intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng chuyên đề Một số vấn đề về lịch sử - văn hóa Đông Nam Á: Tập 1

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

428
lượt xem
73
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

(NB) Mời các bạn tham khảo Bài giảng chuyên đề Một số vấn đề về lịch sử - văn hóa Đông Nam Á: Tập 1 sau đây để nắm bắt được những kiến thức về lịch sử hình thành cộng đồng người gốc Hoa ở Đông Nam Á (cho đến nửa đầu thế kỷ XX); chính sách đối ngoại của Singapore dưới thời chính phủ Lý Quang Diệu (1965 – 1990); vai trò của QĐ trong đời sống chính trị ở Cộng hòa Indonesia dưới thời Sukarno (1945 - 1967).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng chuyên đề Một số vấn đề về lịch sử - văn hóa Đông Nam Á: Tập 1

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ - 2001
  2. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á MỤC LỤC BÀI I : LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI GỐC HOA Ở ĐÔNG NAM Á (Cho đến nửa đầu thế kỷ XX) ........................................ 03 Mục đích của chuyên đề ....................................................................................................................04 Chương I : Buổi đầu di dân của người Hoa đến các nước Đông Nam Á (cho đến đầu thế kỷ XVI, khi người Âu xuất hiện ở ĐNÁ) .................................................05 1. Quá trình hình thành ban đầu của các cộng đồng người Hoa ..................................................05 2. Các hình thức tổ chức của di dân người Hoa ...........................................................................06 3. Tình hình khái quát các khu di trú của người Hoa trong những thế kỷ XV – XVIII..................................................................................................08 Chương II : Sự hình thành các cộng đồng người Hoa trong thời kỳ tư bản thực dân phương Tây xâm lăng Đông Nam Á (thế kỷ XVI - thế kỷ XIX)............................................................15 1. Mối quan hệ kinh tế giữa người Hoa và tư bản thực dân châu Âu. ...........................................15 2. Những va chạm ban đầu giữa người Hoa và thực dân châu Âu ...............................................17 3. Chế độ trưng thuế và người Hoa ...............................................................................................18 4. Tình hình của cộng đồng người Hoa trong nửa sau thế kỷ XIX.................................................20 Chương III: Quá trình hình thành xã hội - kinh tế của cộng đồng người Hoa trong bối cảnh khủng hoảng của chế độ thuộc địa ................................24 1. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Đông Dương.......................................................................24 2. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Philippines ..........................................................................25 3. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Indonesia ...........................................................................25 4. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Miến Điện ...........................................................................26 5. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Malaya ................................................................................26 6. Sinh hoạt kinh tế của người Hoa ở Xiêm....................................................................................26 Chương IV: Quy chế pháp lý của người Hoa ở các nước Đông Nam Á trong nửa đầu thế kỷ XX .......................................................................28 1. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Indonesia .........................................................................28 2. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Malaya..............................................................................29 3. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Xiêm .................................................................................29 4. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Đông Dương và Miến Điện ..............................................29 5. Tình trạng pháp lý của người Hoa ở Philippines .......................................................................30 Chương V: Các nhóm sắc tộc người Hoa và cuộc đấu tranh chống thực dân của nhân dân Đông Nam Á ...............................................................32 1. Thế kỷ XVII - nửa sau thế kỷ XIX................................................................................................32 2. Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX..................................................................................................34 3. Trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 - 1939) .............................................38 4. Trong những năm chiếm đóng của Nhật ( 1942 - 1945) ...........................................................47 Kết luận ................................................................................................................. 48 Tài liệu tham khảo ............................................................................................................................51 BÀI II : CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA SINGAPORE DƯỚI THỜI CHÍNH PHỦ LÝ QUANG DIỆU (1965 – 1990)........................ 53 Mục đích của chuyên đề..................................................................................................................53 Chương I : Sơ lược về đất nước và lịch sử Singapore trước ngày độc lập ..............................54 I. Đất nước và con người................................................................................................................54 II. Sơ lược lịch sử Singapore trước ngày độc lập ..........................................................................55 1
  3. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á Chương II: Chiến lược "Sống còn dân tộc" .................................................................................58 I. Khái niệm " thành phố toàn cầu" và "trung lập tích cực" ............................................................58 II. Học thuyết An ninh quốc gia ......................................................................................................61 III. Từ chủ nghĩa toàn cầu đến chủ thuyết vùng .............................................................................64 Chương III : Các hoạt động đối ngoại của Singapore trong thập niên 80 .................................67 I. Những đặc điểm của tình hình quốc tế trong vùng......................................................................67 II. Tình hình phát triển kinh tế và chính trị của Singapore trong thập niên 80...............................70 III. Những thay đổi trong quan điểm đối ngoại ...............................................................................72 IV. Singapore và Phong trào không liên kết trong những năm 80..................................................76 Kết luận ................................................................................................................. 80 Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 87 BÀI III: VAI TRÒ CỦA QĐ TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ Ở CỘNG HÒA INDONESIA DƯỚI THỜI SUKARNO (1945 - 1967) ................................. 89 Mục đích của chuyên đề..................................................................................................................89 I. Giai đoạn đấu tranh giành độc lập (1945 - 1949) .......................................................................89 II. Giai đoạn dân chủ đại nghị (1950 – 1959)..................................................................................91 III.Giai đoạn dân chủ có lãnh đạo" (1959 – 1965) ..........................................................................96 Tài liệu tham khảo ................................................................................ 106 2
  4. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á BÀI I ZUY LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI GỐC HOA Ở ĐÔNG NAM Á (cho đến nửa đầu thế kỷ XX) 3
  5. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ ZUY Trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á (tất cả hiện nay đều là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN)( ), người gốc Hoa đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, thậm chí ở một vài nước (Indonesia, Singapore) còn mang tính quyết định. Không có họ, nền kinh tế các nước trong vùng chắc chắn sẽ vấp phải không ít khó khăn. Trong vòng trên dưới hai thập niên trở lại đây, vị thế của họ trong sinh hoạt kinh tế ở các nước Đông Nam Á lại có chiều hướng tăng lên do đó họ có những mối quan hệ khăng khít với các lãnh thổ Trung Hoa, vốn đang trải qua thời kỳ phát triển thịnh đạt về kinh tế, như Trung Quốc, Đài Loan và Hongkong. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa người gốc Hoa và người bản địa không phải lúc nào cũng êm đẹp. Ở những nước Đông Nam Á nào có tỷ lệ người gốc Hoa cao (như Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Việt Nam), người bản địa thường nhìn sự giàu có, mà sinh hoạt kinh tế đã mang lại cho người gốc Hoa, bằng con mắt đố kỵ và thèm muốn. Mỗi khi xảy ra những biến động chính trị, người gốc Hoa dễ trở thành vật bung xung cho những tình cảm bực dọc bị dồn nén lâu lay trong nhân dân. Biến cố tháng 5-1998 vừa qua ở Indonesia là một ví dụ điển hình. Tại sao dù người Hoa đã có mặt ở các nước Đông Nam Á, phổ biến từ trên dưới 100 năm nay, cá biệt có trường hợp từ vài ba thế kỷ, giữa các cộng đồng sắc tộc người Hoa và người bản địa vẫn tồn tại một hố ngăn cách không thể vượt qua được ; vì sao người Hoa dễ trở thành đối tượng của những cơn biến động chính trị và kinh tế ở các nước trong vùng ? Đó là những câu hỏi mà chuyên đề "Lịch sử hình thành cộng đồng người gốc Hoa ở Đông Nam Á cho đến nửa đầu thế kỷ XX" góp phần giải quyết. 4
  6. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á CHƯƠNG I BUỔI ĐẦU DI DÂN CỦA NGƯỜI HOA ĐẾN CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á (Cho đến thế kỷ XVI, khi người Âu xuất hiện ở Đông Nam Á) _________________________________ 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH BAN ĐẦU CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Giữa các cộng đồng sắc tộc khác nhau ở Đông Nam Á và tổ tiên người Hoa đã diễn ra các cuộc tiếp xúc cách đây nhiều ngàn năm, vào khoảng thiên niên kỷ VII- VI tr.CN (theo ý kiến của nhà khảo cổ học người Mỹ W.Solheim)( ). Khu vực diễn ra đặc biệt sôi động các cuộc tiếp xúc sắc tộc là vùng lưu vực sông Tây Giang và cả thượng và trung lưu sông Dương Tử, nơi cách đây vài ngàn năm có nhiều sắc tộc sinh sống và hòa lẫn vào nhau. Theo cách phân loại dựa vào ngôn ngữ, đó là các tộc Việt, Indonesia, Thái, Môn-Khơme và Tây Tạng-Miến. Từ thế kỷ I tr.CN đến thế kỷ X. s.CN, miền Bắc bán đảo Đông Dương bị rơi vào ách thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Nơi đây trở thành chốn cư trú tạm thời hay lâu dài của các binh lính, quan chức và có thể cả thương nhân và thợ thủ công người Hoa. Tìm đến đây thỉnh thoảng có cả những làn sóng người chạy nạn chiến tranh, chạy trốn sự truy bức mỗi khi có sự thay đổi triều đại ở Trung Quốc, hay chạy đói vì thiên tai. Bắc bán đảo Đông Dương còn là nơi dung thân của những kẻ tham gia các cuộc nổi dậy nông dân bị thất bại, chẳng hạn cuộc nổi dậy Hoàng Sào nổi tiếng trong thế kỷ X ( ). Ngoài ra, ở một số tụ điểm dân cư trong một vùng đất rộng lớn trải dài từ Thượng Miến đến phía bắc phần lãnh thổ của Campuchia hiện nay đã có mặt các thương nhân Hoa ngay từ thế kỷ II s.CN ( ). Tuy nhiên, không thể cho rằng những cuộc dịch chuyển vừa kể trên như là bước khởi đầu trực tiếp của quá trình hình thành các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á vì chúng diễn ra rời rạc, cách nhau từng khoảng thời gian khá dài và nhất là vì chưa tạo được những cộng đồng dân cư đông đảo, mà trong đó tộc người Hoa chiếm đa số từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cộng đồng người Hoa di dân sang đây trong thiên niên kỷ đầu sau Công nguyên không tồn tại lâu dài, lúc hiện, lúc mất, vì một số quay về tổ quốc, còn số ở lại đã lấy người bản xứ, học ngôn ngữ và tiếp thu cả phong tục, tập quán địa phương để rồi sau vài thế hệ hoàn toàn bị hòa tan vào cộng đồng người bản xứ, quên đi tiếng mẹ đẻ và thậm chí cả nguồn gốc tổ tiên mình. Tính không ổn định của các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á kéo dài cho đến nửa đầu thiên niên kỷ I s.CN. Tuy nhiên, tình hình bắt đầu thay đổi từ thế kỷ XII, đặc biệt rõ rệt từ thế kỷ XIV-XV. Những hiện tượng như: một số quay về Trung Quốc, số khác bị đồng hóa với người bản địa vẫn còn nguyên ; nhưng lúc này số người di dân từ Trung Quốc tăng lên đến mức chẳng những cộng đồng người Hoa đông hơn, mà cả mức cố kết về xã hội và sắc tộc của họ cũng trở nên chặt chẽ hơn. Có thể nói đây là thời điểm bắt đầu hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa như là một bộ phận dân cư riêng biệt ở các nước Đông Nam Á. Những thay đổi này gắn liền với với sự kiện là ở Trung Quốc đã xuất hiện một tình huống thúc đẩy khá nhiều người dân rời bỏ quê 5
  7. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á hương để tìm đến những vùng đất lạ. Đó là: đất cày thiếu, số người không có đất canh tác tăng lên ; nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ ra đời đã thúc đẩy các thương nhân đi tìm thêm thị trường tiêu thụ hàng hóa. Đó là chưa kể chế độ phong kiến Trung Quốc còn đề ra chính sách kiểm soát ngặt nghèo ngoại thương và trưng dụng tùy tiện các phương tiện sinh nhai của thương nhân. Hậu quả là không ít bần nông và thương nhân đã tìm đến sinh nhai ở vùng Đông Nam Á, nơi có khí hậu ôn hòa và nhiều đất hoang và cũng là nơi một nền kinh tế hàng hóa đang hình thành. Những yếu tố này đã thu hút không ít người Hoa tìm đến định cư lâu dài ở Đông Nam Á. Dù trong các thế kỷ XIV - XV không phải nơi nào ở Đông Nam Á cũng đều cần đến một khối lượng đông đảo lao động người Hoa, họ vẫn có thể tìm được một chỗ làm cho mình, hoặc trong các ngành nghề thủ công, hoặc trong hoạt động thương mại, hoặc khai phá đất hoang. Cần nhấn mạnh ở đây là thương mại, vốn bị xem là một nghề phụ, hoặc thậm chí hạ đẳng ở Trung Quốc, thì ở Đông Nam Á lại được coi là con đường tốt nhất để đưa đến cuộc sống sung túc, giàu có. Sau khi nhà Nguyên bị lật đổ và được thay bằng nhà Minh (thế kỷ XIV-XVII), các mối liên hệ ngoại giao và thương mại giữa Trung Quốc và các vương quốc Đông Nam Á được đẩy mạnh. Làn sóng người từ Trung Quốc kéo sang các nước này diễn ra nhộn nhịp đến mức vào khoảng thế kỷ XVII trên khắp các miền ở Đông Nam Á - từ Miến Điện và Lào đến những khu vực hẻo lánh trên quần đảo Maluku và Philippines - đều xuất hiện những nhóm người Hoa ít nhiều đông đảo. Cho đến lúc này, việc người Hoa di cư sang và định cư ở Đông Nam Á diễn ra một cách êm ả, không gặp trở ngại nào đáng kể từ phía giới cầm quyền cũng như người dân bản địa. Đó là vì ở Đông Nam Á có nhiều đất hoang, nhưng chủ yếu là vì các hoạt động kinh tế cơ bản của di dân người Hoa - thương mại và thủ công nghiệp - không va chạm trực tiếp đến quyền lợi của người bản xứ, thậm chí chúng còn mang lại sự sung túc cho địa phương, nơi họ tìm đến cư trú. Do đó, không những không cấm đoán, giới cầm quyền Đông Nam Á còn cố sức rút ra các lợi ích không nhỏ từ hoạt động kinh tế của di dân người Hoa. Nhưng như vậy không có nghĩa là người Hoa không gặp trở ngại gì trên bước đường kiếm sống ở nơi định cư mới. Khó khăn chính là họ phải sống trong một môi trường xã hội và văn hóa hoàn toàn xa lạ (ngoại trừ ở Việt Nam). Do đó, giữa dân địa phương và di dân người Hoa đã tồn tại một sự xa cách, mà đôi khi đã đưa đến mối quan hệ thù địch, nhất là ở những nơi thương nhân người Hoa nắm độc quyền cung cấp và thu gom hàng hóa, định đặt giá cả và cho vay nặng lãi. 2. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC CỦA DI DÂN NGƯỜI HOA. Sinh sống trong một môi trường hoàn toàn xa lạ, không hiếm khi thù địch như trên, người Hoa đã tìm kiếm những hình thức tự vệ về tâm lý và xã hội. Hoặc là họ dấn sâu hơn nữa vào môi trường bằng cách lấy vợ người địa phương (di dân người Hoa hầu hết là đàn ông) và học ngôn ngữ địa phương. Nhưng đa số người Hoa đi theo con đường khác - giữ gìn và thiết chế hóa các rào cản xã hội - tâm lý giữa họ và các sắc dân địa phương, bằng cách sử dụng những hình thức tổ chức xã hội riêng biệt đã hình thành từ lâu. Hình thức tổ chức bền vững nhất của các di dân người Hoa là hội đồng tộc, mà trong thuật ngữ khoa học gọi là "hội tộc" ("clan"). Xuất hiện từ thời rất xa xưa, hội tộc ở Trung Quốc lan tràn rộng rãi trong các thế kỷ XV - XVII và mở rộng chức năng của nó ở ngay tại các lãnh thổ miền Nam Trung Quốc, nơi xuất phát các đợt di dân 6
  8. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á đến Đông Nam Á. Bản thân việc rời bỏ quê hương để tìm đến lập nghiệp ở những vùng đất xa xôi phải được sự đồng ý của các thành viên lớn tuổi nhất trong tộc. Chi phí đi đường không hiếm khi được quỹ của tộc đài thọ. Còn người ra đi nếu làm ăn khấm khá, phải đóng góp một phần tài sản cho tộc. Do vậy, dù việc rời bỏ Trung Quốc ra đi trên thực tế có nghĩa là đã cắt đứt mọi quan hệ thân thuộc, những di dân người Hoa vẫn có một thoí quen rất bền vững là tìm đến những người cùng họ ở vùng đất mới để kết hợp thành một thứ na ná như hội tộc, bất chấp họ có phải là bà con thực sự hay không (cần nhớ rằng ở Trung Quốc, số người cùng một họ rất đông, vì số họ trong cả nước chỉ hơn một trăm). Vai trò của hội tộc trong đời sống hàng ngày của di dân người Hoa rất đáng kể. Những nghĩa vụ tương trợ lâu dài đã đoàn kết những thành viên của hội tộc ở vùng đất lập cư, tăng cường tính bền vững của cộng đồng, nhưng đồng thời đòi hỏi mỗi người Hoa phải tuân phục triệt để trưởng hội tộc. Một hình thức tổ chức khác là "hội đồng hương", ra đời từ một thực tế lịch sử - sắc tộc là cư dân miền Nam Trung Quốc, nơi phát xuất đại bộ phận di dân người Hoa ở Đông Nam Á, đã sống phân tán thành nhiều nhóm trên các lãnh thổ ít nhiều biệt lập với nhau. Mỗi nhóm có một thổ ngữ riêng. Tình hình đã khiến họ khó hiểu nhau khi phải tiếp xúc với nhau bằng ngôn ngữ nói. Di dân người Hoa ở Đông Nam Á sử dụng rất nhiều thổ ngữ, như tiếng Hẹ (gốc miền Đông Quảng Đông), Phúc Kiến, Quảng Châu, Triều Châu, Hải Nam. Tại vùng định cư mới, những người nói cùng thổ ngữ sống quần tụ trong một khu phố, làng hay cả vùng. Giữa họ nảy sinh tình cảm của những người cùng một quê hương gốc tích và nói cùng một ngôn ngữ. "Hội đồng hương" ra đời chính trên cơ sở tình cảm quê hương - ngôn ngữ này. Với thời gian, mối quan hệ này trở nên bền vững đến mức cho đến tận thế kỷ XIX dù sinh sống ở những miền đất rất cách xa nhau tại xứ sở mới, những người cùng quê hương và ngôn ngữ vẫn tìm đến nhau để lập "Hội đồng hương". Hình thức tổ chức này bắt đầu mang tính chất của một thiết chế. Nó trở thành một hiệp hội có cấu trúc tổ chức rõ ràng, có lề thói xử sự được quy chế hóa, có chế độ tự quản theo luật định. "Hội đồng hương" đã giúp đỡ các di dân trong cuộc đấu tranh để sinh tồn, nhưng đồng thời lại khiến những di dân người Hoa thêm xa lạ với nhau: những người không nói cùng thổ ngữ chẳng những không hiểu nhau, mà đôi lúc còn thù địch nhau. Sự việc không ít lần đã đưa đến những cuộc ẩu đả đổ máu. Một hình thức tổ chức khác là hội cùng nghề, theo kiểu các phường hội. Thông thường, việc cùng ở chung một hội đồng hương đã định trước việc chọn nghề : những người cùng hội đồng hương đều chọn nghề giống nhau. Cả ba loại hiệp hội nói trên, ngoài chức năng tương trợ vật chất và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội giữa các thành viên trên cơ sở đảm bảo quyền kiểm soát của giới lãnh đạo đối với các thành viên của hội, còn thủ giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn các nghi thức tinh thần và tâm lý biểu trưng cho tộc của mình, chẳng hạn như tuân thủ các chuẩn mực đạo đức lâu đời trong sinh hoạt gia đình, tiến hành các lễ nghi thờ cúng, các ngày lễ tôn giáo, nghi thức cưới hỏi và ma chay, tài trợ các đền chùa, nghĩa địa và sau này cả bệnh viện của hội. Dù đã được thu hút vào các hình thức tổ chức khác nhau, cộng đồng người Hoa ở các nước Đông Nam Á vẫn chưa thể được xem là một hiện tượng ổn cố hoàn toàn. Có những bằng chứng cho thấy những người mới đến vẫn luôn nuôi hy vọng quay về cố quốc, sau khi đã trở nên khá giả (nếu ra đi vì lý do kinh tế) hoặc sau khi tình hình đã trở nên ổn định (ra đi vì lý do chính trị)( ). Một điều cũng cần lưu ý là giữa các cộng đồng người Hoa di dân ở Đông 7
  9. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á Nam Á với nhau và với chính quyền phong kiến Trung Quốc lúc đó là nhà Minh không tồn tại một mối quan hệ nào, dù Bắc Kinh đang tiến hành một chính sách ngoại giao tích cực trong vùng. Có thể giải thích hiện tượng này bằng các nguyên nhân sau. Thứ nhất, là chịu ảnh hưởng của học thuyết Khổng Tử, giới cầm quyền phong kiến Trung Quốc lên án bất kỳ hành động rời bỏ quê hương xứ sở, mồ mã cha ông để đến lập nghiệp ở những vùng đất xa lạ nằm ngoài cương thổ Trung Quốc. Sự ra đi của người Hoa hoàn toàn là việc của cá nhân và họ tộc của người đó. Nhà Minh và cả nhà Thanh sau này không bao giờ đề ra chủ trương xây dựng những khu cư trú (colony) ở hải ngoại. Thứ hai, là họ lo sợ sự ra đời ở nước ngoài của các trung tâm chống đối ách thống trị nặng nề và chế độ kiểm soát ti tiện của họ ở trong nước. Cuối cùng là chính quyền phong kiến nhìn bằng con mắt hồ nghi các hoạt động thương mại của các thương nhân - di dân người Hoa ở vùng bờ biển Trung Quốc, vì chúng không chịu sự kiểm soát của họ. Vì những nguyên nhân trên, dù các khu di trú của di dân người Hoa ở Đông Nam Á trong các thế kỷ XV-XVII đã xuất hiện nhiều và với số dân không nhỏ, người ta hoàn toàn không thể gọi chúng là hệ thống các khu di trú. Chính đây là sự khác biệt cơ bản giữa các khu di trú người Hoa và khu di trú người Âu, vốn sẽ ra đời không lâu sau đó ở Đông Nam Á. 3. TÌNH HÌNH KHÁI QUÁT CÁC KHU DI TRÚ CỦA NGƯỜI HOA TỪ THẾ KỶ XV-XVIII. Một trong những nơi mà người Hoa có mặt sớm nhất và đông nhất là vương quốc Đại Việt, nằm ở khu vực duyên hải miền Bắc và miền Trung bán đảo Đông Dương, ngay từ thế kỷ X, sau khi nhân dân vương quốc này bằng cuộc đấu tranh kiên cường đã thoát khỏi ách thống trị kéo dài cả ngàn năm của phong kiến Trung Quốc. Sau khi những kẻ xâm lược bị đánh đuổi, khoảng 87.000 quan chức người Hoa và gia đình đã bị trục xuất, nhưng vẫn còn một số đáng kể đã ở lại và đăng ký vào sổ bộ như người Việt Nam ( ). Trong các thế kỷ XI - XIV, tức thời kỳ tồn tại của Đế chế Angkor trên lãnh thổ Campuchia, trong nước này đã xuất hiện một khu di trú cố định của người Hoa. Họ sinh sống chủ yếu bằng nghề buôn bán ( ). Họ chở đến đây kim loại màu, vải lụa và vải bông, đồ gốm và giấy. Luân chuyển qua tay họ một khối lượng đáng kể hàng hóa bản địa - ngà voi, gia vị và dầu ăn. Thương nhân Campuchia thường chỉ đóng vai trò người trung gian giữa dân địa phương và thương nhân Trung Quốc. Người Hoa ở Campuchia cũng dự phần vào hoạt động thương mại quốc tế : vào thời đó Angkor là trung tâm thương mại quan trọng trên các ngã giao đường giữa Đông và Tây. Trong vùng lưu vực sông Mênam thuộc miền Trung Thái Lan hiện nay và cả dọc theo bờ duyên hải vịnh Thái Lan, từ thế kỷ XIII- XIV, người Hoa đã xuất hiện và sống lẫn với người địa phương. Hoạt động kinh tế của họ là buôn bán và khai thác thiếc ( ). Trong lãnh thổ vương quốc Sukhothay (thế kỷ XVIII) có một công xưởng sản xuất đồ gốm sử dụng lao động từ Trung Quốc sang. Dưới thời vương quốc Ayuthay (thế kỷ XIV - XVIII), số người Hoa sinh sống ở Xiêm đã tăng lên đáng kể. Theo lời một trong các quan chức phụ trách ngoại thương của Ayuthay, vào những năm 60 của thế kỷ XVII trên toàn lãnh thổ vương quốc có "nhiều ngàn người Hoa". Họ đã sống ở đây từ thời xa xưa, lập gia đình và sống lẫn với dân bản địa. Tích cực tự đồng hóa với dân bản địa là nét nổi bật trong khoảng thời gian dài trong sinh hoạt của di dân người Hoa ở Xiêm. 8
  10. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á Các vùng bình nguyên Xiêm thường là nơi tìm đến bằng đường biển của những người dân ở các tỉnh đông nam Trung Quốc, còn các miền núi là nơi định cư của những người phát xuất từ tỉnh Vân Nam. Người ta gọi họ là người "Hồ". Họ khác về nhiều mặt so với các cộng đồng người Hoa còn lại : tôn giáo (chủ yếu theo đạo Hồi), về tiếng nói và cả lối sống. Họ sống thành từng làng, trồng cây thuốc phiện và buôn bán đường dài (theo thương đội). Người Hoa ở Xiêm đa số sống bằng buôn bán, số còn lại sống bằng các nghề thủ công, canh tác đất đai. Một số ít hơn làm nghề thuốc và ca hát. Theo lời nhà truyền giáo người Pháp G. Tachar, phần lớn hoạt động thương mại ở Xiêm vào cuối thế kỷ XVIII nằm trong tay thương nhân người Hoa. HọÏ cạnh tranh với các thương nhân đến từ Nhật, Ấn, Ba Tư và các nước châu Âu. Các hội đoàn thương mại của người Hoa ở kinh đô Ayuthay và các đô thị cảng bên bờ biển Xiêm đã làm những người đương thời phải sững sờ vì sự đoàn kết chặt chẽ và thế lực của chúng. Chẳng hạn ở Pattaya, chính quyền địa phương thậm chí không dám đánh thuế thương nhân người Hoa ở đây ( ). Các thuyền buôn của Anh đến cảng Nakhon Sithammarat đã tìm đến không phải giới chức địa phương, mà hội đoàn người Hoa để xin phép buôn bán tại cảng này ( ). Trong cuộc cạnh tranh gay gắt với giới thương nhân châu Âu, các nhà buôn người Hoa đã không ngần ngại sử dụng cả võ lực. Năm 1633, một người Hoa có vũ trang đã bao vây tiệm buôn của người Hà Lan và tống xuất họ khỏi Xiêm. Trong thế kỷ XVIII ở Xiêm có thông lệ là bán các chức tước cấp tỉnh ở miền Nam. Không ít thương nhân người Hoa đã trở thành quan chức bằng con đường này. Trong bộ máy công quyền đã hình thành một tầng lớp ổn định quan lại gốc người Hoa. Sau khi quân Miến tràn vào lãnh thổ Xiêm và vương quốc Ayuthay bị sụp đổ năm 1767, một quan chức cấp tỉnh gốc Iukchin (tức có cha người Hoa và mẹ người Thái) tên P'ya Taksin đã cầm đầu một đạo quân. Ông tỏ ra là người cầm quân xuất chúng khi chỉ trong vòng một năm đã đánh đuổi được quân xâm lược Miến và sau đó lên ngôi vua ( ). Dưới thời P'ya Taksin, kinh đô chuyển về Thonburin và sau đó đến Bangkok, gần với các con đường thương mại của thế giới. Lúc này, vốn liếng của thương nhân chuyển mạnh hơn sang ngành thủ công - cơ xưởng và nông nghiệp ; nhiều đồn điền trồng tiêu mọc lên. Họ cũng thu mua lúa và chuyển sang Trung Quốc. Với những tiểu quốc nằm trên quần đảo Mã Lai, Trung Quốc đã lập quan hệ ngoại giao từ thế kỷ V, và những di dân người Hoa đã có mặt ở bờ biển Bắc Java vào thế kỷ X, nhưng phải đến thế kỷ XI số người Hoa ở đây mới tăng lên đáng kể. Sau khi Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt thất bại trong mưu toan đánh chiếm Java (cuối thế kỷ XIII), hơn 100 chiến binh Trung Quốc nằm trong đạo quân xâm lược đã không thích quay về cố quốc. HọÏ tìm đến định cư trên đảo Billinton. Nơi đây đã thành khu di trú lâu dài của người Hoa. Sự ra đời của cộng đồng người Hoa ởû bờ biển phía Bắc Java, trong vùng Semarang hiện nay, gắn liền với chuyến đi của Trịnh Hòa, một quan chức nhà Minh đến vùng biển phía Nam Trung Quốc vào đầu thế kỷ XV. Các thủy thủ Trung Quốc đặt chân lên đây đã tạo ra những khu di trú người Hoa đông đảo nhất trên quần đảo ( ). Trong các thế kỷ XIII - XV có những nhóm khá đông người Hoa sinh sống thường xuyên trên đảo Java - ở Tuban, Surabaya, trong lãnh thổ các tiểu vương quốc Bantam và Jakarta. Đây là trung tâm hoạt động thương mại chính của họ. Ít lâu 9
  11. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á sau, các hiệu buôn của người Hoa xuất hiện ở bờ biển Bắc và Tây Kalimantan - ở Bunkomi (Brunei hiện nay), Sambas, Pontianaka và Sucadan, và trên đảo Tamasik (Singapore hiện nay) và ở đô thị - cảng Malacca ( ). Không phải là hiếm chuyện giới thống trị các tiểu vương quốc lấy người Hoa nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các đội tàu buôn từ Trung Quốc thỉnh thoảng kéo sang đây, hay nhận những điều kiện cộng tác ưu đãi với các thương nhân người Hoa định cư tại chỗ. Về phần mình, các đại diện cộng đồng người Hoa cũng không bỏ lỡ cơ hội lập mối quan hệ thông gia với các quan chức địa phương để được hưởng các chế độ ưu đãi, hoặc được phân chia ruộng đất cùng với các nông dân sống trên đó và thậm chí được tưởng thưởng cả một số chức tước. Để hình dung cuộc sống trong môi trường xa lạ của những di dân người Hoa thành đạt nhất, có thể tìm đọc trong các thư tịch cổ ở Bantam thuộc Tây bộ Java. Theo sự miêu tả trong đó, khu phố của người Hoa, được vây quanh bằng một lớp hàng rào chắc chắn và đường hào đầy nước, gồm những căn nhà vững chắc xây bằng đá. Nằm bên cạnh đó là nhà của dân địa phương xây bằng các loại cây sậy trông chẳng khác những túp lều tồi tàn. Đa phần cư dân người Hoa là thương nhân, một số có cả nô lệ. Hoạt động thương mại ở các thị trấn Java diễn ra nhộn nhịp. Người ta bán các mặt hàng chở từ Trung Quốc sang, như đồ lụa, đồ vải, chén đĩa bằng sứ, thuốc súng, đồ trang sức. Thương nhân người Hoa thu mua của người bản xứ đồ gia vị và thiếc để chở sang Trung Quốc hay bán lại cho thương nhân người Âu ( ). Thương mại là hoạt động kinh tế chính, nhưng không phải là duy nhất của người Hoa. Ở Tây bộ Kalimantan chẳng hạn, họ còn làm ruộng. Một số người đã làm chủ các đồn điền trồng tiêu hay nhiều thửa ruộng ở tiểu quốc Bantan. Ở Java, người Hoa xây dựng các nhà máy luyện đường. Các xưởng thủ công ở các đô thị thời đó phần lớn là của người Hoa ( ). Lịch sử Trung Quốc của người Hoa trên lãnh thổ tiểu quốc Palambang (đảo Sumatra) có nội dung khá lý thú. Vào khoảng năm 1380, vài ngàn người Hoa sinh sống ở đây bằng nghề thương mại hàng hải đã bầu một trong số các thương nhân giàu có lên làm thủ lĩnh của họ. Lợi dụng vị trí thuận lợi của Palembang nằm trên các tuyến đường nhộn nhịp giữa Ấn Độ Dương và biển Đông, các tiểu vương cai trị Palembang không chỉ tìm cách buôn bán kiếm lời, mà còn hành nghề thủy tặc, cướp đoạt ngay cả các chuyến tàu của hoàng đế Trung Quốc chở các cống vật từ các nước phương Nam về Trung Quốc. Một trong các tiểu vương Palembang trong một lần tổ chức đánh cướp như vậy đã bị bắt và bị gia hình, nhưng tiểu quốc này vẫn được hoàng đế Trung Quốc cho phép hưởng chế độ tự trị, mà không bị thiên triều hỏi tội. Diễn biến vừa kể là một ví dụ hùng hồn cho thấy ảnh hưởng rất có giới hạn của nhà Minh đối với các cộng đồng cư dân người Hoa ở Đông Nam Á, ngay cả đối với vùng quần đảo Malaya - Indonesia, nơi không tồn tại một nhà nước phong kiến tập trung nào đủ sức chống chọi với áp lực quân sự của Trung Quốc. Quần đảo Philippines từ cuối thế kỷ X thỉnh thoảng tiếp đón các đoàn thương thuyền Trung Quốc lui tới. Chúng chở hàng hóa, và đôi khi cả người đến sống một thời gian. Người Hoa thường tìm đến sống trong các khu dân cư đông đúc ven bờ biển, chủ yếu ở Manila trên đảo Luzon. Trong các thế kỷ XII và XIII, trung tâm hoạt động thương mại nhộn nhịp với Trung Quốc là quần đảo Sulu. Trong số các hàng hóa phát xuất từ đây có ngọc trai. Đầu thế kỷ XV giữa các tiểu vương quốc trên đảo Luzon và Trung Quốc lần đầu tiên có sự trao đổi sứ bộ. Diễn biến này cho thấy có lẽ trên đảo đã tồn tại các 10
  12. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á khu cư trú ổn định của người Hoa, nhưng quy mô của chúng ra sao, các tài liệu không đưa ra những số liệu thống nhất. Một tài liệu biên niên của Trung Quốc viết rằng trên đảo có khoảng vài chục ngàn thương nhân giàu có gốc Phúc Kiến. HọÏ đã sinh sống ở đây từ lâu và không còn tính đến chuyện trở về Trung Quốc. Thậm chí họ đã ở đây đến đời con hoặc cháu. Con số người Hoa chắc chắn đã bị phóng đại lên nhiều, vì những người Tây Ban Nha đầu tiên đặt chân đến Manila năm 1570 cho biết rằng trong số cư dân trên đảo Luzon, họ chỉ đếm được gần 150 người Hoa ( ). Thế kỷ XVII đánh dấu một bược ngoặt trong lịch sử các nước Đông Nam Á, và tất nhiên cả số phận của những nhóm người Hoa sinh sống trên lãnh thổ các quốc gia này. Từ đầu thế kỷ, nhân dân các nước Đông Nam Á - đảo lần lượt rơi vào ách thống trị của các thực dân phương Tây xâm nhập vào trong vùng, đầu tiên là người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, sau đó là người Hà Lan và Anh. Số phận của cư dân người Hoa trong các thuộc địa của người Âu ở Đông Nam Á - đảo sẽ được xem xét trong chương kế tiếp. Ở đây chúng tôi xin đề cập tiếp đến cuộc sống của các cộng đồng người Hoa trong thế kỷ XVII - XIX ở vùng lãnh thổ của Đông Nam Á - lục địa, vốn sẽ duy trì được độc lập của mình thêm được khoảng 200 năm nữa. Tác động đến tình hình của di dân người Hoa ở các nước Đông Nam Á - lục địa không chỉ là bước đầu bành trướng của thực dân châu Âu ở trong vùng, mà còn có cả một biến chuyển hết sức sâu xa diễn ra ở Trung Quốc vào giữa thế kỷ XVII, sau khi nước này bị rơi vào ách thống trị của những kẻ xâm lược từ bên ngoài - người Mãn Châu. Một triều đại phong kiến mới được dựng lên - triều Thanh, thay cho triều Minh cũ. Vào những năm 80 của thế kỷ XVII, quân lính Mãn Châu đã trấn áp thẳng tay những ổ kháng cự cuối cùng của người Trung Quốc ở phần lãnh thổ Đông Nam của đất nước - ở các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến và đảo Đài Loan - và tỉnh Vân Nam. Bộ phận quân lính Trung Quốc trung thành với nhà Minh còn sống sót đã kịp bỏ chạy sang lãnh thổ Miến Điện, Việt Nam và xa hơn nữa về phía nam. Kết quả là nhiều cộng đồng di dân người Hoa ở Đông Nam Á trở thành trung tâm hoạt động của những kẻ chống đối kiên định với chính quyền Mãn Châu đã được xác lập ở Bắc Kinh. Với thời gian, ở những nơi này đã xuất hiện nhiều hội kín, tương tự như các hội yêu nước bí mật kháng Thanh được thành lập ở miền Nam Trung Quốc. Trong hoàn cảnh ở các khu di trú, các hội kín đã mang một số nét đặc thù sau : cơ sở xã hội của chúng là dân nghèo thành thị (thay vì bần cố nông như ở Trung Quốc). Chúng không chỉ kháng Thanh, mà còn bảo vệ, trong trường hợp cần thiết, những đồng hương của mình chống lại những kẻ áp bức người bản địa. Vũ khí của chúng chủ yếu là khủng bố, còn những nguồn cung cấp tài chính cho chúng là các sòng bạc, nhà chứa, tiệm hút, hoạt động buôn lậu. Giới cầm đầu các hội tộc người Hoa ra sức nắm lấy các hội kín. Chính vũ khí khủng bố và những nguồn cung cấp tài chính kiểu như vậy đã tạo nên tính chất hai mặt của chúng. Triều Thanh gắng hết sức hạn chế mọi mưu toan thiết lập các mối liên lạc giữa các di dân người Hoa ở Đông Nam Á và Trung Quốc. Chính quyền mới dồn đuổi mọi người dân sống ở ven biển vào sâu trong đất liền, nhằm cắt đứt liên lạc với phía nam theo đường biển; việc ra nước ngoài bị cấm đoán bằng hình phạt tử hình; ngoại thương bị coi là độc quyền của Nhà nước và bị giảm mạnh ( ). Tất cả những biện pháp trên không chỉ khiến các cộng đồng di dân người Hoa trở nên ngày càng xa lạ với cố quốc, mà còn góp phần đáng kể vào việc củng cố và ổn định chúng, vì nguồn bổ sung di dân mới bị đình trệ trong một thời gian dài, mọi hy vọng quay về cố quốc dù là do tuổi già xem ra khó lòng trở thành hiện thực. Trong 11
  13. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á những điều kiện như vậy, di dân đành bằng lòng với cuộc sống ổn cố lâu dài ở nơi cư ngụ mới và đi tìm những phương cách sống chung tốt nhất với dân bản địa. Tình hình của các nhóm sắc tộc người Hoa ở Đông Nam Á mãi đến cuối thế kỷ XVIII và trong thế kỷ XIX mới thay đổi ít nhiều, khi nhà Thanh, dưới sức ép của những đòi hỏi kinh tế trong nước, đặc biệt của tiến trình bành trướng tích cực ở biển Đông của các cường quốc phương Tây, đã buộc lòng giảm bớt những hạn chế đối với ngoại thương, đối với việc ra nước ngoài, và cho phép cả việc tuyển mộ công nhân trong nước ra làm việc ở ngoại quốc. Tất nhiên là tác động của những chuyển biến trên, đối với các cộng đồng người Hoa ở các nước Đông Nam Á là không như nhau. Chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất là cộng đồng người Hoa ở Miến Điện và Việt Nam. Sau khi những toán lính Trung Quốc, cùng với một trong những hậu duệ cuối cùng của nhà Minh bị lật đổ, chạy sang lánh nạn ở Miến Điện trước sức ép nặng nề của quân Mãn Châu thắng trận, quân Thanh trong suốt thế kỷ XVII đã nhiều lần xâm nhập vào lãnh thổ Miến Điện nhằm thanh toán những ổ kháng Thanh xuất hiện ở đó. Trong những năm 1765 - 1769 quân Thanh lại xâm nhập lãnh thổ Miến Điện, lần này với một mục đích rõ ràng hơn - chinh phục xứ này, nhưng đã bị người Miến đánh lui. Cứ mỗi lần lui binh như vậy, một số ít quân lính Trung Quốc đã tìm cách ở lại và hòa nhập vào số người Hoa đã có mặt sẵn. Đến đầu thế kỷ XIX, theo lời tường thuật của các nhà lữ hành châu Âu, người ta trông thấy những nhóm người Hoa không đông lắm sinh sống bằng nghề buôn bán ở các đô thị chính trong nước, như Ava hay Amarapura. Trong một thời gian dài, người Hoa còn được các vua Miến Điện cho phép khai thác các mỏ bạc hay mỏ đá quý. Việt Nam tiếp đón một khối lượng người Hoa chạy nạn đông đảo hơn nhiều so với Miến Điện. Năm 1679, một đạo quân khoảng 7.000 người cùng với gia đình họ chạy trốn quân Mãn Châu trên 50 chiếc thuyền đã cập vào bờ biển miền Trung Việt Nam. Họ đã xin chúa Nguyễn cho phép được tị nạn. Lúc bấy giờ chúa Nguyễn đang cố gắng mở rộng bờ cõi về phía Nam. Đám người Hoa tị nạn đã được hướng dẫn đến định cư ở vùng Đông Phố. Từ đây, họ phân tán xuống miền Tây Nam bộ (Mỹ Tho) hay miền Đông Nam bộ (Biên Hòa) ( ). Năm 1715, thêm một nhóm đông đảo người Hoa tìm đến lánh nạn ở miền Nam Việt Nam cũng bằng đường biển. Cầm đầu họ là một viên quan đại thần tên Mạc Cửu. Họ được phép đến định cư tại một vùng ở tận cùng dãi đất phía Nam tức Hà Tiên, và được hưởng quy chế tự trị. Được sự khai phá của họ, Hà Tiên dẫn đầu trở thành trung tâm thương mại, tiểu thủ công nghiệp và văn hóa. Con trai của Mạc Cửu đã lập hội tao đàn, phổ biến học thuyết Khổng Tử. Tất cả những hoạt động này đã nhận được sự khuyến khích của các chúa Nguyễn ( ). Từ thế kỷ XVIII, người Hoa khi tìm sang Việt Nam thường đến miền Nam (tức Đàng Trong). Lý do có thể là các chúa Nguyễn đã tạo cho họ nhiều điều kiện thuận lợi hơn so với miền Bắc (tức Đàng Ngoài). Chúa Nguyễn hy vọng họ sẽ trở thành chỗ dựa xã hội và chính trị ở vùng đất mới, nơi số người Việt hãy còn ít ỏi so với các dân tộc bản địa, vốn chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa khác. Trong khi đó ở Đàng Ngoài, vua Lê và sau đó chúa Trịnh lại thi hành chính sách chèn ép các di dân người Hoa. Họ không được phép tự do đi lại trong nước, thương nhân người Hoa chỉ được buôn bán ở các địa điểm đã được quy định sẵn. 12
  14. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á Người Hoa không những phải tuân theo các phong tục tập quán của người Việt Nam, mà họ còn bị buộc mặc quần áo và để đầu tóc như người bản xứ. Số thợ người Hoa làm việc ở những nơi khai thác quặng mỏ, đặc biệt là quặng bạc bị giới hạn. Tuy nhiên, như các nguồn sử liệu thời đó cho thấy lệnh này thường không được tuân thủ nghiêm ngặt. Dù bị cấm đoán, tại mỏ bạc Đồng Thịnh số công nhân người Hoa lên đến 10.000. Các di dân người Hoa sống lẫn lộn với người địa phương. Họ mở các hiệu buôn và quán ăn. Dù không được phép sống ở Thăng Long, họ vẫn tìm cách mở các quán hàng ở đây (1). Trong khí đó, các chúa Nguyễn lại theo đuổi một chính sách khác hẳn. Họ cho phép di dân người Hoa được tự do ghé lại tất cả các cảng. Ở cảng Hội An trên sông Thu Bồn xuất hiện các điểm cư trú của thương nhân và thợ thủ công người Hoa. Ở các thị trấn, di dân người Hoa được phép sống quần tụ thành từng khu riêng biệt và được phép tự quản theo các truyền thống, lề thói lâu nay của người Trung Quốc. Quá trình xây dựng các thị trấn mới ở miền Nam từ thế kỷ XVIII đều diễn ra với sự tiếp tay của người Hoa. Trong thời kỳ diễn ra cuộc nổi dậy của phong trào Tây Sơn chống chúa Nguyễn, cư dân đô thị người Hoa do sợ mất đi sự đỡ đầu của chính quyền, đã không ủng hộ phong trào. Vì lẽ này, họ đôi khi phải trả giá đắt. Nhiều nơi cư trú của họ đã bị quân Tây Sơn đốt trụi, riêng ở Chợ Lớn không dưới một vạn người Hoa bị giết ( ). Năm 1802, triều Tây Sơn bị tiêu diệt. Triều đại mới lên cầm quyền là nhà Nguyễn. Một trong những sắc chỉ đầu tiên của chính quyền mới là thu hút các sĩ phu người Hoa vào làm trong bộ máy công quyền và quân đội ( ). Ở Campuchia, người Hoa bắt đầu tìm đến định cư từ cuối thế kỷ XVII. Một số người Hoa sau khi đến Mỹ Tho đã ngược dòng Cửu Long đi sâu vào bên trong lãnh thổ Campuchia. Một vùng khác ở xứ này có số người Hoa đáng kể là tỉnh Kampot nằm bên bờ vịnh Xiêm La. Cai quản họ không ai khác hơn chính là Mạc Cửu, được vua Campuchia phong cho chức Tổng đốc. Lãnh thổ thuộc quyền cai trị của ông này trải dài từ Kampot đến Cà Mau ( ). Người Hoa ở các miền này sống chủ yếu trong các thị trấn và làm nghề buôn bán. Họ kiểm soát hầu hết các hoạt động mậu dịch giữa Việt Nam và Campuchia. Năm 1859, Mouhot, một khách du hành người Pháp, khi viếng Kampot đã ghi nhận rằng trong thị trấn có 3.000 cư dân này, người buôn bán ở chợ chủ yếu là người Hoa và một số ít người Âu, còn trong số 10.000 cư dân Phnompenh, người Hoa chiếm đại bộ phận. Thương nhân người Hoa sinh sống trên lãnh thổ Campuchia bị buộc phải cung cấp các khoản chi phí dùng vào việc tiếp rước các quan chức địa phương, đài thọ việc tổ chức các lễ hội của người bản xứ... Ngoài ra, họ còn phải đóng thuế tương xứng với số tài sản của mình, thuế hành nghề ngoại thương, buôn bán ngoài chợ... Trong cộng đồng di dân người Hoa ở Campuchia, có một số không nhiều sinh sống bằng nghề nông : họ trồng bông và tiêu. Sản phẩm của họ được mang ra bán ở chợ. Như vậy, nông dân người Hoa xét theo khía cạnh này vẫn rất khác nông dân bản xứ, vốn vẫn canh tác trong khuôn khổ một nền kinh tế tự nhiên. Theo luật lệ Khmer, người Hoa sinh sống ở Campuchia được coi là thần dân của nhà vua, nhưng họ được bầu người đứng đầu cộng đồng. Ông này chịu trách nhiệm thu thuế và giữ gìn trật tự. Họ được miễn các nghĩa vụ lao dịch và binh dịch, 1 Fujiwara Ruchiro. Chính saùch ñoái vôùi daân Trung Hoa di cö cuûa caùc trieàu ñaïi Vieät Nam. 13
  15. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á đồng thời có thể giữ các chức vụ trong bộ máy công quyền bằng cách mua các chức quan. Dù người Hoa ở Campuchia có các tổ chức cộng đồng riêng của mình, họ không sống khép kín, mà thường xuyên quan hệ với người địa phương. Cho đến nửa sau thế kỷ XIX, số người Hoa sinh sống ở Lào là rất ít. Họ chủ yếu là con cháu của người Hoa đến đây định cư trong các thế kỷ XV - XVII. Cộng đồng của họ sau này có phát triển lên ít nhiều là nhờ mở rộng các quan hệ mậu dịch với người láng giềng phía bắc. Như vậy, có thể nhận thấy rằng trên lãnh thổ bán đảo Đông Dương đã diễn ra quá trình hình thành các cộng đồng sắc tộc người Hoa như là một bộ phận cấu thành bền vững của xã hội đa sắc tộc. Nó diễn ra một cách tự nhiên, không gây ra những chấn động xã hội hoặc chính trị lớn. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIV, quá trình vừa kể kéo dài vài thế kỷ, trong đó các thế hệ người di dân từ Trung Quốc sang và dân bản địa sống hòa lẫn vào nhau một cách tự nhiên. Giữa họ không diễn ra các cuộc va chạm đáng kể nào, hay có những xung khắc về văn hóa hoặc tôn giáo không thể hoà giải được. Hơn thế nữa, họ còn được gắn kết với nhau bằng những quyền lợi chung nhất định, mặc dù họ vẫn giữ gìn những nét đặc sắc xã hội - văn hóa, và bằng những nét đặc thù trong nếp sinh hoạt hàng ngày của mình. Chẳng hạn, như di dân người Hoa ở Xiêm La trong nửa sau thế kỷ XVIII đã tích cực tham gia vào hoạt động đấu tranh quân sự nhằm giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của Miến Điện. Tuy nhiên, tiến trình hòa nhập một cách tự nhiên này đã bị phá vỡ sau khi chủ nghĩa tư bản thực dân phương Tây xâm nhập vào Đông Nam Á và biến các quốc gia trong vùng thành các thuộc địa hay nước phụ thuộc. Số phận của các nhóm sắc tộc người Hoa cũng bị biến cố này tác động rất mạnh. 14
  16. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á CHƯƠNG II SỰ HÌNH THÀNH CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA TRONG THỜI KỲ TƯ BẢN THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY XÂM CHIẾM ĐÔNG NAM Á (Thế kỷ XVI - Thế kỷ XIX) ________________________________ 1. MỐI QUAN HỆ KINH TẾ GIỮA NGƯỜI HOA VÀ TƯ BẢN THỰC DÂN CHÂU ÂU. Sự xâm nhập của tư bản thực dân phương Tây vào các nước Đông Nam Á đã tác động mạnh đến toàn bộ tiến trình hình thành các cộng đồng người Hoa trong vùng. Tất cả đều thay đổi : nhịp độ và động lực của các đợt di dân, nhưng thay đổi chính yếu nằm trong cấu trúc xã hội, địa hạt sinh sống, phong cách sinh hoạt của các cộng đồng người Hoa và tính chất các mối quan hệ giữa họ với dân bản địa. Di sản của một thời kỳ dài bị thực dân thống trị vẫn còn để lại những ảnh hưởng tiêu cực đến diện mạo xã hội của các cộng đồng người Hoa, đến nhận thức xã hội của hậu duệ của các di dân người Hoa đầu tiên và đến các mối quan hệ phức tạp hiện nay giữa Hoa kiều và dân bản địa Đông Nam Á. Khi những thực dân châu Âu đầu tiên xuất hiện ở Đông Nam Á trong thế kỷ XVII, họ đã bị những thương nhân người Hoa định cư ở đây từ lâu tiếp đón với thái độ thù địch. Trước đó, thương nhân người Hoa đã phải cạnh tranh với nhiều thương nhân ngoại quốc khác - Ấn, Ả Rập, Nhật. Nhưng cạnh tranh với người Bồ Đào Nha, Hà Lan và những người Âu khác là chuyện khó khăn hơn nhiều. Vì những thương nhân Âu này thường đi chung với những đạo quân được trang bị hùng hậu. Nhờ đó, họ dễ dàng đánh chiếm các cứ điểm, để rồi biến chúng thành các thương điếm riêng lẻ, và cuối cùng mở rộng ra thành các khu thuộc địa thị tứ rộng lớn. Họ cũng khuất phục không ít các qúy tộc địa phương bằng nhiều cách khác nhau : mua chuộc hay vũ lực. Và hoạt động kinh doanh của họ cứ thế phát triển mạnh lên trước con mắt ganh tỵ của thương nhân người Hoa. Nhưng dần dà với thời gian , hai bên phát hiện ra rằng có những lĩnh vực nhất định mà sự cộng tác giữa hai bên sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả hai. Các thương nhân châu Âu cần có một số lượng ngày càng lớn những hàng hóa đã được họ tuyển chọn, nhưng không thể thu mua đủ số vì vấp phải nhiều trở ngại - bất đồng ngôn ngữ, không thông hiểu tập quá địa phương hay lề thói mua bán. Trong khi đó, cấu trúc xã hội ở các nước Đông Nam Á chưa phân hóa đủ sâu sắc để cho ra đời tầng lớp thương nhân chuyên nghiệp bản xứ. Vậy là vai trò của các thương nhân người Hoa với kinh nghiệm mua bán nhiều năm với dân địa phương đã được xác lập như là người trung gian giữa thương nhân châu Âu với nông dân, thợ thủ công và đôi khi phong kiến bản địa. Ngoài ra, cũng bởi nguyên nhân tương tự, không ít thương nhân trung gian người Hoa trở thành người thầu thuế và thuế quan ở các vùng bị người Âu chiếm làm thuộc địa. Do đó, không đáng ngạc nhiên nếu dân địa phương không ít lần tỏ thái độ khinh ghét đám thương nhân giàu có người Hoa. Chính họ định giá hàng hóa, cho vay nặng lãi, đã thế lại còn làm người phò tá trực tiếp cho bọn xâm lược Âu đáng ghét. Họ quên rằng họ cũng là người nước ngoài, theo một tín ngưỡng xa lạ, nói tiếng nói khác, sống theo những phong tục, tập quán lạ lùng đối với người địa phương, mặc những bộ đồ không giống như họ. Trong khi chỉ mỗi một trong số những khác biệt vừa kể cũng đủ gây mối ác cảm nơi người bản xứ. 15
  17. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á Trên đây là đại thể số phận của những di dân người Hoa và mối quan hệ giữa họ với người bản xứ. Nếu đi sâu vào chi tiết, ta sẽ thấy trong từng nước Đông Nam Á, chúng chịu sự tác động của nhiều yếu tố thuộc bản chất của chế độ thuộc địa, những thay đổi trong sinh hoạt kinh tế và phương pháp bóc lột thuộc địa. Do đó, chúng có những nét riêng biệt ở từng nước cụ thể. Sau khi người Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ XVI xâm chiếm Philippines, nguồn kích thích chính khiến người Hoa tìm đến sinh sống ở đây là nền thương mại thương thuyền. Các thương nhân Tây Ban Nha dùng thuyền chở bạc từ Mexico đến quần đảo. Tại đây, họ mua lụa được mang từ Trung Quốc sang và chở đến Mexico bán lại. Theo cách nói của một nhà sử học người Mỹ, "nhu cầu của Mexico đối với lụa của Trung Quốc là không giới hạn, còn sự thèm muốn của thương nhân Trung Quốc đối với bạc của châu Mỹ thì không bao giờ được thỏa mãn". Đầu những năm 80 của thế kỷ XVI, một khu đất bên bờ sông Pasig ở Manila được dành riêng cho người Hoa đến tụ hội buôn bán, đó là khu "Parian" ("Chợ lụa"). Tại đây, thương nhân Hoa đã kéo đến mở cửa hàng, thợ thủ công mở xưởng thợ - đóng thuyền, làm đồ đạc, làm bánh mì... Ngoài ra, cũng có người làm nghề đánh cá, làm vườn, thợ mộc, thợ nề. Ngay trong khoảng thời gian này, khu Parian đã quy tụ từ 6 đến 7.000 người Hoa, trong đó từ 3 đến 4.000 sinh sống thường xuyên. Tất cả những công trình kiến trúc bằng đá ở Manila đều được dựng lên bằng bàn tay của người thợ Trung Quốc. Người Hoa còn buôn bán hàng hóa ngoại quốc. Họ cung cấp cho người Tây Ban Nha và những người dân Manila khác lương thực, mà họ thu mua từ các miền quê chung quanh. Như vậy, có thể nói rằng trong buổi đầu xây dựng và phát triển của nó, Manila - trung tâm quyền lực của chế độ thực dân Tây Ban Nha ở Philippines - đã dựa chủ yếu vào bàn tay của di dân người Hoa. Công ty Đông Ấn của Hà Lan, để xác lập độc quyền buôn bán gia vị ở vùng quần đảo Indonesia trong thế kỷ XVII, lúc đầu đã kiên trì đấu tranh chống những kẻ cạnh tranh thuộc nhiều nước khác nhau, trong đó có cả người Hoa đã định cư từ trước đó trên quần đảo. Nhưng những lãnh đạo Công ty mau chóng hiểu ra rằng di dân người Hoa có thể thủ giữ một vai trò có ích nào đó. Chẳng hạn, đôi lúc họ là người phiên dịch trong các cuộc đàm phán giữa người Hà Lan với giới thống trị địa phương, hoặc trở thành người cung cấp lương thực, bởi vì người bản địa đôi khi từ chối buôn bán với những kẻ xâm lược. Chính quyền thuộc địa do đó đã khuyến khích sự gia tăng dân số người Hoa ở những vùng bị nó thống trị. Chẳng hạn nếu số dân cư người Hoa ở Batavia trong năm 1619 không vượt quá 400 người, thì trong năm 1629 nó đã lên đến 2.000 và đến năm 1725 đã lên tới 10.000 ( ). Trong những năm 20 của thế kỷ XVII, chính quyền thực dân Hà Lan chính thức cho phép người Hoa được buôn bán lẻ trên đảo Java. Giải thích những lý do cho phép người Hoa sống tại địa phương được hành nghề buôn bán, Toàn quyền Hà Lan Koon nói rằng khả năng của họ trong lĩnh vực này "vượt xa khả năng của người Hà Lan". Người Hoa cũng được phép thực hiện những chuyến buôn hàng hải giữa Trung Quốc và Java, hoặc buôn bán ven bờ biển hay giao dịch với Batavia - pháo đài chính của Hà Lan (1). Như nhà kinh tế học người Anh Cator đã nhận xét, thương nhân Hoa bám theo ngọn cờ của Hà Lan ; việc mở rộng quyền thống trị của Hà Lan trong quần đảo Indonesia "luôn luôn đi kèm với việc xuất hiện các thương điếm mới của người Hoa". 1 Purcell V., Sñd, p.396. 16
  18. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á Chính quyền Hà Lan đảm bảo cho người Hoa an ninh cá nhân, quyền tư hữu, những điều kiện thuận lợi để kinh doanh cả trong lĩnh vực thương mại, lẫn trong việc xây cất các công trình quân sự và chổ ở. Được Công ty giúp đỡ, người Hoa đã tổ chức ngành công nghiệp chế biến đường mía. Năm 1710, chỉ quanh Batavia đã có đến 130 nhà máy đường, với trên 25.000 công nhân, trong đó có gần 7.000 người Hoa. Có thể nói vào thời đó người Hoa kinh doanh trong ngành sản xuất đường có vị thế kinh tế xem ra vững chắc hơn người bản xứ sản xuất cà phê ( ). 2. NHỮNG VA CHẠM BAN ĐẦU GIỮA NGƯỜI HOA VÀø THỰC DÂN CHÂU ÂU. Nhưng dần dà với thời gian quan hệ sống chung cùng có lợi giữa di dân người Hoa và thực dân châu Âu đã tỏ ra không bền vững và nhường chỗ cho những cuộc va chạm gắt gao giữa họ với nhau ở cả Philippines lẫn Indonesia. Ở Philippines, số di dân người Hoa tăng lên nhanh chóng (đầu thế kỷ XVII con số này đã là vài chục ngàn) đã bắt đầu làm chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha lo lắng. Đã có nhiều biện pháp khe khắt chống họ được đưa ra . Họ bị đánh những khoản thuế rất nặng, bị cấm làm một số nghề nhất định, chẳng hạn như buôn bán lẻ và bị hạn chế đi lại trong phạm vi lãnh thổ quần đảo. Bất kỳ mưu toan phản đối nào từ phía họ cũng đều bị trấn áp thẳng tay. Năm 1657, Toàn quyền Telo ra lệnh trục xuất khỏi Manila tất cả những người Hoa "dư thừa", chỉ để lại trong thành phố không quá 3 - 4.000 người, đủ để đảm bảo sinh hoạt kinh tế. Khu Parian bị đốt phá, tài sản của người Hoa sống ở đây hầu như bị phá tiêu. Những mệnh lệnh trục xuất người Hoa vốn được công bố nhiều lần từ thế kỷ XVII - XVIII, thường kèm theo những hoạt động ruồng bố và thảm sát. Chỉ trong năm 1603 có đến gần 25.000 bị tống xuất vào khu rừng núi tỉnh Pampanga. Tại đây, số lớn đã bị giết. Năm 1639, khu Parian lại bị đốt phá và có đến 22.000 người Hoa bị giết. Nhưng mệnh lệnh trục xuất người Hoa chỉ sau một thời gian bị bãi bỏ, vì nền thương mại bằng thuyền đổi bạc Mexico lấy hàng Trung Quốc là nguồn sinh lợi cho các viên chức thuộc địa Tây Ban Nha. Đến giữa thế kỷ XVIII, khi nền thương mại bằng thuyền dần dà tàn lụi, sự quan tâm của chính quyền thuộc địa đối với hàng hóa của Trung Quốc giảm dần, cộng đồng người Hoa lại một lần nữa bị đối xử khe khắc. Đến năm 1766, đa số người Hoa bị trục xuất khỏi quần đảo. Chỉ còn lại vỏn vẹn gần 5.000, hơn nữa họ chỉ được sống trong những vùng cận Manila và bị buộc phục vụ người Tây Ban Nha. Từ thời điểm này, vị thế kinh tế của người Hoa lai - tức con cháu sinh ra từ các cuộc hôn phối giữa những người đàn ông Hoa và các phụ nữ địa phương - bắt đầu được củng cố. Đầu thế kỷ XIX, trên toàn lãnh thổ Philippines chỉ có khoảng 7.000 người Hoa sinh sống, trong lúc số người lai lên đến hơn 119.000. Nhiều người trong số này đã theo đạo Công giáo. Họ lại được chính quyền thuộc địa cho hưởng nhiều ưu đãi về thuế và tư pháp hơn so với người Hoa. Họ thu mua nông sản để xuất ra bên ngoài, làm nghề cho vay lãi và buôn bán lẻ ở vùng ven. Ở Indonesia, tình trạng căng thẳng trong quan hệ giữa người Hà Lan và di dân người Hoa diễn ra trong những năm 30 - đầu những năm 40 của thế kỷ XVIII. Tình trạng này gắn liền với con số di dân người Hoa đổ sang đây lên cao và không phải lúc nào cũng tìm được việc làm. Vào năm 1733, chỉ riêng ở Batavia và vùng phụ cận đã có không dưới 8 vạn người Hoa sinh sống ( ). Tình cảnh của họ thêm phức tạp do nhà Thanh năm 1728 cấm mọi người Hoa đi ra nước ngoài một cách bất hợp pháp được quay về tổ quốc. 17
  19. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á Chính quyền thuộc địa Hà Lan, về phần mình, lo sợ số di dân dồn tụ quá đông, đã thắt chặt chính sách đối với di dân người Hoa sinh sống trên đảo Java. Họ bị cấm "đi lang thang", nghĩa là đi lại trong nước tìm việc làm, hoặc mở cửa hàng mới. Thương nhân bị đánh thuế rất nặng. Chỉ những lỗi lầm nhỏ cũng đủ để người Hoa bị trừng phạt nghiêm kkhắc. Không có lệnh viết tay của chính quyền thuộc địa, người Hoa không có quyền đi ra khỏi phạm vi thị trấn, nơi họ đang sống. Bất kỳ người Hoa nào không đưa ra được câu trả lời thỏa đáng về nguồn gốc phương tiện sinh sống của họ đều sẽ bị tịch thu của cải và bị trục xuất đến các thuộc địa khác của Hà Lan, đến đảo Banda, Ceylan hay Mũi Hảo Vọng. Những biện pháp trừng phạt, đi kèm với các hành động nhũng nhiễu của các viên chức thuộc địa, đã khiến cộng đồng di dân người Hoa rất bất bình và năm 1740 đã đưa đến những cuộc bạo loạn. Chính quyền thuộc địa Hà Lan đã trấn áp thẳng tay những kẻ bất bình: gần một vạn người Hoa bị giết ( ). Sau những biến cố bi thảm này, ở Batavia chỉ còn lại không hơn 3.000 người Hoa. Thêm vào đó những biện pháp trừng phạt đã đưa ra trước đây vẫn được giữ nguyên: người Hoa chỉ được sống trong những khu phố và địa điểm riêng lẻ, do chính quyền quy định, phải có phép đặc biệt mới được đi đến những thành phố khác. Đồng thời những biến cố năm 1740 tỏ cho thấy người Hoa giữ một vị thế vững chắc trong sinh hoạt kinh tế ở thuộc địa, rằng họ thật cần thiết trong vai trò là người trung gian cả cho người Hà Lan, lẫn cho người dân bản địa. Do đó, vào khoảng năm 1742, sau khi những cuộc chống đối của người Hoa bị dập tắt, chính quyền thuộc địa đã tuyên bố lệnh ân xá, còn ban quản lý Công ty Đông Ấn cam kết sẽ quan tâm đến quyền lợi của họ trong những địa hạt hoạt động mà họ được phép. Nhờ vậy, trong nửa sau thế kỷ XVIII tổng số người Hoa và hoạt động kinh tế của họ đã được phục hồi. 3. CHẾ ĐỘ TRƯNG THUẾ VÀ NGƯỜI HOA. Trong những năm sau đó, ở các nước thuộc địa Đông Nam Á vị thế kinh tế của tầng lớp trên trong cộng đồng người Hoa được tăng cường không chỉ và cũng không phải hoàn toàn nhờ mở rộng hoạt động kinh doanh, mà chủ yếu nhờ được phép mở rộng độc quyền trưng thuế. Trong các thế kỷ XVII - XIX, chế độ trưng thuế được thực hiện trong hầu hết các nước trong vùng, đặc biệt là ở Indonesia. Thực ra việc giao cho các cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định quyền trưng thuế, hoặc độc quyền sản xuất, hoặc bán các loại sản phẩm nào đó đã từng được thực hiện ở trong vùng từ trước đó. Nhưng chế độ này phát triển rộng rãi nhất trong nửa sau thế kỷ XVIII, mà trong đó người Hoa thường thủ giữ vai trò người thu mua hoặc trưng thuế. Người trưng thuế thu thuế thương nghiệp ở các chợ và thu mua sản phẩm do dân địa phương làm ra. Không bị ai kiểm soát, họ là ông chủ thực sự ở chợ. Người trưng thuế Hoa kiều thời đó nắm cả độc quyền đánh bắt cá trên sông ngòi hay trong vịnh, buôn bán thuốc lá, rượu và thuốc phiện, và cả quyền thu thuế thân. Công ty Đông Ấn, vốn được giao độc quyền chế biến và bán muối, đã giao khoán cho người trưng thuế toàn bộ các làng Java ven biển; dân cư các làng này bị buộc phải hành nghề khai thác muối và bán toàn bộ sản phẩm cho người trưng thuế. Đến cuối thế kỷ XVIII, độc quyền của người trưng thuế được mở rộng ra khắp nhiều vùng. Nhờ vậy, họ đã có thể phát triển các hoạt động kinh doanh của mình. 18
  20. Lịch sử hình thành cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á Năm 1796, trong số 8535 làng nằm dưới quyền cai quản trực tiếp của Công ty, 1134 được giao thác cho người Hoa thu mua. Bằng các hợp đồng đã được ký, người trưng thuế Hoa kiều thực sự nắm quyền cai quản những phần lãnh thổ đáng kể, và họ đã trở thành một thứ phong kiến: dân làng buộc phải nộp thuế đất và những sắc thuế khác, và phải thực hiện cả các nghĩa vụ lao động. Ở trong một tình cảnh đặc biệt nặng nề là dân cư các làng và vùng bị giao khoán thu thuế trong một thời gian ngắn (một hoặc hai năm). Thường quyền trưng thuế ở những nơi này là do người Hoa nhận được từ tay giới chức địa phương, vốn nằm dưới quyền của thực dân Hà Lan. Người trưng thuế cố bằng mọi cách thu được càng nhiều lợi lộc càng tốt, mà hoàn toàn không để tâm đến tình cảnh của dân cư các địa phương thuộc quyền họ. Họ sử dụng những kẻ đánh thuê có vũ trang, một thứ "cảnh sát tư", để khuất phục dân làng. Với một chế độ trưng thuế như vậy, người Hoa cố bòn rút được bao nhiêu thì bòn rút. Cách trưng thuế kiểu này đã làm khánh tận vô số làng và khiến dân địa phương bất bình. Chỉ trong miền Cheribon từ năm 1718 đến năm 1802 đã xảy ra hàng loạt cuộc bạo động của người dân vì nguyên nhân vừa kể. Đến cuối thế kỷ XVIII, trên đảo Java và Madura có gần 10 vạn người Hoa sinh sống. Thêm vài chục ngàn ở các đảo khác trong cùng thời gian. Con số này cho thấy ở Indonesia đã hình thành một cộng đồng người Hoa khá đông đảo, mà thành viên của nó đã trở thành một bộ phận không thể tách lìa khỏi dân cư Indonesia thuộc Hà Lan. Thực dân đã thành công trong việc xây dựng một chế độ cai trị gián tiếp, nhưng hiệu quả, bằng sự giúp đỡ của các viên chức được tuyển mộ từ trong tầng lớp trên trong cộng đồng người Hoa. Họ phải chịu trách nhiệm trước giới thống trị Hà Lan. Hệ thống này hình thành ngay từ cuối thế kỷ XVIII và tồn tại trong suốt thời kỳ thống trị của Hà Lan ở Indonesia. Đến giữa thế kỷ XIX, chế độ trưng thuế đã trở nên lỗi thời, nhưng những chân trời mới đã mở ra trước các doanh gia người Hoa, vốn đã kịp tích lũy một số vốn không nhỏ. Họ bắt đầu mở rộng hoạt động của mình trong tư cách người cho vay lãi, người trung gian ngành ngoại thương, thu mua rộng rãi các sản phẩm hàng hóa của các đồn điền và sơ chế chúng, bước vào những ngành công nghiệp truyền thống của dân địa phương (chẳng hạn sản xuất vải batik), cạnh tranh với người Hà Lan trong kinh tế đồn điền, mà kết quả là không ít đồn điền lớn đã chuyển sang tay họ. Người Hoa còn thu được những nguồn lợi từ các nhà hút, nhà chứa, sòng bạc, mà họ là chủ ( ). Vào khoảng thời gian này ở Indonesia xét về mặt xã hội - văn hóa, cộng đồng người Hoa đã bị phân cách rõ rệt thành hai loại, mà tiếng địa phương gọi là "peranakan" và "totok". Nhóm đầu bao gồm những người Hoa sinh ra ở Indonesia và chuyển sang dùng hoàn toàn tiếng địa phương, kể cả trong quan hệ gia đình, và đi theo các chuẩn mực văn hóa của dân bản địa sống chung quanh. Loại thứ hai là những người Hoa địa phương vẫn sử dụng tiếng Hoa khi giao tiếp với nhau, dù là được sinh ra ở Trung Quốc hay ở Indonesia (trong đa số trường hợp đây là những di dân thuộc thế hệ thứ nhất hoặc thế hệ thứ hai). Peranakan và totok đã và đang sống (tức cho đến nay thành những cộng đồng riêng biệt, cả về mặt lãnh thổ cũng như xã hội: họ không thích giao tiếp với nhau, và lắm khi không có thiện cảm với nhau). Dù vậy, cả hai giới vẫn tự coi họ là người Hoa và xét về thực chất là một cộng đồng sắc tộc duy nhất. Trong chuyện này, người Indonesia (và chính quyền Hà Lan trong thời thuộc địa) cũng coi cả hai nhóm đều là người Hoa. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2