intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ba người lính ngự lâm

Chia sẻ: Nguyen Lan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:945

120
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu sử tác giả - Đôi nét về Alexandre Dumas và Ba người lính ngự lâm Chương 1 - Ba tặng vật của ông D' Artagnan bố Chương 2 - Tiền sảnh nhà ông De Treville Chương 3 - Sự ra mắt Chương 4 - Vai của Athos, dải đeo gươm của Porthos và chiếc khăn tay của Aramis Chương 5 - Ngự lâm quân của nhà vua và cận vệ quân của đức Giáo chủ C

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ba người lính ngự lâm

  1. Dịch giả: Nguyễn Bản
  2. Tên sách: Ba người lính ngự lâm Tác giả: Alexandre Dumas Người dịch: Nguyễn Bản Nhà xuất bản: Văn học Năm xuất bản: 2005 ------------------------------ Đánh máy: Nguyễn Học - VNthuquan Chuyển sang ebook: Cotyba Ngày hoàn thành: 27/11/2006
  3. MỤC LỤC Tiểu sử tác giả - Đôi nét về Alexandre Dumas và Ba người lính ngự lâm Chương 1 - Ba tặng vật của ông D' Artagnan bố Chương 2 - Tiền sảnh nhà ông De Treville Chương 3 - Sự ra mắt Chương 4 - Vai của Athos, dải đeo gươm của Porthos và chiếc khăn tay của Aramis Chương 5 - Ngự lâm quân của nhà vua và cận vệ quân của đức Giáo chủ Chương 6 - Nhà vua Louis thứ mười ba Chương 7 - Nội tình mấy chàng ngự lâm quân Chương 8 - Một âm mưu trong triều Chương 9 - D' Artagnan thể hiện bản lĩnh Chương 10 - Cái bẫy chuột thế kỷ 17 Chương 11 - Âm mưu bị kẹt Chương 12 - George Villiers quận công de Buckingham Chương 13 - Ông Bonacieux Chương 14 - Con người ở Măng Chương 15 - Phái quan tòa và phái quân nhân Chương 16 - Viên chưởng ấn Xécghiê tìm mấy lần vẫn không thấy chuông ở đâu để rung lên, như ngày trước vẫn quen làm Chương 17 - Vợ chồng nhà Bonacieux Chương 18 - Người tình và người chồng Chương 19 - Kế hoạch tác chiến Chương 20 - Du hành Chương 21 - Nữ bá tước De Winter Chương 22 - Vũ khúc Merlaison Chương 23 - Cuộc hẹn hò Chương 24 - Nhà hóng gió Chương 25 - Porthos Chương 26 - Luận văn của Aramis Chương 27 - Người vợ của Athos
  4. Chương 28 - Trở về Chương 29 - Săn tìm quân trang Chương 30 - Milady Chương 31 - Người Anh và người Pháp Chương 32 - Bữa ăn trưa nhà ông biện lý Chương 33 - Cô hầu gái và nữ chủ nhân Chương 34 - Việc trang bị cho Aramis và Porthos đã được xử lý ở đâu Chương 35 - Ban đêm mèo nào cũng xám Chương 36 - Mộng báo thù Chương 37 - Bí mật của Milady Chương 38 - Không mất công xoay xở, Athos vẫn có được quân trang Chương 39 - Ảo ảnh Chương 40 - Một ảo ảnh khủng khiếp Chương 41 - Cuộc vây thành La Rochelle Chương 42 - Rượu vang Ăngju Chương 43 - Quán trọ chuồng bồ câu đỏ Chương 44 - Tiện ích của ống khói lò sưởi Chương 45 - Một cảnh vợ chồng Chương 46 - Pháo thành Saint Giécve Chương 47 - Hội nghị ngự lâm quân Chương 48 - Việc gia đình Chương 49 - Định mệnh Chương 50 - Chuyện trò giữa ông em chồng với chị dâu Chương 51 - Sĩ quan Chương 52 - Ngày đầu tiên trong cảnh giam cầm Chương 53 - Ngày thứ hai bị giam cầm Chương 54 - Ngày thứ ba bị giam cầm Chương 55 - Ngày thứ tư bị giam cầm Chương 56 - Ngày thứ năm bị giam cầm Chương 57 - Một thủ pháp bi kịch cổ điển Chương 58 - Vượt ngục Chương 59 - Điều diễn ra ở Portsmouth ngày
  5. Chương 59 - Điều diễn ra ở Portsmouth ngày 23 tháng 8 năm 1628 Chương 60 - Bên nước Pháp Chương 61 - Tu viện nữ tu sĩ Cácmel ở Bêtuyn Chương 62 - Hai giống yêu quái Chương 63 - Giọt nước Chương 64 - Người khoác áo choàng đỏ Chương 65 - Phán xử Chương 66 - Hành quyết Kết luận Phần chót
  6. Tiểu sử tác giả
  7. Đôi nét về Alexandre Dumas và Ba người lính ngự lâm Một ngày năm 1842, một con người to lớn tràn trề sức lực hể hả bước vào phòng đọc thư viện Mác-xây và tự giới thiệu: Alexandre Dumas. Người thủ thư bối rối vì trọng vọng. Danh tiếng của Dumas lúc này đã vang dội. Ông mượn "Những hồi ký của ông D' Artagnan" xuất bản năm 1704 và mượn luôn cả một bộ sách có tên: "Richelieu, Conbe và Majaranh(1). A. Dumas đã quên phắt không đem trả bộ sách đó. Một chi tiết rất nhỏ nhặt không đáng để ý nếu không có chuyện từ mấy cuốn sách ấy sinh ra cuốn truyện tuyệt vời "Ba người lính ngự lâm ". Năm 1842 A. Dumas tròn bốn mươi tuổi, tức ông sinh năm 1802, cùng năm sinh với Victo Hugo, mà Hugo đã viết: "Thế kỷ ấy đã được hai năm" (Ce siècle a deux ans). Ngày 24 tháng bảy năm 1802, viên tướng của phái cộng hòa thời quốc ước, Thomas Alexandre Dumas gửi cho tướng Bruyle bức thư ngắn nội dung như sau: "Bruyle thân mến, tôi vui mừng báo tin cho anh, vợ tôi sáng hôm qua đã sinh một bé trai to lớn, nặng khoảng 4 kg rưỡi và dài 48 cm. Rồi anh sẽ thấy nó tiếp tục lớn lên ở ngoài như nó đã lớn lên như thế ở bên trong". Tướng Dumas yêu cầu bạn đồng nghiệp làm cha đỡ đầu cho nó. Ông viết thêm ở phần tái bút: "Tôi lại bóc thư ra để nói với anh là thằng nhóc vừa đái phọt qua đầu nó. Một sự khơi đầu tốt, phải không anh!" Sáu trăm tác phẩm của "thằng nhóc" được xuất bản
  8. quả đã chứng tỏ sự khởi đầu tốt đẹp. Là con trai nhà quý tộc, Hầu tước de la Payơrơri, nhưng người mẹ lại là một nô tỳ da đen, tướng Thomas là một người tư tưởng cộng hòa rõ rệt. Ông đã có lần cãi nhau với Napoléon: "Tôi nghĩ phải đặt lợi ích nước Pháp lên trên lợi ích một con người, dù người ấy có vĩ đại đến đâu chăng nữa... Tôi sẵn sàng rời bỏ ngài, nếu ngài tách rời khỏi nước Pháp", Vì vậy sau khi lên ngôi, Napoléon đã bạc đãi ông, ông xin về nghỉ hưu rồi qua đời trong cảnh túng quẫn khi "thằng nhóc mới được bốn tuổi". A. Dumas được mẹ vốn là con gái một chủ quán nuôi dưỡng trong cảnh túng bấn ở Vilê Cốttơrê, không được học hành, ngoại trừ mấy bài học vỡ lòng của một con người tốt bụng là ông mục sư. Nhưng lại học ở đời rất nhiều, đấy là vô tận những chuyến đi rừng, những buổi đi săn kể cả săn trộm vô cùng hào hứng và đọc rất nhiều. Kho sách nhà Dumas chứa đủ mọi loại sách mà A. Dumas ngốn ngấu một cách say mê. Mười lăm tuổi cậu theo học thầy Mênétxông, công chứng viên ở Vilê để làm thư ký hạng ba. Thư ký công chứng viên hàng ngày viết kín trang này đến trang khác có dán tem bằng nét chữ rất đẹp và luôn thở dài nhớ rừng thân yêu. Đồng thời chàng cảm thấy nảy sinh trong mình sở thích mạnh mẽ đối với thi ca và sân khấu, rồi liền đó cố viết những vần thơ ngắn gửi vài cô gái ở Vilê Côttơrê hoặc Crêpyăng Valoa. Một hôm ở lâu đài Vilê Hêlông, chàng làm quen với chàng trai trẻ mười bảy tuổi hơn mình mấy tháng tên là Ađonphô de Lêvăng tự xưng là thi sĩ. Một thi sĩ ư? Alexandre cũng reo thầm trong bụng:
  9. "Ta cũng vậy, ta cũng là thi sĩ". Khi chàng biết Ađonphô thường lui tới các nhà hát ở Paris và quen biết Talma, diễn viên bi kịch nổi tiếng, nhiệt tình của chàng với thi ca và sân khấu trở thành vô bờ bến. Tất cả đều cùng tồn tại: Paris, sân khấu, Talma và chàng, một thi sĩ và hiện thời quyết định đi theo Ađonphô đến Paris và sẽ tự giới thiệu với Talma. Nhưng còn tiền? Mặc kệ, chàng vừa đi vừa săn. Một con muông bị giết ở dọc đường đủ để trả tiền ăn đường. Talma tiếp chàng và hỏi chuyện: - Anh làm gì ở tỉnh nhỏ? - Tôi không dám nói đâu - Alexandre thở dài - Tôi là thư ký công chứng quèn. - Vở vẩn - Talma nói - Không vì thế mà thất vọng. Coócnây(2) cũng vốn là thư ký biện lý. Và quay lại các bạn, Talma nói thêm: - Thưa các vị, tôi xin giới thiệu với các vị một Coócnây tương lai. Sau đó, nhờ tướng Foay, một đại biểu Quốc hội thuộc phái tự do chàng được vào làm thư ký phụ động ngạch rất thấp cho một văn phòng của Đại Quận công Oóclêlăng (sau này là vua Louis Philippe). Không sao, miễn điều đó có nghĩa là được ở Paris. Từ đó hàng ngày, từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều chàng biên chép. Những báo cáo. Rồi lại vẫn nhùng báo cáo, sau đó chàng trở về căn nhà nhỏ của mình ở khu phố người Italia, đối diện với nhà hát Hài kịch. Không lấy gì làm vui lắm. May sao cùng tầng gác lại có một cô gái xinh đẹp tóc vàng hung, không giữ gìn lắm. Người ta lân la làm quen hàng xóm láng giềng. Dumas vốn có óc hài hước làm cho cô Catơrin Lơbay cười thích thú. Thế rồi ngày 27 tháng 7 năm 1824, một kẻ quyến rũ đàn bà thứ ba ra đời làm ầm ĩ khu phố người Italia. Người ta gọi nó là Alexandre. Người ta có nhẽ đã bắt quả tang khát vọng làm cha của chàng nếu cho chàng biết cái thằng bé Alexandre đó một ngày kia cũng nổi tiếng như chàng với tác phẩm Trà hoa
  10. nữ. Dumas có người bạn làm việc cùng phòng tên là Látxanhơ luôn miệng nhắc: - Nước Pháp đang mong chờ một cuốn tiểu thuyết lịch sử. Và nhờ có Látxanhơ, Dumas bắt đầu đọc, đúng hơn là ngốn ngấu rất nhiều tác giả. Đọc thì đọc rồi. Nhưng còn viết? Cộng tác với Ađonphơ và Rútxô, một ông già say. Alexandre viết một vở hài kịch dân phổ thông. Cuộc đi săn và tình yêu. Vở kịch được diễn, chỉ còn hai câu là đáng nhớ: Bởi muốn hạ bệ một chú thỏ rừng. Ta phải là thỏ nhà ưu tú. Tuy vậy, nó cũng đem lại cho Dumas ba trăm Frăng. Và chàng mang ngay đến một nhà in để bằng tiền túi của mình xuất bản một tập truyện. Tập truyện chỉ bán được đúng bốn bản in. Lúc đó là vào buổi bình minh của chủ nghĩa lãng mạn. Dumas thề: "Chiến thắng hoặc rã họng ra". Rõ ràng chàng vừa đọc một mẩu chuyện khá bi thảm về hoàng hậu Crítxtin của Thụy Điển trong tạp chí Tiểu sử phổ thông. Một chuyện khá rắc rối éo le giữa một hoàng hậu và một cận thần, sự phản bội, sự trả thù và sự hèn hạ. Thế là trong đầu Dumas sôi lên một vở kịch. Một kịch thơ? Ồ không, không có chuyện kịch thơ cổ điển được Dumas muốn những vần thơ "run rẩy, đánh mạnh vào lòng người, khủng khiếp" cơ. Một cái gì đó thoát ra khỏi sự tù túng của luật tam duy nhất vẫn còn được tôn thờ. Ô mặc xác mấy cái luật khô cứng đó. Vở bi kịch Hoàng hậu Crítxtin đã được ra đời như thế trong một căn phòng nhỏ thuê một trăm Francs một năm, với ngòi bút của viên thư ký quèn của công tước Oóclêăng. Dumas không quen ai ngoài Sácnôđiê. Nhờ Sác giới thiệu, một buổi sáng chàng được Nam tước Taylo, cố vấn của nhà Vua phụ trách hí trường nước Pháp tiếp Taylo nằm nghe Dumas đọc Hoàng hậu Crítxtin. Tác giả vừa đọc xong Taylo đã nhảy choàng
  11. xuống đất bảo chàng: - Anh đến ngay nhà hát Pháp đi. - Lạy Chúa, để làm gì ạ? - Để đọc qua một lượt, càng nhanh càng tốt. - Có đúng là tôi sẽ đọc cho hội đồng nghe không? - Không được chậm hơn thứ bảy tới. Thứ bảy tới, vở kịch được hoan hô nhiệt liệt. Dumas ra khỏi nhà hát sung sướng phát điên. Chàng mới hai sáu tuổi. "Tôi trở về ngoại ô Thánh Denis, không trông thấy xe, đâm cả vào ngựa, nhảy qua khe suối, vì ước lượng sai hụt chân rơi xuống giữa dòng, về đến nơi mới biết đánh rơi mất bản thảo, nhưng không hề gì. Tôi đã thuộc lòng. Vở Hoàng hậu Crítxtin, bị chậm công diễn do kiểm duyệt không phải là tác phẩm đầu tiên của Dumas được trình điễn. Trong khi chờ đợi, chàng đã viết Henri III và triều đình, vở kịch được diễn đi diễn lại. Đã đến lúc phải lựa chọn giữa nghề thư ký và nhà hát, chàng quyết định giã từ văn phòng của Đại Quận công. Nhưng lần công diễn đầu tiên chàng đã mời "chủ mình", tức vua Louis Philippe tương lai đến dự. Lần công diễn ấy đã đạt tới trên mức thành công một cuộc khải hoàn. Nó không những chỉ tạo nên những tiếng hoan hô mà còn là một sự mê cuồng. Vở kịch kết thúc, khi nghệ sĩ Fiếcmanh lại ra sân khấu giới thiệu tên tác giả, sự phấn khích đã trở thành của toàn thể khán giả, đến nỗi Công tước Oóclêăng "đứng ngây ra" nghe tên người làm thư ký cho mình trong vòng ba tiếng đồng hồ đã trở thành một trong những con người danh tiếng nhất thời đại. Nói đó là một cuộc khải hoàn là nói đến cuộc khải hoàn của văn học lãng mạn nói chung. "Henri III và triều đình" còn ra đời trước "Hécnani" của Hugo, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa cổ điển, Dumas đã mở đường cho Hugo và Vinhy. Cuộc cách mạng 1830 nổ ra đúng lúc và trở thành
  12. cuộc cách mạng của chính bản thân Alexandre Dumas. Mang sẵn dòng máu cộng hòa của người cha, A. Dumas gắn bó cả tâm hồn và thể xác với cách mạng. Ông tự mình cầm súng ra chia lửa với quân khởi nghĩa, tổ chức vệ quốc quân chống Bảo hoàng. Ông viết trong hồi ký: "Đó là những người của nhân dân mà người ta đã gạt bỏ sau khi sự nghiệp đã thành công. Sau khi canh gác ở cửa kho bạc, sắp chết đói đến nơi, họ đứng ở ngoài đường kiễng chân đất ngó vào đám thực khách ăn bám của chính quyền trèo trên lưng họ để leo lên, đang chia nhau chức vụ địa vị và danh vọng". Thái độ chính trị ấy của A. Dumas luôn được bộc lộc trong các tác phẩm của ông, tất nhiên cả ở Ba người lính ngự lâm . Ba người lính ngự lâm là tập đầu trong tiểu thuyết bộ ba hơn bốn nghìn trang viết, tiếp theo là hai tập Hai mươi năm sau và Tử tước Bragiơlon (còn gọi là Mười năm sau nữa) miêu tả xã hội Pháp trong vòng năm mươi năm qua hai triều đại Louis XIII và Louis XIV, với hai Giáo chủ kiêm Thủ tướng Richelieu và Mazaranh và Conbe, Tổng thanh tra tài chính và hoàng hậu Annơ Ôtrítsơ sau làm nhiếp chính dưới thời Louis XIV. Mặc dầu giá trị lớn lao của tác phẩm nhưng vì là tiểu thuyết đăng tải, cho nên không tránh khỏi những chỗ lầm lẫn trước sau, tính cách có phần đơn giản sơ lược và lối văn đã gần hai thế kỷ có phần dài dòng bao biện. Sáu trăm tác phẩm, một tác giả khổng lồ, một sức viết khổng lồ, một con người khổng lồ của thời đại. Sở thích lớn nhất của ông là làm việc. Ông viết liền ba tháng không nghỉ. Viết xong, ông dừng lại, đi du lịch. Nhưng từ Italia hoặc từ Tây Ban Nha trở về, ông luôn mang theo mấy cuốn mới viết xong. Khi viết, ông đem hết tâm hồn, tình cảm vào trong trang viết. Trong Tử tước Bragiơlon, ông để cho Porthos chết rồi ôm mặt khóc nức nở. Đêm nghe cha khóc, Dumas con tưởng có chuyện gì sang hỏi bố. Ông trả lời: "Porthos chết rồi và chết thê thảm quá!"
  13. Nhưng con người khổng lồ ấy chẳng những có trái tim nhạy cảm mà còn là một người hết sức khiêm tốn. Ông thích phi ngựa đến quỵ ngựa và yêu đàn bà. Dumas đã từng cưới một nữ diễn viên hài kịch trẻ hơn mình rất nhiều, nàng Ida Feriê, Satôbriăng là người làm chứng cho cuộc hôn nhân này. Ông từ Praha về, nơi ông đã từng cầu chúc cho chế độ quân chủ bị trục xuất. Dumas yêu cầu ông cầu chúc cho vợ mình. Satôbriăng nhận lời, tuy không tránh khỏi liếc nhìn cái nịt ngực của người đàn bà này, và lẩm bẩm: - Nhất định tôi cầu chúc cho mọi cái đang rơi. Bị công khai lừa dối, nhất là bởi bạn mình, Roger de Beauvoa, Dumas "bỏ vợ", trái hẳn với những nhân vật của mình, ông làm việc này không ầm ĩ, thân mật và tốt bụng vô bờ. Khi về già, ông có được một hạnh phúc không ngờ: Đứa con trai mà nàng Trà Hoa nữ đã đem đến cho ông. Alexandre đệ nhất đã đầu hàng trước bước đi ban đầu của Alexandre đệ nhị. Ông đến dự lễ tặng hoa và ngồi ở hàng đầu, chính giữa, tràn trề hạnh phúc trước cả khi người ta gõ lên ba tiếng. Ông bao giờ cũng mang một bó hoa khổng lồ. Đi dọc theo chiều dài của căn phòng, ông hoan hô, ông cười vang vui vẻ nhìn xung quanh mình. Khi người ta vừa nêu tên tác giả, ông liền đứng lên, lòng đầy kiêu hãnh chào mọi người như muốn nói: "Các vị thấy không, chính con trai tôi đã làm nên chuyện đó!". Còn Dumas con thì nói:- Cha tôi đó là đứa trẻ vĩ đại mà tôi đã có khi tôi còn rất bé. Thật xứng đáng khi Dumas bố nói: Tác phẩm lớn nhất của tôi là Dumas con! Tuy nhiên Dumas cha làm việc yếu dần. Cuộc chiến năm 1870 đã giáng một đòn dữ dội lên ông. Cuối tháng tám năm ấy, Dumas con thấy ông trở về Diep, kiệt sức. Ông nói: - Ta về để chết ở chỗ con đây. Alexandre đệ nhị kêu khóc. Nhưng mọi sinh lực hình
  14. như đã rời bỏ Alexandre đệ nhất. Người ta đặt ông lên một chiếc ghế bành trông ra biển. Một người đã từng ham thích làm việc như ông, rốt cuộc đã khám phá ra niềm vui là chẳng làm gì cả. Sáu trăm tác phẩm xuất bản, ông đã kiếm được cơ man nào là tiền, nhưng lúc này ông chỉ còn hai đồng Louis vàng. Ông nói với con trai: - Người ra cứ bảo cha rất hoang phí. Nhưng đâu phải thế. Cha đến Paris với hai đồng Louis trong túi. Con hãy xem trong áo gilê của ta, con sẽ thấy vẫn còn nguyên hai đồng Louis đấy chứ! Sáng ngày 4 tháng 12 năm 1870 con trai ông thấy ông đăm chiêu hơn thường lệ liền hỏi ông. Ông hỏi lại một câu xé lòng. - Con có tin có cái gì còn lại của cha không? - Có chứ, là cha đấy, con xin thề như vậy. Hôm sau sáu giờ tối, A. Dumas qua đời. Victo Hugo viết: "Ở thế kỷ này không ai được dân chúng mến yêu hơn A. Dumas. Cái ông gieo mầm, đó là tư tưởng Pháp. A. Dumas quyến rũ, mê hoặc, làm lợi, làm vui và dạy dỗ mọi người. Từ tất cả những tác phẩm của ông, rất phong phú, rất đa dạng, rất sinh động, rất duyên dáng, rất mạnh mẽ, toát ra một thứ ánh sáng riêng của nước Pháp!". Trở thành bạn của độc giả, đó là mong ước của nhà văn vĩ đại. Và ông đã làm được điều đó. Chú thích: (1) Ba nhà chính trị lớn thời Louis XIII Louis XIV. (2) Kịch tác giả cổ điển Pháp thế kỷ 17
  15. Chương 1
  16. Ba tặng vật của ông D' Artagnan bố Ngày thứ hai đầu tiên của tháng tư năm 1625, thị xã Măng (1) nơi sinh tác giả của cuốn Tiểu thuyết Hoa hồng dường như trong một cơn cách mạng như thể người theo giáo phái Canvanh(2) lần thứ hai lại tới vây hãm Pháo thành La Rochelle(3). Nhiều thị dân thấy đàn bà ở phố lớn chạy trốn, trẻ con kêu khóc nơi ngưỡng cửa, liền vội vã khoác chiến bào, và bằng một khẩu hỏa mai hoặc ngọn giáo để củng cố lòng dũng cảm, hướng về phía lữ quán Chủ cối xay. Trước lữ quán, một nhóm người chen chúc, mỗi lúc một đông thêm, nhốn nháo, ồn ào và đầy vẻ tò mò. Thời buổi ấy, những cơn hoảng loạn luôn xảy ra, không mấy khi lại không có thành phố này, thị trấn nọ ghi ký vào sổ lưu trữ của mình một sự kiện nào đó thuộc loại ấy. Các lãnh chúa chinh phạt lẫn nhau. Quốc vương khai chiến với Giáo chủ. Tây Ban Nha khai chiến với Quốc vương. Rồi thì, ngoài những cuộc chiến thầm lặng hoặc công khai, bí mật hoặc đường hoàng, lại còn bọn trộm cắp, lũ ăn mày, bọn giáo phái Canvanh, lũ sói, bọn lính hầu khai chiến với tất cả mọi người. Thị dân luôn vũ trang chống bọn trộm cướp, chống lại lũ sói, chống lũ lính hầu, cũng thường chống lại các lãnh chúa và bọn giáo phái Canvanh, đôi khi chống cả nhà Vua, nhưng không bao giờ chống lại Giáo chủ và nước Tây Ban Nha. Do đã quen như vậy nên ngày thứ hai tháng tư năm 1625 nói trên, nghe thấy tiếng náo động nhưng không thấy màu cờ vàng và đỏ(4) eũng chẳng thấy bóng dáng đồng phục gia binh của Quận công Richelieu, đám thị dân liền đâm bổ về phía lữ quán Chu cối xay. Đến đó rồi, ai cũng thấy và nhận ra nguyên nhân sự náo động. Một chàng trai trẻ, hãy phác chân dung chàng bằng một nét bút thôi: Các bạn hãy hình dung một Đông Kihôtê(5) mười tám tuổi, Đông Kihôtê bị lột vỏ, không áo
  17. giáp, không xà cạp, chỉ mặc áo chẽn ngắn bằng len màu xanh lơ đã biến thành một màu nâu, tả giữa cặn rượu vang và da trời. Mặt dài sạm nâu, gò má cao, dấu hiệu của sự giảo hoạt, quai hàm bành rộng, nhân dạng không lẫn được của người Gátxcong ngay cả khi không có mũ nồi, mà chàng trai trẻ của ta lại đội mũ nồi gắn lông chim, mắt mở to và thông minh, mũi khoằm, nhưng thanh tú, có vóc người quá to đối với chàng trai sắp thành niên, mà một con mắt ít từng trải hẳn đã cho đó là con trai một chủ trại đi du hành, nếu không có thanh gươm dài treo lơ lửng trên dải đeo bằng da, đập vào bắp chân người chủ khi đi bộ và đập vào lớp lông dựng đứng của con vật cưỡi. Do chàng trai trẻ có một con ngựa và con vật đó rất chi đặc biệt khiến người ta phải chú ý: đó là một con nghèo nhỏ vàng Bearn khoảng mười hai hoặc mười bốn tuổi, màu vàng áo, không bờm đuôi, nhưng không phải không có chai ở các vó và khi đi, đầu thõng xuống quá dưới gối, khiến cho việc thắng cương đai trở nên vô ích mà vẫn đi nổi tám dặm một ngày. Không may thay, những phẩm chất của con nghẽo lại bị che giấu hết dưới bộ lông kỳ dị và dáng đi khiếm nhã của nó, khiến cho trong cái thời mà mọi người đều sành ngựa, thì việc một con nghẽo nhỏ con của xứ Măng nói trên, mười lăm phút trước đây, qua cửa ô Bôgiăngxi, lọt vào xuất hiện ở đây đã tạo nên một cảm giác thiếu thiện cảm lan sang cả tới chủ nhân của nó. Và cái cảm giác ấy lại còn nặng nề hơn đối với chàng D' artagnan trẻ tuổi (được mệnh danh là chàng Đông Kihôtê của con ngựa Rốtxirăngtê khác là vì như thế đến nỗi chàng chẳng hề giấu mình cái khía cạnh lố lăng đem đến cho chúng, dù chàng có là một kỵ sĩ cừ khôi đến mấy với con nghẽo như thế, cũng như chàng đã thườn thượt thở dài khi nhận món quà mà ông D' artagnan bố đã ban tặng. Chàng không phải không biết một con vật như thế ít ra cũng đáng giá hai mươi đồng vàng, còn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2