BÀI DỰ THI<br />
TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT<br />
VIỆT NAM LÀO, LÀO VIỆT NAM NĂM 2017<br />
Người tham gia: <br />
Họ và tên: Võ Văn Giáp Đơn vị: Chi đoàn Công an, Đoàn <br />
Ngày sinh: 19/8/1994 phường Phước Long, Nha Trang, <br />
Giới tính: Nam Khánh Hoà<br />
Nghề nghiệp: Công an Nơi thường trú: <br />
Dân tộc: Kinh Số điện thoại: 0905.396.069<br />
Tôn giáo: không<br />
NỘI DUNG BÀI DỰ THI<br />
Trong khuôn khổ hạn hẹp bài viết, tôi xin chia sẻ cảm nhận có phần sâu <br />
sắc của mình về vấn đề nguyên nhân các thế lực thù địch xuyên tạc.<br />
Trước hết, xin giới thiệu một chút về nước Lào anh em. Lào có diện tích <br />
236.800 km2, dân số ước lượng năm 2015 là 6.803.699 người, mật độ 29,6 <br />
người/km2. Lào (tiếng Lào: ລາວ, phát âm tiếng Lào: [láːw], Lāo), tên chính thức <br />
là nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, (tiếng Lào: ສາທາລະນະລັດ<br />
ປະຊາທິປະໄຕ ປະຊາຊົນລາວ, Sathalanalat Paxathipatai Paxaxon Lao) là <br />
một quốc gia nội lục tại Đông Nam Á, phía tây bắc giáp với Myanma và Trung <br />
Quốc, phía đông giáp Việt Nam, phía tây nam giáp Campuchia, phía tây và tây <br />
nam giáp Thái Lan. <br />
Quốc gia Lào hiện tại có nguồn gốc lịch sử và văn hoá từ Vương quốc Lạn <br />
Xạng tồn tại trong bốn thế kỷ, là một vương quốc có diện tích lớn tại Đông <br />
Nam Á. Sau một giai đoạn xung đột nội bộ, Lạn Xạng phân chia thành ba <br />
vương quốc riêng biệt: Luông Phabang, Viênchăn và Chămpasắc. Năm 1893, <br />
ba vương quốc hợp thành một lãnh thổ bảo hộ thuộc Pháp, tiền thân của quốc <br />
gia Lào hiện nay.<br />
Lào là nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa đơn nguyên, theo chủ nghĩa Mác và <br />
do Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cầm quyền. Thủ đô của Lào là Viêngchăn, <br />
các thành thị lớn khác là Luông Phabang, Xavannakhẹt. Lào là một quốc gia <br />
đa dân tộc, người Lào chiếm khoảng 60% dân số, họ chủ yếu cư trú tại vùng <br />
thấp và chiếm ưu thế về chính trị và văn hoá. Các nhóm dân tộc MônKhmer, <br />
Mông, và dân tộc bản địa vùng cao khác chiếm khoảng 40% dân số và sống tại <br />
khu vực đồi núi.<br />
Chiến lược phát triển của Lào dựa trên sản xuất thuỷ điện và bán điện <br />
năng sang các quốc gia láng giềng, cũng như trở thành một quốc gia liên kết giao <br />
thương lục địa. Ngoài ra, lĩnh vực khai mỏ của Lào cũng phát triển, khiến quốc <br />
gia này được đánh giá là nằm trong các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất <br />
Đông Á và Thái Bình Dương. Lào là một thành viên của Hiệp hội các quốc gia <br />
Đông Nam Á (ASEAN), Hội nghị cấp cao Đông Á và Cộng đồng Pháp ngữ. Lào <br />
được nhận làm thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) <br />
vào năm 2013.<br />
Quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào có nhiều cơ sở khách quan, tất yếu.<br />
Về các điều kiện tự nhiên, Việt Nam và Lào nằm ở trung tâm bán đảo Ấn<br />
Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Trong phạm vi của bán đảo Đông <br />
Dương, Việt Nam nằm ở phía đông dãy Trường Sơn, như một bao lơn nhìn ra <br />
biển; Lào nằm ở sườn tây dãy Trường Sơn, lọt sâu vào vùng đất liền của bán <br />
đảo. Như vậy, dãy Trường Sơn có thể ví như cột sống của hai nước, tạo thành <br />
biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào. Với địa hình tự nhiên này, <br />
về đường bộ cả Việt Nam và Lào đều theo trục BắcNam. Còn về đường biển, <br />
con đường gần nhất để Lào có thể thông thương ra biển đó là từ Sầm Nưa <br />
thuộc tỉnh Hủa Phăn (Lào) qua Thanh Hoá; Xiêng khoảng (Lào) qua Nghệ An; <br />
Khăm Muộn (Lào) qua Hà Tĩnh; Xavannakhẹt (Lào) qua Quảng Trị và Khăm <br />
Muộn (Lào) qua Quảng Bình. Do điều kiện tự nhiên nên sự phát triển kinh tế <br />
xã hội của Việt Nam và Lào có nhiều điểm tương đồng, lại vừa có những nét <br />
khác biệt. Dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào được ví <br />
như bức tường thành hiểm yếu, để hai nước tựa lưng vào nhau, phối hợp giúp <br />
đỡ lẫn nhau tạo ra thế chiến lược khống chế những địa bàn then chốt về kinh tế <br />
và quốc phòng, trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam và Lào trong sự <br />
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.<br />
Về các nhân tố dân cư, xã hội, Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa <br />
dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia <br />
của hai nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người <br />
ở khu vực Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này, <br />
đến nay vẫn tiếp tục chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên <br />
giới quốc gia Việt Nam – Lào. Chính quá trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài <br />
của những cư dân Việt Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới của hai nước <br />
đã dẫn đến việc cùng khai thác và chia sẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn <br />
lợi sinh thuỷ. Điều này, thêm một lần nữa khẳng định các quan hệ cội nguồn và <br />
quan hệ tiếp xúc chính là những điều kiện lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo ra <br />
những mối dây liên hệ và sự giao thoa văn hoá nhiều tầng nấc giữa cư dân hai <br />
nước.<br />
Về nhân tố văn hoá và lịch sử, do quan hệ gần gũi và lâu đời nên người <br />
Việt và người Lào đặc biệt là người dân ở vùng biên giới am hiểu về nhau khá <br />
tường tận. Trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi đã mô tả khá ấn tượng về <br />
nền văn hoá độc đáo và phong tục thuần phác của dân tộc Lào, cũng như hiện <br />
tượng giao thoa văn hoá nở rộ giữa Đại Việt với các nước láng giềng Đông <br />
Nam Á, trong đó có Lào Lạn Xạng. Sự giao thương của người dân Lào với <br />
người dân Việt nhất là với người dân các tỉnh biên giới của Việt Nam cũng khá <br />
nhộn nhịp. Điều đáng chú ý là trong quan hệ giao thương với Đại Việt, Lào Lạn <br />
Xạng đã không ít lần bộc lộ mối quan tâm của mình muốn hướng ra biển, trong <br />
khi Đại Việt lại tìm cơ hội để mở rộng buôn bán vào sâu lục địa. Mặc dầu Việt <br />
Nam và Lào có tiếng nói, văn tự không giống nhau, sáng tạo và lựa chọn các nền <br />
văn hóa cũng như các hình thức tổ chức chính trị xã hội khác nhau, nhưng <br />
những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong muôn mặt đời sống hàng <br />
ngày của cư dân Việt Nam và Lào. Sự tương đồng giữa văn hóa làng – nước của <br />
người Việt và văn hóa bản mường của người Lào xuất phát từ cội nguồn cùng <br />
nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở Đông Nam Á. Đồng thời, lòng nhân ái bao <br />
la và đời sống tâm linh phong phú, trong đó có những ảnh hưởng sâu đậm của <br />
đạo Phật mà trong cách đối nhân xử thế của mình, nhân dân Việt Nam và nhân <br />
dân Lào bao giờ cũng nêu cao những phẩm chất yêu thương và hướng <br />
thiện. Trong tiến trình lịch sử cả hai dân tộc đều phải ngoan cường chống ngoại <br />
xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trải qua những biến cố thăng trầm của <br />
lịch sử, hai nước Đại Việt Lạn Xạng, Lạn Xạng Đại Việt mặc dù không <br />
phải không có những thời khắc gặp nguy nan nhưng với tinh thần lấy hoà hiếu <br />
làm trọng nên đã sáng suốt và công bằng, có ý thức đề cao không thù hận, quan <br />
hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng, <br />
đồng thời biết chủ động vun đắp tình thân ái và hữu nghị lâu dài giữa hai dân <br />
tộc.<br />
Về kinh tế, hai nước có thể bổ sung cho nhau thế lợi về biển cả của Việt <br />
Nam, đường bộ của Lào đi sâu vào lục địa châu Á, cùng các nguồn tài nguyên <br />
phong phú do mỗi nước quản lý.<br />
Ngoài những điều kiện trên, hai nước Việt Nam, Lào có một ưu thế nổi <br />
trội vô cùng quý giá là quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam mà hai <br />
Đảng, hai dân tộc cần luôn luôn vun đắp, bảo vệ và phát huy trong mọi hoạt <br />
động chính trị, tư tưởng, kinh tế, quốc phòng an ninh, ngoại giao, văn hoá, giáo <br />
dục đào tạo nhân lực, nhân tài.<br />
Tình đoàn kết, hữu nghị là giá trị tốt đẹp, bền vững được hun đúc từ lịch sử <br />
hàng nghìn năm của hai nước Việt Nam Campuchia, từ mối quan hệ đặc biệt <br />
đã có từ lâu trong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng chống kẻ <br />
thù chung. Vậy nhưng thời gian gần đây đã xuất hiện những âm mưu, thủ đoạn <br />
kích động, phá hoại mối quan hệ tốt đẹp, trong sáng ấy.<br />
Những âm mưu nguy hiêm<br />
̉<br />
Một dân ch<br />
̃ ứng điên hình c<br />
̉ ủa âm mưu phá hoại trên phải kê đên tr<br />
̉ ́ ường hợp <br />
ông Xam Rênxi, lãnh đạo cái gọi là đảng Cứu nguy Dân tộc Campuchia <br />
(CNRP), hiện lưu vong ở Pháp cùng hai trợ lý. Ngày 27 tháng 12 năm 2016 vừa <br />
qua, họ vừa bị tòa án Phnôm Pênh tuyên 5 năm tù do dùng mạng xã hội đăng tải <br />
nội dung xuyên tạc quan hệ hai nước. Họ từng đưa ra thông tin xuyên tạc hêt́ <br />
̉ ằng hai nước đã “nhất trí xóa bỏ biên giới chung” khi diễn <br />
sức nguy hiêm r<br />
giải hiệp ước mà hai nước ký vào năm 1979.<br />
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Hun Sen cùng mở tấm vải phủ <br />
cột mốc số 275. Ảnh: Nhật Bắc, VPC.<br />
Trước đó, ngày 23 tháng 12 năm 2016, Tòa phúc thẩm Campuchia đã tuyên <br />
giữ nguyên bản án sơ thẩm phạt nghị sĩ Um Sam An thuộc đảng CNRP 2,5 năm <br />
tù giam vì kích động gây rối an ninh xã hội nghiêm trọng và kích động gây chia <br />
rẽ, theo Điều 495 và 496 Bộ luật Hình sự Campuchia. Đâu năm 2016, ông này<br />
̀ <br />
đã có nhiêu bài vi<br />
̀ ết và bình luận xuyên tạc, vu cáo Chính phủ sử dụng bản đồ <br />
giả về biên giới với Việt Nam. Quôc h<br />
́ ội Campuchia đã kiêm tra, đôi chiêu b<br />
̉ ́ ́ ản <br />
̀ ưu tại Liên hợp quôc cho thây, thông tin trên hoàn toàn là b<br />
đô l ́ ́ ịa đặt.<br />
Một bài viêt trên Báo The Phnom Penh Post cho biêt, t<br />
́ ́ ư tưởng bài Việt, kích <br />
động, lôi kéo các cử tri trẻ tuổi, thiếu kiến thức và thông tin về quan hệ hai <br />
nước, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi, chống phá quan hệ hữu <br />
nghị Việt Nam Campuchia do một số thế lực chính trị đối lập kích động có <br />
thể gây bất ổn xã hội tại đất nước Chùa tháp. Nhât là trong th<br />
́ ời điêm diên ra các<br />
̉ ̃ <br />
cuộc bâu c<br />
̀ ử ở Campuchia, việc sử dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi <br />
làm “mồi nhử” lôi kéo phiếu bầu có thể mang lại những hiệu quả nhất thời, <br />
nhưng về lâu dài có thê s<br />
̉ ẽ là mồi lửa châm ngòi xung đột, gây chia rẽ dân tộc, <br />
chia rẽ quan hệ hữu nghị. Trong những âm mưu phá hoại đó, dư luận nhân dân <br />
hai nước hẳn chưa quên sự kiện diên ra cách đây ít lâu, có l<br />
̃ ực lượng đối lập ở <br />
Campuchia đã đên các đ<br />
́ ịa bàn giáp biên để tuyên truyền, lôi kéo người dân ủng <br />
hộ bầu cử hội đồng xã, phường vào năm 2017 và bầu cử Quốc hội Campuchia <br />
năm 2018. Các tổ chức phản động lưu vong cũng tăng cường về các vùng giáp <br />
biên giới Việt Nam lôi kéo nhân dân hai nước thực hiện mưu đô c<br />
̀ ủa chúng. <br />
Ngược về thời gian trước không lâu, tại Campuchia từng diễn ra một số cuộc <br />
biểu tình tự phát, xuyên tạc và ngang ngược đòi “cắt quan hệ với Việt Nam”. <br />
Chúng đã bị dư luận ở chính Campuchia và quôc tê lên án. Tr<br />
́ ́ ước và sau chuyên<br />
́ <br />
thăm Việt Nam của Thủ tướng Campuchia Hun Xen m ới đây, những luận điệu <br />
xuyên tạc đó lại “rộ lên”.<br />
Họ cũng không ngân ng<br />
̀ ại xuyên tạc, phỉ báng cả xương máu của những <br />
người Việt Nam đã hy sinh vì tình cảm quôc tê trong sáng, giúp Campuchia<br />
́ ́ <br />
thoát khỏi thảm họa diệt chủng.<br />
Những luận điệu đó không mới, nhưng chúng không dừng ở phá hoại quan <br />
hệ hai nước mà còn ân ch<br />
̉ ứa nhiêu âm m<br />
̀ ưu phá hoại đen tôi khác. Năm 2013, t<br />
́ ại <br />
cuộc bầu cử Quốc hội lần thứ 5, đảng Nhân dân Campuchia (CPP) giành được <br />
chiến thắng với 68 ghế, ông Xam Rênxi đã có những phát ngôn lạc lõng, vô căn <br />
cứ, gây tổn hại quan hệ hữu nghị hai nước khi trả lời phỏng vấn đài BBC, vu <br />
cáo: “Hà Nội từng lấn chiếm đất đai Campuchia và… chiếm các đảo của <br />
Trung Quốc(!)”.<br />
Bộ Nội vụ Campuchia đã từng lên tiếng tuyên bố những hành vi đó là <br />
không chấp nhận được và đi ngược đạo lý. Trong một phát ngôn chính thức với <br />
các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước, người phát ngôn Chính phủ <br />
Hoàng gia Campuchia đã nêu rõ, đất nước Việt Nam anh em không phải là <br />
nhân tố đe dọa an ninh của Campuchia: “Chính phủ và nhân dân Campuchia <br />
luôn chủ trương bảo vệ và phát triển mối quan hệ với Việt Nam, thành quả to <br />
lớn của quá trình lâu dài cùng sát cánh chiến đấu bên nhau qua nhiều giai đoạn <br />
lịch sử, kiên quyết không để bất kỳ thế lực nào phá hoại mối quan hệ đoàn kết <br />
đặc biệt này”.<br />
Nhìn lại những trang sử rực lửa và cũng thâm đâm máu, n<br />
́ ̃ ước mắt của nhân <br />
dân hai nước, chúng ta có thê thây rõ không ph<br />
̉ ́ ải ngâu nhiên mà Chính ph<br />
̃ ủ <br />
Hoàng gia Campuchia đưa ra quan điêm trên. Theo PGS, TS Vũ Quang Hiên,<br />
̉ ̉ <br />
giảng viên Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại <br />
học Quốc gia Hà Nội, với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, nhân dân ba <br />
nước Việt Nam Lào Campuchia đã kề vai, sát cánh, cùng chiến đấu chống <br />
chủ nghĩa thực dân xâm lược, để lại những kinh nghiệm quý cho hôm nay và <br />
mai sau. Trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” (tháng 12 năm 1946), Chủ tịch Hồ <br />
Chí Minh khẳng định: “Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc <br />
lập của hai nước đó và bày tỏ mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt <br />
đối giữa các nước có chủ quyền”. Trong cuộc kháng chiên chông M<br />
́ ́ ỹ, cứu nước, <br />
đế quốc Mỹ nhiều lần kêu gọi Lào và Campuchia gia nhập cái gọi là “Khối <br />
phòng thủ Đông Nam Á” và “Khối phòng ngự sông Cửu Long” nhằm cô lập <br />
và xâm lược Việt Nam, chia rẽ khối đoàn kết ba dân tộc.<br />
̀ ̀ ́ ́ ́ ẹp quan hệ hai nước phải kê đên s<br />
Sau nhiêu thăng trâm, dâu môc tôt đ ̉ ́ ự <br />
kiện ngày 8 tháng 6 năm 1967, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt <br />
Nam tuyên bố công nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia theo <br />
đường biên giới hiện tại. Đáp lại, ngày 15 tháng 6 năm 1967, Chính phủ Cam<br />
puchia công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đại <br />
diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam. Quân và dân ba nước Việt <br />
Nam Lào Campuchia đã đoàn kết chặt chẽ và anh dũng chiến đấu, giành <br />
được nhiều thắng lợi to lớn. Trong năm 1970, liên quân Việt Nam Campuchia <br />
đẩy mạnh các hoạt động quân sự, làm tan rã hàng vạn quân của chính quyền <br />
Lonon, mở rộng vùng căn cứ cách mạng của Campuchia từ phía bắc tỉnh Rát<br />
tanakiri đến phía nam tỉnh Kampốt, đập tan cuộc tiến công của 10 vạn quân <br />
địch sang Campuchia tháng 4 năm 1970, rồi tiếp tục làm thất bại các cuộc hành <br />
quân “Chenla 1” tháng 6 năm 1970, Toàn thắng, “Chenla 2” năm 1971... Sau Hiệp <br />
định Pari 27 tháng 1 năm 1973, Việt Nam đã tiếp tục giúp đỡ Campuchia đấu <br />
tranh vũ trang. Quândân Campuchia phối hợp với chiến trường miền Nam <br />
Việt Nam mở cuộc tổng công kích, hoàn thành sự nghiệp chống Mỹ, giải phóng <br />
thủ đô Phnôm Pênh ngày 17 tháng 4 năm 1975.<br />
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc <br />
rằng: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, <br />
đoàn kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, <br />
giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật sống còn và phát triển <br />
của cả ba dân tộc anh em”. “Trước sau như một, Việt Nam trung thành với <br />
nghĩa vụ quốc tế của mình đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia”.<br />
Môi quan h<br />
́ ệ hữu nghị tôt đ<br />
́ ẹp giữa hai nước tiêp t<br />
́ ục được phát huy, phát <br />
̉<br />
triên trong giai đoạn hiện nay. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam cuôí <br />
tháng 12 năm 2016 vừa qua, tại buôi g<br />
̉ ặp mặt, nói chuyện với hơn 200 đại biểu <br />
tướng lĩnh, sĩ quan, cựu chiến binh Quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ <br />
quốc tế tại Campuchia qua các thời kỳ, Thủ tướng Hun Xen đã nhấn mạnh <br />
chuyến thăm của ông lần này đến Việt Nam mang theo thông điệp cảm ơn của <br />
nhân dân Campuchia đối với Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam <br />
đã giúp đỡ đánh đổ và ngăn chặn không cho chế độ Pôn Pốt quay trở lại, tạo <br />
tiền đề cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước Campuchia phồn vinh <br />
như ngày nay. Ông khẳng định luôn trân trọng những kỷ niệm tốt đẹp với quân <br />
và dân Việt Nam. Dù tình hình thế giới có diễn biến phức tạp thế nào cũng <br />
không thể tác động đến quan hệ láng giềng anh em tốt đẹp giữa hai nước. Hai <br />
nước cần giáo dục thế hệ trẻ gìn giữ mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp vốn có, tài <br />
sản vô giá đã được vun đắp trong suốt quá trình đoàn kết đấu tranh giành độc <br />
lập dân tộc trước đây và xây dựng phát triển đất nước ngày nay.<br />
Ở Campuchia hiện nay lưu giữ công trình Tượng đài Hữu nghị Việt Nam <br />
Campuchia được xây dựng cuối những năm 1970 để kỷ niệm liên minh Việt <br />
Nam Campuchia, sau khi Quân tình nguyện Việt Nam tiến vào lật đổ chế độ <br />
diệt chủng. Tượng đài tạc hình ảnh hai người lính Việt Nam Campuchia sát <br />
cánh bảo vệ một thiếu phụ và em bé Campuchia. Tổng Bí thư Nguyên Phú<br />
̃ <br />
Trọng đã đến dâng hoa tại tượng đài trong chuyến thăm chính thức Campuchia <br />
vào năm 2011. Năm 2015, Hội đông Dân t<br />
̀ ộc Mặt trận Đoàn kêt phát triên Cam<br />
́ ̉<br />
puchia và Bộ Quôc phòng Vi<br />
́ ệt Nam đã thống nhất thực hiện công tác khảo sát, <br />
kiểm tra, lập dự án sửa chữa, tu bổ, tôn tạo các tượng đài hữu nghị Việt Nam <br />
Campuchia, trong đó có tượng đài trên.<br />
Trân trọng, gìn giữ, phát triên tình h<br />
̉ ữu nghị là nguyện vọng chung của đông <br />
đảo nhân dân hai nước. Nhưng cũng phải thừa nhận một thực tê là nh<br />
́ ững âm <br />
mưu chông phá, chia r<br />
́ ẽ tình đoàn kêt gi<br />
́ ữa hai dân tộc là hêt s<br />
́ ức nguy hiêm; t<br />
̉ ừng <br />
̉ ại những khó khăn, hậu quả trong lịch sử cũng như có nhiêu diên biên ph<br />
đê l ̀ ̃ ́ ức <br />
tạp trong một sô v<br />
́ ụ việc kích động, phá hoại, ân ch<br />
̉ ứa những mưu đô đen tôi<br />
̀ ́ <br />
từng bị Nhà nước Campuchia lên án và xử lý thời gian qua. Đê đây lùi nh<br />
̉ ̉ ững <br />
âm mưu ây, cùng v<br />
́ ới việc tiêp t<br />
́ ục phát huy truyên thông đoàn kêt, h<br />
̀ ́ ́ ữu nghị quý <br />
báu, phải luôn giữ được nhât quán trong đ<br />
́ ường lôi đôi ngo<br />
́ ́ ại, hợp tác, cảnh giác, <br />
tỉnh táo trước mọi thủ đoạn chia rẽ, tăng cường hơn nữa sự hiêu biêt, tin c<br />
̉ ́ ậy <br />
giữa chính quyên và nhân dân hai n<br />
̀ ước. Đặc biệt, phải làm tôt h<br />
́ ơn nữa việc <br />
tuyên truyên, giáo d<br />
̀ ục, giúp thê h<br />
́ ệ trẻ hiêu sâu s<br />
̉ ắc thực tiên l<br />
̃ ịch sử và thực chât́ <br />
quan hệ hai nước đê không ng<br />
̉ ừng chung tay vun đắp tình hữu nghị, không để <br />
những “lô hông” hiêu biêt cho k<br />
̃ ̉ ̉ ́ ẻ xâu kích đ<br />
́ ộng, xuyên tạc.<br />
Để chứng minh thêm cho mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào, <br />
Lào – Việt Nam, tôi xin mượn những lời ca về tình cảm Việt – Lào và Chủ tịch <br />
Hồ Chí Minh trong văn học Lào.<br />
Bình sinh, Hồ Chủ Tịch có câu thơ chung đúc:<br />
Việt – Lào hai nước chúng ta<br />
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long<br />
Với vai trò lịch sử của Người trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc <br />
ở ba nước Đông Dương. Người khai sinh ra nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa <br />
Việt Nam đầu tiên ở Đông Nam Á, cũng là người sáng lập ra Đảng Cộng sản <br />
Đông Dương – tiền thân của tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam – Lào – Cam<br />
puchia ngày nay. Chính vì thế, tình hữu nghị Việt – Lào vốn là tự nhiên, khăng <br />
khít, khi có chính Đảng Mác – Lênin lãnh đạo ngày càng được củng cố vững <br />
chắc, phát triển. Nhiều tác phẩm văn học Lào viết về Việt Nam – Hồ Chí Minh <br />
với mọi thủ pháp nghệ thuật truyền thống.<br />
Trong một tác phẩm chính luận, đồng chí Xuvanuvông viết: Chủ tịch Hồ <br />
Chí Minh luôn luôn quan tâm tới cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân Lào, <br />
chăm lo vun đắp mối tình đoàn kết giữa nhân dân hai nước, góp phần làm cho <br />
sự nghiệp cứu nước của nhân dân lào dành được thắng lợi to lớn và vẻ vang <br />
như ngày nay. Cách nói, cách nghĩ chân tình, chí lý đó cũng là nguồn cảm hứng <br />
thường trực đối với đội ngũ sáng tác văn học Lào đương đại.<br />
Việt Nam – Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh – Việt Nam, nếu chỉ nói một danh <br />
từ e không đủ sắc thái trữ tình cho những vần thơ Konlăm – vừa là chất liệu <br />
dân ca vừa là hình thức phổ biến đi suốt chiều dài lịch sử chống Pháp và chống <br />
Mỹ với các văn nghệ sĩ Lào. Vilaykẹomani sử dụng cái tôi trữ tình để gửi <br />
gắm tâm tình, suy tưởng có dung lượng lớn:<br />
Việt Nam mến yêu ơi<br />
Nhắc tên anh lòng tôi ngàn vạn nhớ<br />
Thuở ban đầu chung sức đánh giặc Tây<br />
Anh ở bên kia, tôi ở bên này<br />
Chung một dãy Trường Sơn hùng vĩ<br />
Anh và tôi dựa lưng đánh Mỹ<br />
Và:<br />
Anh đi trước, gương sáng dân Lào soi<br />
Đẹp tuyệt vời người đồng chí của tôi.<br />
(Hai anh em sinh đôi – Văn nghệ, ngày 8/10/1966).<br />
Hình ảnh giang sơn đất Việt, đất Lào có chung biên giới bởi dãy Trường <br />
Sơn hùng vĩ – nhà thơ ví như Hai anh em sinh đôi, gợi cho người đọc thấm thía <br />
hơn sức mạnh của trái tim, sức mạnh của khối óc con người. Tiểu kết của khổ <br />
bốn của bài thơ, nhạc điệu từ ngữ như bừng sáng, lan xa, lan xa rồi đọng <br />
lại… đẹp tuyệt vời – với người đồng chí, từtuyệt vời chưa trở thành khẩu ngữ, <br />
văn phong. Người Lào quen gọi dãy Trường Sơn (theo tiếng Việt) và cũng quen <br />
gọi dãy Phu Luông hùng vĩ trùng điệp (thơ Thoongin). Dưới con mắt Bunchăn, <br />
thi sĩ dùng thủ pháp nhân cách hóa, để hát vang lên miền mến thương tha thiết, <br />
niềm mến yêu, gắn bó một mối tình:<br />
Trường Sơn vĩ đại anh ơi<br />
Anh đứng đó tôi tưởng Việt Nam đứng đó<br />
Cho tôi làm đóa Chămpa đang nở<br />
Dâng tặng anh bằng cả trái tim tôi.<br />
(Chung một chiến hào – Văn nghệ, tháng 10/1968).<br />
Đấy là cái chung, cái ban đầu anh viết. Đề từ cho bài thơ này, anh trân <br />
trọng: Kính tặng nhân dân Việt Nam anh hùng. Chiều sâu cảm xúc còn khiến <br />
anh có được nhiều tứ thơ hay, đậm đà hương sắc của cuộc sống ngoài đời:<br />
Chiếc áo rách vai chúng mình chung mặc<br />
Hạt muối cắn chung, trái ướt bẻ đôi<br />
Nỗi buồn vui vì chung quý giọt mồ hôi<br />
Ở trong tôi không biết tự thuở nào<br />
Thấm máu anh những ngày đi đánh giặc.<br />
Phải trải biết bao gian khổ trên chặng đường hành quân kháng chiến, phải <br />
nắm bắt hiện thực đến tinh, đến nhạy mới có được những câu thơ như thế. <br />
Đúng là ngọt bùi nhớ lúc đắng cay, qua sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm,… Đọc <br />
bài thơ dễ dàng chợt nhớ bài thơ kháng chiến chống Pháp của Chính Hữu – bài <br />
Đồng chí, nhưng chủ đề thể nghiệm của bài thơ là đương nhiên khác nhau. <br />
Ngày đầu kháng chiến (1940 1954), tiếng súng gây tội ác của thực dân Pháp lại <br />
diễn ra liên tiếp ở cả hai nước Việt Lào. Các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam <br />
đã lên đường sang với bạn, sống với dân bản, đi xây dựng cơ sở du kích quân, <br />
lấy lòng dân, ý Đảng mà gột dậy phong trào chiến tranh yêu nước, vì nghĩa vụ <br />
quốc tế cao cả mà cùng quân Lào đánh đuổi lũ ngoại xâm, bước vào cuộc kháng <br />
chiến chống Mỹ, chân lý Cách mạng của chúng ta càng sáng suốt hơn, thủy <br />
chung hơn.<br />
Nhà thơ có thể viết về hôm quahôm nayngày mai, song, mấu chốt thành <br />
công vẫn ở tài năng sử dựng ngôn từ và nội dung cụ thể được phản ánh. Hai yêu <br />
cầu đó dường như ẩn hiện với cảm hứng sáng tạo, nhưng nó có vai trò quyết <br />
định sự chấp nhận của bạn đọc, khẳng định uy tín của tác giả. Giở lại tập Vài <br />
hình ảnh Pathét Lào chiến đấu in ở Việt Nam năm 1955, Xômxiđêxa có bài <br />
Ngày căm thù 21/3 với những câu thơ nóng hổi:<br />
Chúng tiến vào thị xã<br />
Cho tàu bay bắn phá<br />
Thuyền đồng bào tản cư<br />
Bị bắn chìm mất cả<br />
Thanh niên chúng dẫn tới bờ sông<br />
Bắn chết thả xác trôi theo dòng<br />
Máu Lào Việt quyện lấy nhau<br />
Đỏ ngầu làn nước…<br />
Đó là ngày 21 tháng 3 năm 1946, dưới sự che chở của quân đội Anh, bè lũ <br />
Quốc dân Đảng, thực dân Pháp đánh chiếm Thàkhẹc. Hàng ngàn sư sãi, trẻ, già,<br />
… đổ máu trước lưỡi lê, họng súng. Ngày đầu trở lại xâm lược nước Lào do <br />
thực dân Pháp gây ra trở thành ngày căm thù của nhân dân Lào. Ngày căm thù <br />
của nhân dân Lào ghi nhận sự hi sinh vô bờ của chiến sĩ tình nguyện Việt Nam <br />
sát cánh cùng quân dân Lào đánh giặc cứu nước. Hai mươi năm sau, khi tuổi đời <br />
già dặn, khi ngòi bút còn sung sức, anh viết về Thắng lợi bản Đông, chúc mừng <br />
năm mới:<br />
Lào Việt chiến đấu hợp đồng đặc biệt<br />
Và ở chiến trường Khesanh<br />
Chúng tập trung làm nơi bàn đạp<br />
Lùa quân tiến vào Bản Đông<br />
Trực tiếp đến theo đường số 9<br />
Bị Việt Nam chặn gốc, Lào đánh ngọn<br />
Xác địch ngổn ngang đổ xuống ầm ầm.<br />
Thơ Lào rất hay, nhưng trong tay nhà thơ dân tộc Lào rất điêu luyện tiếng <br />
dân tộc, nên bản dịch sang Tiếng Việt chưa được hay lắm. Thơ ca chịu sự rung <br />
động, đi sâu vào tâm hồn tác giả và độc giả mạnh mẽ nhất còn ở chính môi <br />
trường ngôn ngữ xã hội của nó.<br />
Thơ của các bạn Lào viết về Bác cũng vô cùng phong phú. Xômxiđêxa <br />
viết về Việt Nam cứ như nghĩ viết về Bác. Phải chăng, đây đó trong mỗi bước <br />
trưởng thành nghệ thuật sáng tác của anh, Việt NamHồ Chí Minh tuy hai mà là <br />
một. Đọc thơ anh, ta cứ nghĩ nhà thơ đang suy nghĩ lung lắm, suy nghĩ về Bác <br />
biết viết câu thơ như thế nào cho hết ý, hết lời. Hình ảnh cao đẹp của Bác trong <br />
nhịp điệu trái tim, trong máu thịt, tâm linh của anh hay chính nhân dân Lào, trọn <br />
vẹn là người chiến sĩ Cộng sản kiên cường, mẫu mực.<br />
Đạo đức của Người là tấm gương trong<br />
Cần, kiệm, liêm, chính, sắt son một lòng<br />
Trọn cuộc đời 79 nămhy sinh tận tụy<br />
Chẳng chút vì mình, chỉ vì Việt Nam, vì năm châu<br />
…<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh<br />
Công sức của Người hơn cả lúc bình sinh.<br />
Thật sự có tâm lý chung trong nhân dân Lào Việt, hằng mong muốn được <br />
Bác đến thăm, muốn được Bác ân cần chỉ bảo, ôm hôn. Bác đến trong lương tri <br />
mọi người ấm áp, hiền từ, độ lượng, thương yêu như người cha, người ông <br />
muôn vàn kính mến từ ngàn xưa tụ lại. Nhưng rồi, sự thật phũ phàng đưa Bác đi <br />
gặp cụ Các Mác – Lênin, trái đất nghiêng mình trước anh linh Bác. Nhà văn Xu<br />
vănthon bày tỏ lòn tôn kính với Bác rằng:<br />
Mọi tầng lớp nhân dân Lào<br />
Yêu mến Bác như người nhà, chẳng khác<br />
Dù chỉ một lần, cầu mong Bác sang chơi<br />
Mà giờ đây cả nước Lào nhớ BácBác đi xa.<br />
Cảm xúc thơ xuất phát từ tình người. Bác trở thành nguyên mẫu cho các <br />
loại hình nghệ thuật. Tuy nhiên, bằng sự quan sát thực tiễn lịch sử, Xuvănthon <br />
muốn thủ bút thi ca với hình ảnh sinh động của Bác trong tiến trình dựng nước <br />
và giữ nước của dân tộc LàoViệt. Ngay từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, <br />
ở Việt Nam có Phan Đình Phùng, Đốc Ngữ, Đề Thám,… thì ở Lào cũng dấy lên <br />
cao trào chống Pháp trong lòng dân, vua Hàm nghi được nhân dân Lào chở che, <br />
để giúp ông nuôi chí phục thù. Các thủ lĩnh Kômmađam Phôxađuột, Chậu<br />
phapachay,… tập hợp nhân dân Lào đứng lên chống Pháp. Rốt cục, khi chưa có <br />
chính Đảng lãnh đạo, các cuộc khởi nghĩa đó chỉ nhóm lên ngọn lửa truyền <br />
thống yêu nước của dân tộc một thời rồi dịu tắt. Chỉ có Bác Hồ – người Việt <br />
Nam yêu nước đầu tiên đã mang lại chân lý của chủ nghĩa MácLênin cho nhân <br />
dân hai nước LàoViệt, cho niềm tin tất thắng của Cách mạng vô sản ở mỗi <br />
nước. Xuvănthon sử dụng thơ ca nói lên ý đó:<br />
Bác Hồ Chí Minh ơi<br />
Bác là Phitun ngọc quý<br />
Trái đất này chẳng có ai sánh kịp<br />
Đời Bác như ngọn đuốc vĩ đại<br />
Soi đường cho bà con thức tỉnh nơi nơi…<br />
Năm 1969, ngày đau thương vô hạn của toàn thể loài người, Bác Hồ mất <br />
ngày 3/9. Không cam tâm làm nô lệ cho phong kiến, đế quốc, nửa thế kỷ Bác <br />
dắt dìu từng giây, từng phút, nhân dân LàoViệt đoàn kết bên nhau, kề vai sát <br />
cánh sướng khổ vui chung, kiên quyết đánh đuổi Pháp, Mỹ dành độc lập – tự do, <br />
gắng xây dựng giang sơn giàu đẹp. Thế mà, sự thật, ngày 3 tháng 9 năm 1969, <br />
Bác đã đi xa, giờ phút đau thương vô hạn vụt trở thành thiêng liêng, hóa <br />
thành con người bất tử. Giữa lúc nhân dân Việt Nam phải chịu nỗi đau thương <br />
không có gì sánh nổi, nhân dân Lào hòa quyện mình, chia sẻ nỗi đau chung. Nhà <br />
thơ Xômxiđêxa viết:<br />
Ôi, năm 69 này<br />
Mãi mãi là những ngày đau thương nhất<br />
Những ngày vô hạn đau thương<br />
Vì phải vĩnh biệt người<br />
...<br />
Ngày mồng 3 tháng 9<br />
Trời đất bỗng tối sầm<br />
Mặt trăng, mặt trời u ám<br />
Mưa rơi tầm tã ngày đêm<br />
...<br />
9 giờ 47 phút<br />
Giờ khắc thiêng liêng<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh<br />
Viên ngọc quý của bản mường<br />
Đã vĩnh biệt đi xa<br />
Đã về nơi vĩnh viễn<br />
…<br />
Có trái tim nào không đập mạnh hôm nay.<br />
Song, dù muốn hay không, không ai có thể cưỡng lại quy luật được. Toàn <br />
Đảng, toàn dân, toàn quân càng đau thương, nhớ Bác, tỏ lòng biết ơn Bác là phải <br />
trấn tĩnh lại, biến đâu thương thành hành động Cách mạng, mỗi người hãy mang <br />
hết sức mình cho Tổ quốc, sống vì Đảng, chết vì dân, để sớm thực hiện lý <br />
tưởng cao đẹp của Bác, độc lậptự do và chủ nghĩa xã hội: Ai cũng có cơm ăn, <br />
áo mặc, ai cũng được học hành. Khi viết bài thơ này, Xômxiđêxa đi từ <br />
việc Vĩnh biệt đau thương đến Về nơi vĩnh viễn của Bác đến Thiêng liêng, thơ <br />
có kết cấu chặt chẽ như thế mà thật rung động lòng người quả không dễ có:<br />
Người để lại một lời di chúc<br />
Còn quý hơn mọi châu báu ngọc ngà<br />
Lời di chúc tương lai chỉ hướng<br />
Gương sáng soi năm châu bốn bể<br />
Rọi chiếu khắp nhân gian<br />
Soi sáng mãi không bao giờ tắt<br />
Tuy đã đi rồi<br />
Lời di chúc do chính tay Người viết<br />
Nét bút của Người<br />
Còn đó cho ta…<br />
Văn học hiện đại Cách mạng Lào viết về Bác có sự đóng góp của nhiều <br />
thế hệ tác giả. Có người đi suốt hai cuộc kháng chiến như Xômxiđêxa và có <br />
người bắt đầu xuất hiện trong cao trà chống Mỹ. Đặc biệt, ở phần dầu tác <br />
phẩm Một vài kinh nghiệm chính và một số vấn đề về phương hướng mới của <br />
Cách mạng Lào (1979), đồng chí Cayxỏn Phômvihẳn (Tổng Bí thư Đảng nhân <br />
dân Cách mạng Lào) đã viết: Do tìm được chân lý vĩ đại từ Cách mạng tháng <br />
Mười: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con <br />
đường Cách mạng vô sản. Đồng chí Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cộng sản lỗi <br />
lạc của phong trào cộng sản quốc tế đã truyền bá vào Đông Dương chủ nghĩa <br />
yêu nước chân chính kết hợp chủ nghĩa MácLênin, gắn phong trào Cách mạng <br />
Đông Dương với phong trào Cách mạng thế giới.<br />
Tình hữu nghị Việt Lào mãi xanh tươi, đời đời bền vững, chắc chắn đề <br />
tài Việt Nam Hồ Chí Minh trong văn học Lào sẽ còn nhiều tác phẩm hay hơn <br />
nữa. Nhân dân Việt Nam trân trọng cảm ơn, giữ gìn và thưởng thức văn học Lào <br />
như chính nền văn học của mình.<br />
Việt Nam – Hồ Chí Minh đã trở thành danh từ quen thuộc trên toàn cầu. Hà <br />
Nội – thủ đô nghìn năm văn hiến và Viêng Chăn – kinh thành khởi sắc đang cùng <br />
nhau vươn tới trở thành hai trung tâm văn hóa làng giềng, có quan hệ ngày càng <br />
gắn bó.<br />