br />
7. Có thể áp dụng các kế hoạch thực hiện sự củng cố một cách khả thi và có ý nghĩa.<br />
8. Có đủ các kiến thức cơ bản, thiết kế và vận dụng những kỹ thuật khác nhau của trị liệu hành vi.<br />
9. Có khả năng đánh giá các kết quả của các chiến lược can thiệp trên bình diện hành vi.<br />
<br />
Có nhiều kỹ thuật thay đổi hành vi đã được mô tả và áp dụng. Trong bài viết này chỉ trình bày các kỹ thuật làm<br />
mẫu (modeling), lập hợp đồng thỏa thuận (contracting), huấn luyện tính quyết đoán (assertiveness training) và<br />
giải cảm ứng có hệ thống (systematic desensitization).<br />
<br />
- Làm mẫu: Đây là phương thức được dựa trên nguyên lý cho rằng con người học tập các hành vi mới dựa trên<br />
sự bắt chước theo các khuôn mẫu hành vi, thái độ, niềm tin và các giá trị từ những người quan trọng trong cuộc<br />
sống của mình. Việc làm mẫu cũng có thể được thực hiện thông qua sắm vai (role playing), sử dụng các phương<br />
tiện truyền thông (media), và trong các tình huống tham vấn cá nhân hoặc tham vấn nhóm. Điều quan trọng cần<br />
nhớ là nhà trị liệu cũng chính là một khuôn mẫu - một khuôn mẫu đầy tiềm năng - đối với thân chủ trong tiến<br />
trình trị liệu.<br />
<br />
Trong khi làm việc với thân chủ, nhà trị liệu cần ý thức rõ về ảnh hưởng của bản thân mình như một khuôn mẫu<br />
đối với thân chủ, đồng thời cũng phải tìm hiểu ảnh hưởng của những khuôn mẫu khác đã có trong đời sống thân<br />
chủ, kể cả những khuôn mẫu có ảnh hưởng tích cực lẫn những khuôn mẫu có ảnh hưởng tiêu cực.<br />
<br />
- Hợp đồng thỏa thuận: Phương thức này được dựa trên nguyên lý về tác nhân củng cố (reinforcement), cho<br />
rằng hành vi nào được củng cố thì sẽ có khả năng được đương sự lập lại. Một hợp đồng về thực hiện hành vi là<br />
một loại thỏa thuận có tính chuyên biệt giữa thân chủ và nhà trị liệu nhằm phân tách những hành vi đích (target<br />
behavior) ra những thành phần nhỏ hơn và cung cấp những tác