intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Đánh giá trẻ khuyết tật trong giáo dục đặc biệt: Chương 2 - ThS. Nguyễn Thị Nguyệt, CN. Trần Thị Hòa

Chia sẻ: Năm Tháng Tĩnh Lặng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

195
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng "Đánh giá trẻ khuyết tật trong giáo dục đặc biệt" chương 2 Mô tả một cách chi tiết quy trình đánh giá trẻ khuyết tật trong giáo dục đặc biệt, phương pháp và công cụ đánh giá trẻ khuyết tật. Mời các bạn cùng tham khảo để nắm bắt nội dung chi tiết của bài giảng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Đánh giá trẻ khuyết tật trong giáo dục đặc biệt: Chương 2 - ThS. Nguyễn Thị Nguyệt, CN. Trần Thị Hòa

  1. Chương II. QUÁ TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRẺ KHUYẾT TẬT TRONG GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT Mục tiêu dạy học: Sau khi học xong chương này, sinh viên phải: - Nắm vững các khái niệm: Khám sàng lọc, chẩn đoán. - Nắm vững về các phương pháp và công cụ khám sàng lọc và chẩn đoán - Hiểu rõ về các loại đánh giá để lập kế hoạch can thiệp, đánh giá tiến bộ, đánh giá cuối kỳ. - Có kỹ năng sử dụng các phương pháp đánh giá trẻ khuyết tật. - Có thái độ nghiêm túc, cẩn thận khi đánh giá để đạt được kết quả đánh giá chính xác, khách quan. Hướng dẫn tự học: Nghiên cứu, nắm vững những giai đoạn và các phương pháp đánh giá trẻ khuyết tật. Xác định được các thời điểm và các công cụ đánh giá phù hợp. - Khám sàng lọc là gì? Mục đích của việc khám sàng lọc? - Các phương pháp và công cụ khám sàng lọc? - Chẩn đoán? Các nguyên tắc cần đảm bảo khi chẩn đoán. - Các phương pháp và công cụ chẩn đoán? - Nghiên cứu các test chuẩn. - Tập thiết kế các bài tập đánh giá. - Rèn luyện kĩ năng đánh giá thông qua các bài tập thực hành. - 35 -
  2. 1. KHÁM SÀNG LỌC. 1.1. Khái niệm khám sàng lọc Các trắc nghiệm khám sàng lọc là công cụ đo rất đơn giản và nhanh gọn. Mục đích chính của công việc khám sàng lọc là để thu thập những thông tin ban đầu nhằm phát hiện xem trẻ có những đặc điểm khác biệt so với những trẻ khác không và liệu có đòi hỏi các nhà chuyên môn phải tiến hành đánh giá kỹ lưỡng hơn không. Việc khám sàng lọc không nhằm mục đích thu thập thông tin để đưa ra những quyết định giáo dục cụ thể hay để giải thích vì sao trẻ có những biểu hiện chậm phát triển như được quan sát thấy. Việc khám sàng lọc sẽ giúp quyết định liệu một học sinh có cần được đánh giá kỹ lưỡng hơn từ những nhà chuyên môn khác như vật lý trị liệu, trị liệu về nghe, chỉnh trị về âm để lựa chọn môi trường giáo dục đặc biệt phù hợp hay không. Thường thì trong khi khám sàng lọc, các bác sĩ và nhà tâm lý sử dụng các công cụ khám sàng lọc đối với trẻ rất nhỏ có những biểu hiện chậm trong sự phát triển. Tuy nhiên, nhiều trẻ CPTTT mức độ nặng và rất nặng không cần phải trải qua những cuộc kiểm tra như thế này vì chúng đã có những biểu hiện khuyết tật thể hiện ra bên ngoài rất rõ. Đối với những trẻ như thế đánh giá được bắt đầu bằng quá trình chẩn đoán. Các công cụ khám sàng lọc phải bao gồm việc kiểm tra của nhiều lĩnh vực khác nhau như thị lực, thính lực, các mốc của sự phát triển tâm lí. Các công cụ này thường không có hiệu lực đối với những trẻ lớn tuổi hơn vì chúng chỉ kiểm tra được các mốc phát triển trong độ tuổi nhỏ và không giúp gì cho việc xây dựng chương trình giáo dục. Khám sàng lọc là một công việc quan trọng và hết sức có ý nghĩa, đặc biệt là ý nghĩa cho triển vọng phát triển đối với những em được sàng lọc, phát hiện sớm. Có thể nói, phát hiện sớm, can thiệp sớm là hoạt động tiên phong, có giá trị cốt lõi đối với sự phát triển trong tương lai của những trẻ khuyết tật. Vai trò của người giáo viên chính là việc phát hiện những học sinh có nguy cơ từ độ tuổi rất bé thông qua các quan sát và so sánh về sự phát triển giữa các em cùng tuổi trong lớp để từ đó giúp cha mẹ tìm đến dịch vụ khám sàng lọc, chẩn đoán phù hợp. Một số công cụ khám sàng lọc được giới thiệu ở đây giáo viên cũng có thể thực hiện được, điều đó càng làm tăng thêm vai trò quan trọng và chủ động của người giáo viên. 1.2. Phương pháp và công cụ khám sàng lọc 1.2.1. Các công cụ khám sàng lọc trước khi sinh: Khám sàng lọc có thể được bắt đầu từ rất sớm ngay từ giai đoạn mang thai. Các biện pháp để khám sàng lọc trong giai đoạn này có thể là thử nghiệm Alpha Fetoprotein (tuần thứ 15 hoặc 18 trong thai kỳ) việc phân tích nước ối (tuần thứ 14 –18 hay trễ hơn) hay tế bào nhau thai (6 –8 tuần) để phát hiện sớm những rối loạn gen hay nhiễm sắc thể, cũng có thể là hoạt - 36 -
  3. động khám thai định kì của các bà mẹ, thông qua biện pháp siêu âm, rất nhiều bệnh hay hội chứng liên quan tới tật CPTTT có thể được phát hiện sớm từ khi trẻ còn trong bụng mẹ: tật nứt đốt sống cổ, hội chứng đao (Down)… Đây là công việc chủ yếu thuộc về vai trò của bác sĩ. 1.2.2. Các công cụ khám sàng lọc ngay sau khi sinh: Khám sàng lọc cũng cần thiết ngay sau khi đứa trẻ sinh ra để phát hiện sớm những vấn đề về nội tiết, trao đổi chất, các khuyết tật bẩm sinh dễ quan sát thấy và những rối nhiễu về di truyền khác. Một trong những công cụ mà bác sỹ hay sử dụng là cách tính điểm APGAR và thang đánh giá hành vi ở trẻ sơ sinh của Brazelton (Brazelton neonatal behavioral scale – BNBS) Hệ thống thang điểm của APGAR cho phép đánh giá nhanh chóng tình trạng sức khẻo của trẻ sơ sinh ngay sau thời điểm nó được sinh ra. Nó đánh giá các biểu hiện sau ở trẻ: nhịp tim, phản xạ hô hấp, trương lực cơ và các biểu hiện chung sau 1 phút, 5 phút, 10 phút đầu tiên sau khi chào đời. BNBS bao gồm 27 phép đo đạc hành vi ở trẻ sơ sinh. Công cụ này đo các biểu hiện: mức độ tỉnh táo, hoạt bát, các hoạt động tự trở nên bình tĩnh (nín khóc), mỉm cười, các đặc điểm của giấc ngủ và những hành vi điển hình khác của trẻ sơ sinh (ví dụ cách trẻ sơ sinh phản ứng với các yếu tố kích thích khác nhau của môi trường xung quanh như ánh sáng, âm thanh, bị cù vào gan bàn chân…) Với kết quả thu được từ cả hai công cụ này, các bác sỹ sẽ có cơ sở để nghi ngờ về sự bất bình thường trong trạng thái tâm lí của trẻ sơ sinh (nhất là những trẻ có quá trình mang thai không thuận lợi, nhiều nghi vấn hay khi sinh gặp khó khăn (ví dụ như sinh chậm, không khóc ngay…) hay bị tổn thương hệ thần kinh).Tuy nhiên những kết quả thu đựơc từ việc khám sàng lọc không thể được sử dụng cho việc tiên lượng sự phát triển của trẻ trong những giai đoạn ở tương lai xa. 1.2.3. Các công cụ khám sàng lọc sau khi sinh. Những công cụ để khám sàng lọc trẻ em ở độ tuổi lớn hơn hiện đang sử dụng ở Vịêt Nam và trên thế giới là trắc nghiệm khám sàng lọc Denver (Denver Developmental Screening test – DDST), First STEP và một số công cụ khác. Những công cụ này thường đánh giá các lĩnh vực khác nhau của sự phát triển như lĩnh vực cá nhân – xã hội, vận động thô và tinh xảo, ngôn ngữ, kỹ năng tự phục vụ…. Tương tự như những công cụ đã được đề cập đến ở trên, các công cụ này chỉ nhằm phát hiện xem có cần phải tiến hành đánh giá kỹ lưỡng cho trẻ hay không. Để có thể xây dựng được các mục tiêu giáo dục hay nội dung chương trình, cần các công cụ đánh giá khác trong những bước tiếp theo. Sau đây là một số các công cụ khám sàng lọc đơn giản nhất, dễ thực hiện, đồng thời khi tổng hợp các công cụ này chúng ta sẽ có được một hệ thống các công cụ khám sàng lọc có phạm vi lứa tuổi trải dài từ 0 đến 6 tuổi đặc biệt phù hợp để sàng lọc, phát hiện những trẻ có nguy cơ bị chậm phát - 37 -
  4. triển trí tuệ, từ đó có các can thiệp sâu hơn như tiếp tục chẩn đoán để xác định xem các em có bị chậm phát triển trí tuệ hay không, mức độ chậm phát triển trí tuệ như thế nào, và tiến hành can thiệp sớm với các trẻ có nhu cầu. Thang khám sàng lọc bước đầu (FirstSTEP – Screening Test for Evaluating Preschoolerrs). Thang khám sàng lọc bước đầu được dành cho hai nhóm tuổi, nhóm thứ nhất từ 2 tuổi 9 tháng (33 tháng) đến 3 tuổi 2 tháng (38 tháng); nhóm thứ hai từ 3 tuổi 3 tháng (39 tháng) đến 3 tuổi 8 tháng (44 tháng). Thang khám sàng lọc này kiểm tra trẻ ở 5 lĩnh vực: nhận thức, ngôn ngữ, vận động, tình cảm xã hội, hành vi thích ứng; ngoài ra còn có thang đo dành cho cha mẹ hoặc giáo viên đánh giá. Bảng khám sàng lọc sớm – Bản điều chỉnh (Early Screening Inventory – Revised: gọi tắt là ESI-R) Bảng khám sàng lọc ESI-R là bảng sàng lọc dành cho độ tuổi từ 3 đến 6 tuổi, do đặc trưng và sự khác biệt giữa các nhóm trẻ trong dải tuổi này, ESI-R được chia làm 2 bảng sàng lọc sớm nhỏ hơn, bao gồm bảng sàng lọc sớm dành cho trẻ em từ 3 đến 4 tuổi rưỡi (Early Screening Inventory- Preschool, gọi tắt là ESI-P) và bảng sàng lọc sớm dành cho trẻ em từ 4 tuổi rưỡi tới 6 tuổi (Early Screening Inventory- Kindergarten, gọi tắt là ESI-K) Cả ESI-P và ESI-K đều kiểm tra trẻ trên 3 lĩnh vực cơ bản: Thị giác – Vận động; Ngôn ngữ và nhận thức; Vận động thô. Ngoài ra khi thực hiện, trắc nghiệm viên còn cần thu thập một số thông tin liên quan tới khả năng ngôn ngữ và ấn tượng của người kiểm tra về trẻ nhưng không tính điểm phần này. 1.2.4. Một số công cụ sàng lọc. 1.2.4.1.Bộ công cụ sàng lọc ASQ Đánh giá sàng lọc Thủ tục đánh giá ngắn gọn được thiết kế để xác định những trẻ nên được chẩn đoán sâu hơn hoặc được các cơ sở giáo dục hoà nhập hoặc giáo dục chuyên biệt sớm tại địa phương đánh giá. Lợi ích của việc sàng lọc - Xác định trẻ có nguy cơ chậm phát triển - Phát hiện điểm mạnh và nhu cầu của trẻ - Tạo cơ hội để: Gia đình nêu lên những băn khoăn về trẻ; Giáo dục cha mẹ về sự phát triển của trẻ; Trao quyền cho cha mẹ - Xây dựng mối quan hệ và niềm tin với gia đình: giao tiếp được tăng lên, tạo niềm vui cho cha mẹ và nhân viên - Tăng cường kết quả về sức khoẻ và phát triển thông qua dịch vụ can thiệp sớm. - Xây dựng sự hợp tác trong cộng đồng và sự ủng hộ cho nhân viên. Các hoạt động trước khi sàng lọc: - Được đồng ý. - 38 -
  5. - Giải thích mục đích của sàng lọc và xem nội dung câu hỏi - Lên chương trình sàng lọc - Gửi ASQ trước khi đi thám 2 tuần và yêu cầu cha mẹ trẻ xem trước. - Sắp xếp tài liệu nếu thấy (cần thiết) Mô tả ASQ - Bảng câu hỏi về độ tuổi và giai đoạn ASQ là công cụ có thể sử dụng để kiểm tra sự phát triển của trẻ. - Trẻ có thể thực hiện được một số mục chứ không phải là tất cả các mục được yêu cầu. - Có thể giúp trẻ luyện tập các kĩ năng. - Các câu hỏi có thể giúp chỉ ra điểm mạnh và bất kì lĩnh vực nào mà trẻ có thể cần hỗ trợ và luyện tập them. Giải thích hệ thống chấm điểm. - “Có” thể hiện trẻ có thể thực hiện được kĩ năng đó. - “Thỉnh thoảng” thể hiện trẻ chỉ mới bắt đầu thực hiện được hành vi đó - “Chưa” thể hiện trẻ chưa thực hiện được hành vi đó. Tính điếm bộ câu hỏi ASQ - Bước 1: Tính tổng số điểm của mỗi lĩnh vực “có” =10; “thỉnh thoảng” = 5; “chưa” = 0. - Bước 2: Chuyển tổng điểm của từng lĩnh vực sang trang tóm tắt thông tin. Bôi đen vào vòng tròn tương ứng. - Bước 3: Trả lời các câu hỏi ở phần tổng cộng cẩn thận và trả lời thích hợp. - Bước 4: Bất kể điểm nào nằm trong phạm vi hoặc gần phạm vi bôi đen cần phải được chú ý hơn hoặc đánh giá thêm Chú ý: Cố gắng lấy được các câu trả lời từ gia đình. Mỗi mục có thể bỏ 2 câu không trả lời vẫn được chấp nhận. Cách tính: Bước 1: Chia tổng điểm của từng phần cho số câu hỏi được trả lời trong phần đó. (tính điểm trung bình của từng phần) Vd: Trong mỗi phần có 6 câu hỏi. Có 1 câu không trả lời Tổng điểm của phần này là 45 45: 5 = 9 Bước 2: Cộng số điểm trung bình cho mỗi câu vào điểm tổng của phần đó để được tổng điểm mới. 9 +45 = 54 (tổng điểm mới) Phần tổng thể - Không tính điểm nhưng mô tả những lo lắng của cha mẹ - Có tính dự đoán cao - Chú trọng vào chất lượng của các kĩ năng (lời nói, cử chỉ) - Bất cứ câu trả lời nào còn có vấn đề cũng phải được theo dõi. Trang tổng hợp - 39 -
  6. Mỗi trang tổng kết được dành riêng cho từng giai đoạn. Trang tổng kết có 4 phần: - Thông tin về gia đình trẻ - Phần tổng quát - Biểu đồ về cột điểm của 5 lĩnh vực. - Ô trống để chuyển các câu trả lời. Trao đổi về kết quả sàng lọc - Đảm bảo với gia đình rằng trao đổi này là bí mật - Rà soát lại mục đích của khám sàng lọc. - Tránh những từ như “kiểm tra”, “đạt”, “không đạt” - Rà soát lại ASQ và giải thích các điểm theo lĩnh vực - Nhấn mạnh thế mạnh của trẻ và gia đình. - Cung cấp các ví dụ cụ thể về những mối băn khoăn lo lắng. - Mời cha mẹ tham gia quan sát và chia sẻ băn khoăn. - Chuẩn bị cho buổi gặp gỡ thật cẩn thận. + Ghi chép lại các hành vi. + Ghi thông tin mà bạn cần thu thập (tiểu sử sức khoẻ…) từ gia đình. + Tập đóng vai hội thoại với một người khác. + Chọn địa điểm riêng tư và thoải mái. + Lưu ý đến các vấn đề văn hoá và ngôn ngữ + Biết được các nguồn dịch vụ cộng đồng + Hãy bình tĩnh. - Nếu điểm của trẻ thấp hơn điểm chuẩn trong bất cứ lĩnh vực nào: hãy giải thích với gia đình rằng đây là lĩnh vực cầm phải lấy them thong tin về trẻ. Hãy an ủi họ rằng đây chỉ là một phần nhỏ đánh giá kĩ năng của con em họ, và có thể lĩnh vực c phát triển ở trẻ cần thiết phải có chuyên gia xem xét kĩ hơn. - Nếu điểm của trẻ gần với điểm chuẩn: Hãy thảo luận các cách bố mẹ có thể hỗ trợ và tạo điều kiện rèn luyện kinh nghiệm cho lĩnh vực cần cải thiện này. Hãy thảo luận bất cứ thắc mắc nào của gia đình trong phần tổng thể. Hãy đưa ra các gợi ý về các hoạt động, nguồn lực hoặc mạng lưới chuyển tiếp nếu phù hợp. - Nếu điểm của trẻ cao hơn điểm chuẩn: Hãy đưa ra các hoạt động tiếp theo và tiếp tục giám sát 4 - 6 tháng một lần. (Hãy nhớ rằng điền tất cả các câu trong ASQ chỉ ra rằng con bạn đang phát triển một cách phù hợp, không vượt ra khỏi lứa tuổi của trẻ). Giới thiệu từng lĩnh vực đánh giá: - Giao tiếp: Xem xét khả năng ngôn ngữ của trẻ, cả phần trẻ hiểu lời nói và trẻ có thể nói - Vận động thô: xem xét sự chuyển động và điều phối các cơ lớn của trẻ. - Vận động tinh: Xem xét sự chuyển động và điều phối của tay và ngón tay của trẻ. - 40 -
  7. - Giải quyết vấn đề (nhận thức): xem xét việc trẻ chơi đồ chơi và giải quyết vấn đề thế nào. - Cá nhân – xã hộị: Xem xét khả năng tự hỗ trợ và tương tác với những người khác. - Phần tổng hợp: Tổng quát các câu hỏi quan trọng về sự phát triển chung của trẻ, những điều lo lắng có thể có của cha mẹ trẻ. 1.2.4.2.Thang đo BRUNET- LEZINE. Thang đo này được thiết lập bởi Odette Brunet và Irene Lezin, vào năm 1951. Thang đo này dùng để đánh giá mức độ phát triển tâm vận động của trẻ nhỏ, đánh dấu sự chênh lệch có thể có so với trẻ cùng tuổi. Thang này đánh giá được 4 lĩnh vực của 1 trẻ: vận động, phối hợp mắt và tay, ngôn ngữ và xã hội hóa. Thang này đo chỉ số phát triển tổng quát, đánh giá mức độ trưởng thành, kết hợp với quan sát lâm sàng để đưa ra điểm mốc của sự phát triển, giúp nhà điều trị so sánh sự phát triển của trẻ với trẻ cùng lứa, phát hiện sớm một số bất thường trong sự phát triển, giúp cha mẹ hiểu những nhu cầu và khó khăn trong vấn đề phát triển của trẻ. 1.2.4.3. Thang CAPUTE Tác giả của thang đo này là: Pasquale J.Accardo và Arnold J.Capute. Thang đo này bao gồm 2 phần: - CAT: là test nhận thức thích nghi; bao gồm 57 mục, tập trung vào chức năng thị giác - vận động. - CLAMS: là thang đo ngôn ngữ lâm sàng và cột mốc thính giác; gồm 43 mục, tập trung vào sự phát triển diễn đạt và cảm nhận. Thời gian thực hiện từ 6 - 20 phút. Thang đo này dùng để phát hiện chậm phát triển ở trẻ từ 1-36 tháng tuổi. Ứng dụng trong phát hiện rối loạn phát triển của trẻ. + Chậm phát triển tâm thần: Cả CAT và CLAMS đều chậm + Rối loạn giao tiếp: chậm ngôn ngữ diễn đạt CLAMS diễn đạt chậm. + Rối loạn ngôn ngữ: Chậm ngôn ngữ diễn đạt và cảm nhận + Rối loạn tự kỉ:- Chậm ngôn ngữ diễn đạt - Từ 18 - 36 tháng tuổi có 1 trong 3 kiểu ngôn ngữ: Câm nín, chậm nói, ngôn ngữ diễn đạt có vẻ bình thường. + Bại não: Chậm vận động, ngôn ngữ thay đổi, lẫn lộn giữa 2 dạng ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ diễn đạt, nói lung tung mà không hiểu mình nói gì. + Tổn thương thị giác: chậm giải quyết vấn đề không lời và vận động. + Tổn thương thính giác: chậm ngôn ngữ và xã hội. - 41 -
  8. 2. CHẨN ĐOÁN 2.1.Khái niệm chẩn đoán Vào những năm đầu tiên của thế kỉ 20, T.Simon và A.Binet là những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “chẩn đoán tâm lý” và cũng là những người đầu tiên đã xây dựng công cụ trắc nghiệm trí tuệ để phân loại học sinh trong trường học. Trắc nghiệm kiểm tra trí thông minh của các ông được xây dựng theo kiểu hiện đại. Công dụng của những trắc nghiệm này là nhằm phân biệt giữa các trẻ có trí thông minh bình thường và các trẻ cần được giúp đỡ đặc biệt để cho mọi trẻ đều có thể được dạy dỗ phù hợp với khả năng và nhu cầu của chúng. Sở dĩ những trắc nghiệm của hai ông được xem là mang tính chất “chẩn đoán” trước hết là vì nhiệm vụ của nó không chỉ đơn giản là đo mức độ phát triển trí tuệ của những học sinh học kém mà còn để phân biệt những học sinh này theo các kiểu tâm lý – giáo dục nhất định như: những trẻ học kém có sự phát triển trí tuệ bình thường được tách khỏi những học sinh học kém do sự không bình thường về tâm lý gây nên. Nhóm sau lại được chia thành những trẻ chậm phát triển trí tuệ và những trẻ có các dạng rối nhiễu khác. Khi xác định đối tượng của khoa học chẩn đoán tâm lý người ta đã xuất phát từ quan điểm là: Khoa chẩn đoán tâm lý đòi hỏi phải tổ chức việc chẩn đoán tâm lý, và việc chẩn đoán tâm lý dù được đặt ở đâu – trong y tế, trong kỹ thuật, trong quản lí, trong tâm lý học ứng dụng, trong giáo dục thì nó luôn luôn phải là sự tìm kiếm, sự vạch ra những nguyên nhân sâu kín của vấn đề đã được phát hiện, luôn nằm trong những điều kiện của một tập hợp các mối quan hệ nhân quả. Nếu trong việc khảo sát một cá thể nào đó mà không tiến hành tìm kiếm và không đặt ra các vấn đề khắc phục nguồn gốc của vấn đề đã bị phát hiện thì tự bản thân việc sử dụng trắc nghiệm và các thủ tục đo lường tâm lý khác dù là nó đa dạng, mạnh mẽ đến đâu cũng vẫn không có ý nghĩa là việc tiến hành chẩn đoán tâm lý. Như vậy, khái niệm “chẩn đoán tâm lý” sẽ có một số các dấu hiệu đặc trưng sau: - Việc nghiên cứu có tính chất chẩn đoán tâm lý bao giờ cũng có đối tượng là một nhân cách riêng lẻ. - Chẩn đoán tâm lý không diễn ra một cách đơn giản với một cá nhân riêng lẻ, mà chỉ chỉ phục vụ những người mà về hành vi, hoạt động trạng thái tâm lý của họ, người ta đã biết từ trước rằng chúng có những lệch lạc, những thiếu sót nhất định. Trong trường hợp này chúng ta muốn nói đến không chỉ những lệch lạc so với chỉ tiêu (tức là chỉ số trung bình về mặt thống kê) mà cả những lệch lạc so với chuẩn mực (tức là chỉ số được dùng với tư cách là cái mong muốn và thực tế đạt được) của hành chính, của hoạt động học tập… Những lệch lạc so với chuẩn mực, cũng như việc chấn chỉnh những lệch lạc đó, là những quá trình bình thường trong việc dạy học, giáo - 42 -
  9. dục và phát triển của đứa trẻ. Nhưng dù khái niệm “lệch lạc” được giải thích rộng như thế nào, thì việc tìm kiếm những nguyên nhân của vấn đề được phát hiện nhằm mục đích khắc phục chúng là điều bắt buộc đối với việc “chẩn đoán tâm lý” - Việc chẩn đoán tâm lý bao giờ cũng nhằm giúp đỡ cho người được nghiên cứu khắc phục những thiếu sót nhất định, giúp họ phát triển mạnh hơn và hài hòa hơn các năng lực và kỹ năng, nâng cao thành tích của họ. Ở đây, cá thể được nghiên cứu đóng vai trò như một bệnh nhân. Điều này làm cho chẩn đoán tâm lý khác với nghiên cứu giám định, đo lường tâm lý có tính chất xác định, xác nhận (được sử dụng trong tâm lý học lứa tuổi, trong tuyển chọn nghề nghiệp, trong hướng nghiệp…). Những nghiên cứu dạng này không nhằm mục đích thực hiện những tác động tâm lý giáo dục nào đó đối với những người được nghiên cứu. Như vậy có thể nói: Chẩn đoán tâm lý là sự xác định những nguyên nhân nhiều mức độ của sự lệch lạc hoặc thiếu sót đã phát hiện được trong hành vi của cá thể với mục đích khắc phục chúng bằng những tác động điều trị tương ứng, mang tính chất tâm lý giáo dục. Việc chẩn đoán tâm lý cần phải khách quan, đáng tin cậy, phải đưa ra được những tiền đề khoa học cho việc dự đoán những biến đổi trong tương lai của các thông số tâm lý và tâm sinh lý của người được nghiên cứu. Việc chẩn đoán tâm lý phải được dựa trên các nguyên tắc sau đây: 1 Nguyên tắc về khả năng nhận thức được của các hiện tượng trong đời sống tâm lý và những mối quan hệ nhân quả của chúng. Việc chẩn đoán tâm lý phải dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng: Các hiện tượng của hoạt động tinh thần mặc dù mang tính độc đáo và tính chủ thể, cũng đều liên quan trực tiếp với thế giới vật chất, và do đó đều có thể nhận thức được. Muốn nhận thức được chúng đòi hỏi có phương pháp riêng. 2 Nguyên tắc về sự phân loại nhất quán các trạng thái và thuộc tính tâm lý. Muốn vận dụng được nguyên tắc này cần phải sử dụng việc đo lường tâm lý. Một bộ phận của công tác chẩn đoán tâm lý. Đo lường là một bộ môn hỗ trợ của tâm lý học sai biệt và chẩn đoán tâm lý và nó dựa trên việc sử dụng các biện pháp toán thống kê 3 Nguyên tắc về sự phát triển của tâm lý. Tất cả mọi thuộc tính của nhân cách đang tồn tại đều phát triển không ngừng, nhưng những thuộc tính đó có sự ổn định tương đối của chúng, vì vậy mới có thể đo lường được chúng. Điều này cần phải tính đến để phân biệt hai khái niệm “chẩn đoán” và “dự đoán”. 4 Chẩn đoán tâm lý chủ yếu phải dựa vào các hiện tượng và dấu hiệu của hành vi. Nghiên cứu hành vi, đó là cái chủ yếu mà toàn bộ công việc chẩn đoán được tập trung xung quanh nó. Trong chẩn đoán bắt buộc phải quyết - 43 -
  10. định xem hình thức hành vi nào được xem là khởi phát. Đối với tất cả các thực nghiệm trắc nghiệm đều có một đặc trưng là, các phản ứng ổn định khác nhau trong hành vi của con người có thể được gây nên bởi những kích thích bên ngoài giống nhau. 5 Nguyên tắc về quan điểm chẩn đoán đối với việc ghi nhận các sự kiện khi vận dụng các phương pháp chẩn đoán tâm lý. Nói cách khác, các phương pháp chẩn đoán chỉ là một trong những công cụ của nhà tâm lý học mà thôi. Phải đối chiếu với các nguồn tài liệu khác. 2.2. Phương pháp chẩn đoán. Có ít nhất 3 phương pháp thu thập thông tin về trẻ 1 Kiểm tra trực tiếp: là việc sử dụng các thủ tục hay kỹ thuật nhằm lượng hóa một cấu trúc, một thuộc tính hay phẩm chất. Trong kiểm tra trực tiếp người ta thường sử dụng các trắc nghiệm tâm lý (test), các thang đo, các bảng liệt kê, các bảng hỏi. 2 Quan sát tự nhiên là quá trình ghi lại một cách có hệ thống và có kế hoạch các hành vi khi nó xuất hiện trong các hoàn cảnh tự nhiên khác nhau. 3 Phỏng vấn / đặt câu hỏi là quá trình thu thập thông tin thông qua việc đưa ra các câu hỏi cho cha mẹ và các thành viên khác. Quy trình chẩn đoán Sự quan tâm của cha mẹ, các thầy cô giáo trong việc chăm sóc dạy dỗ hàng ngày cho chúng ta nhiều thông tin về đứa trẻ. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp khi được giới thiệu đến hệ thống giáo dục đặc biệt cho trẻ khuyết tật (chậm phát triển trí tuệ) thì đã có rất nhiều triệu chứng được biểu hiện ở trẻ. Cha mẹ hay các bác sĩ nhận thấy trẻ không đạt được các mốc phát triển phù hợp với độ tuổi. Giáo viên ở lớp mẫu giáo phát hiện thấy trẻ không tiếp thu được bằng các bạn cùng lứa, gặp khó khăn trong việc ghi nhớ và khái quát kĩ năng đã học và có nhiều hạn chế về hành vi thích ứng. Giáo viên tiểu học nhận thấy trẻ gặp khó khăn trong quá trình học tập như đọc kém, viết kém, làm toán chậm và sai nhiều, khi ở trên lớp thường hay có những hành vi bất thường. Cũng có khi trẻ được giới thiệu đến hệ thống giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển trí tuệ bằng những kết quả đánh giá và chẩn đoán chính xác. Trong trường hợp này chỉ cần kiểm tra lại các thông tin để đưa ra những quyết định về việc lựa chọn các dịch vụ giáo dục đặc biệt hay môi trường đánh giá hòa nhập. Tuy nhiên cũng có thể gặp tình huống là các thông tin rõ ràng và cụ thể mà mình cần lại không có, vì vậy nhà trường lại là nơi phải đưa ra quyết định chẩn đoán thích hợp. Qui trình chẩn đoán toàn diện bao gồm các bước sau: c- Mô tả lý do và mục đích đánh giá. - 44 -
  11. Khi nhà trường tiến hành chẩn đoán, cần phải xác định rõ xem vì lý do gì và vì mục đích gì? Đánh giá là để trả lời những câu hỏi nào? - Vấn đề đầu tiên cần trả lời là trẻ có thể được chẩn đoán là chậm phát triển trí tuệ hay không, nguyên nhân là gì? Những điểm mạnh và nhu cầu đặc biệt của trẻ. - Vấn đề thứ 2 là khi trẻ đã đến tuổi đi học, thì được chấp nhận vào trong trường chuyên biệt, lớp hội nhập hay môi trường giáo dục hòa nhập thì cần thêm thông tin để hướng dẫn về việc xếp nhóm học tập và nội dung kế hoạch giáo dục cá nhân. Lý do và mục đích đánh giá sẽ quyết định tới việc lựa chọn các công cụ đánh giá, khuynh hướng tìm kiếm và xử lý thông tin. Nếu được yêucầu chẩn đoán xem trẻ có bị chậm phát triển hay không và chậm phát triển trí tuệ đến mức độ nào thì nhà tâm lý sẽ lựa chọn trắc nghiệm trí tuệ và thang đo hành vi thích ứng (theo tiêu chí chẩn đoán do DSM – IV đưa ra), nếu được yêu cầu chẩn đoán xem trẻ có bị tự kỉ hay không và tự kỉ đến mức độ nào nhà tâm lý phải sử dụng bảng chẩn đoán tự kỉ và thang đánh giá mức độ tự kỉ (CARS)…. d- Mô tả tiền sử phát triển của đứa trẻ. Tiền sử phát triển của trẻ cho ta biết những thông tin liên quan đến điều gì đã xảy ra đối với trẻ từ trước đến nay. Cùng với thông tin thu thập được trong hồ sơ cá nhân, bảng đánh giá về tiền sử phát triển cho ta biết nên thu thập thông tin nào và thu thập vào lúc nào? Tất cả các thông tin phải được thể hiện một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về đứa trẻ được chẩn đoán. e- Nghiên cứu chẩn đoán tâm lý: Sử dụng các trắc nghiệm về chỉ số thông minh, thang đo hành vi thích ứng, bảng kiểm tra hành vi, các bảng kiểm tra hội chứng liên quan và nhiều công cụ khác để có được những thông tin đầy đủ, thông qua đó có được kết luận đúng đắn về trẻ. Mục đích của việc sử dụng trắc nghiệm, thang đó và bảng kiểm tra tâm lý là để xác định xem có thể chẩn đoán là trẻ chậm phát triển trí tuệ hay không; xác định mức độ chậm phát triển trí tuệ; lý giải về những vấn đề học tập, hành vi hoặc tình cảm – xã hội; Hướng dẫn xây dựng môi trường giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu đặc biệt của trẻ. f- Kết luận và đưa ra lời khuyên. Mỗi quá trình chẩn đoán đều kết thúc bằng việc kết luận và đưa ra lời khuyên. Phần kết tóm lược lại những kết quả của từng khâu đánh giá, cung cấp những phần diễn giải cần thiết, giải thích khi có thể và đặt đúng theo trật tự, liên hệ giữa các đánh giá với nhau khi có thể. Phần kết là khung tham chiếu để đưa ra những lời khuyên. Lời khuyên là câu trả lời đối với những câu hỏi được nêu ở phần đầu – Lí do và mục đích đánh giá. - 45 -
  12. 2.3. Công cụ chẩn đoán * Trắc nghiệm trí tuệ hay còn gọi là trắc nghiệm chỉ số thông minh IQ sẽ giúp chúng ta một phần nào xác định xem liệu một đứa trẻ có bị chậm phát triển trí tuệ hay không? Để có thể khẳng định chắc chắn rằng một trẻ là chậm phát triển trí tuệ thì chỉ sử dụng trắc nghiệm trí tuệ là chưa đủ mà cần phải dựa trên kết quả chẩn đoán sử dụng thang đo hành vi thích ứng nữa (dựa theo các tiêu chí chẩn đoán của AAMR và DSM-IV) Trắc nghiệm trí tuệ dùng để đo lường khả năng lĩnh hội hay một mức độ trí tuệ của một người nào đó. Chỉ số thông minh IQ là số đo trí thông minh của một con người, căn cứ vào các kết quả so sánh các thành tích làm một trắc nghiệm đo IQ với kết quả của những người khác cùng tuổi cũng làm trắc nghiệm đó. * Thang đo hành vi thích ứng để chẩn đoán trẻ chậm phát triển trí tuệ Ngoài các trắc nghiệm về chỉ số thông minh đã được chuẩn hóa, các thang đo hành vi thích ứng được dùng để xác định liệu một trẻ có bị chậm phát triển trí tuệ hay không? Các thang đo hành vi thích ứng quan trọng nhất và có ích nhất là: - Thang đo hành vi thích ứng của AM – trường học (ABS: S2) - Thang đo hành vi thích ứng của Vineland: bản hiệu đính cho lớp học. Ngoài việc giúp chẩn đoán chậm phát triển trí tuệ, ABS-S:2) và thang đo hành vi thích ứng của Vineland cũng có các thông tin phù hợp để kịp lập kế hoạch can thiệp cá nhân. * Các công cụ chẩn đoán tâm lý khác thường được sử dụng đối với trẻ chậm phát triển trí tuệ: - Các bảng hỏi điều tra về hội chứng có liên quan: * Đối với những trẻ có những dấu hiệu thể hiện nguy cơ bị điếc, chúng ta cần chú ý đưa trẻ đi khám ở các bệnh viện tai-mũi-họng. Nếu cần bác sĩ sẽ đề nghị trẻ được kiểm tra thính lực. Tùy theo độ tuổi của trẻ mà họ có thể dùng các test đo sức nghe khác nhau như: Quan sát hành vi, đo phản xạ định hướng có điều kiện, đo đơn âm kết hợp với trò chơi, đo đơn âm, đo trở kháng, đo điện thính giác thân não. 3. ĐÁNH GIÁ ĐỂ LẬP KẾ HOẠCH CAN THIỆP. 3.1. Đặc điểm đánh giá để lập kế hoạch can thiệp. Trong quá trình giáo dục trẻ khuyết tật cần tiến hành tốt hai cấp độ của đánh giá. Đánh giá sơ bộ được tiến hành ngay khi trẻ nhập học và thường xuyên trong quá trình dạy học để xác định trình độ khả năng của trẻ, để giúp trẻ học tốt hơn. Đánh giá tổng kết sau một tháng, một học kỳ và cả năm nhằm xác định kết quả học tập và sự tiến bộ của trẻ. Kết quả các loại đánh giá cả về định lượng và định tính đều được ghi lại vào sổ theo dõi của học sinh. - 46 -
  13. Thực ra đánh giá tổng kết trong một giai đoạn ngắn và ta cũng tiếp tục sử dụng những thông tin đó để lập kế hoạch giáo dục tiếp theo. Khi tuyển chọn trẻ vào trường đặc biệt (trường hỗ trợ) cần phải dựa trên cơ sở những dẫn liệu thật khách quan và chính xác về sự thiếu hụt của trẻ trong quá trình phát triển đã gây trở ngại cho việc học tập của các em. Việc tuyển chọn phải do một hội đồng y tế - giáo dục thực hiện. Hội đồng này được tổ chức theo đơn vị giáo dục của thành phố, tỉnh hoặc các huyện thị. Thành phần của hội đồng gồm có: - Đại diện của sở giáo dục hay phòng giáo dục làm trưởng ban. - Hiệu trưởng trường đặc biệt và các chuyên gia ngành chậm phát triển làm uỷ viên - Các cán bộ y tế như bác sĩ thần kinh và bác sĩ đa khoa làm uỷ viên. - Khi khám học sinh nào nhất thiết phải có bố mẹ hay người đỡ đầu. Trẻ được nhận vào trường có các hồ sơ sau đây: Đơn xin vào học, tiền sử của trẻ (do cha mẹ hoặc người đỡ đầu ghi theo mẫu); nhận xét về quá trình học tập của học sinh (do giáo viên phụ trách lớp ghi); kết luận về y học do các bác sĩ chuyên ngành ghi; biên bản kiểm tra trí tuệ và trạng thái ngôn ngữ do các bộ chuyên ngành sư phạm ghi; giấy khai sinh. Căn cứ vào hồ sơ nói trên, hội đồng y tế - sư phạm xét duyệt, xếp loại trẻ và lập danh sách gửi cho các trường chuyên biệt dành cho trẻ khuyết tật. Đánh giá để lập kế hoạch can thiệp trong giáo dục đặc biệt có những đặc điểm sau: - Đánh giá là một quá trình liên tục. Việc đánh giá diễn ra khi học sinh gặp khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu của chương trình phổ thông và cần đến các dịch vụ đặc biệt. Mỗi khi trẻ được xác định là đối tượng của đánh giá đặc biệt, sự đánh giá tiếp tục diễn ra ở lớp giáo dục đặc biệt và các môi trường giáo dục khác nơi giáo viên chuyên biệt và những người khác tập hợp thông tin liên quan đến việc dạy học hàng ngày. - Đánh giá trong giáo dục đặc biệt có tính hệ thống. Trong giai đoạn đầu của quá trình đánh giá, một nhóm liên ngành gặp nhau để lên kế hoạch và đề ra các chiến lược thu thập những thông tin cần thiết. Các chuyên gia như các nhà giáo dục đặc biệt, các nhà tâm lý, nhà ngôn ngữ trị liệu làm việc cùng nhau để thu thập đầy đủ các thông tin cho việc trả lời câu hỏi trọng yếu. Việc đánh giá ở lớp đối với học sinh khuyết tật cũng mang tính hệ thống. Giáo viên thường xuyên theo dõi sự tiến bộ của học sinh theo các mục tiêu dạy học cơ bản và khi cần thiết thì điều chỉnh các chiến lược dạy học. - Đánh giá trong giáo dục đặc biệt tập trung vào việc thu thập các thông tin thích hợp về mặt giáo dục. Đánh giá sự tiến bộ của học sinh trong tất cả các mặt giáo dục, các nhà chuyên môn thường quan tâm đến những biểu hiện trong học tập ở trường - đây là mối quan tâm chính. Cùng với kết quả học tập, các chuyên gia còn chú ý đến khả năng ngôn ngữ, xã hội và kỹ - 47 -
  14. năng hành vi của trẻ. Các nhà chuyên môn quan tâm đến khả năng và các chiến lược học tập của trẻ, cũng như những đặc trưng của môi trường học tập mà học sinh phải tham gia. Tất cả những nhân tố này gòp phần vào việc hiểu biết đầy đủ hơn những điểm mạnh và điểm yếu của trẻ cũng như các hỗ trợ cần thiết nhằm giúp trẻ có thể học được. - Đánh giá trong giáo dục đặc biệt là hoạt động có mục đích. Việc thu thập thông tin nhằm đưa ra các quyết định về lựa chọn trường học cho trẻ. Những quyết định này liên quan đến những vấn đề như trẻ có đúng là đối tượng được hưởng dịch vụ giáo dục đặc biệt, chương trình và môi trường giáo dục nào phù hợp nhất đối với trẻ, liên quan đến việc xây dựng mục tiêu giáo dục, lựa chọn các tài liệu và phương pháp dạy học, việc kiểm tra sự tiến bộ của trẻ cũng như cũng như tính hiệu quả của các cách tiếp cận dạy học. Đánh giá trong giáo dục đặc biệt được tiến hành liên tục, kéo dài, song cần xác định rõ ở mỗi giai đoạn, lứa tuổi ta tập trung vào việc đánh giá những mặt, những lĩnh vực chủ yếu. Ví dụ ở bậc học mầm non, việc đánh giá tập trung vào sự phát triển của trẻ trên các mặt kỹ năng quan trọng như ngôn ngữ, nhận thức, hành vi xúc cảm - xã hội, cảm giác và vận động. Giai đoạn tuổi thanh niên tập trung vào đánh giá bước chuyển của vị thành niên từ nhà trường sang môi trường công việc, hoặc đào tạo nghề ở trường chuyên nghiệp, cao đẳng hay đại học, cũng như các lĩnh vực khác của cuộc sống người trưởng thành 3.2. Mục đích của đánh giá để lập kế hoạch can thiệp. Đánh giá trong giáo dục đặc biệt nhằm đạt được các mục đích sau: Khi phát hiện được những vấn đề tiềm ẩn, học sinh được chuyển sang đánh giá sâu hơn. Những thông tin được tập hợp về sự thể hiện của học sinh trong các lĩnh vực có liên quan và môi trường giáo dục. Từ đó sẽ xây dựng một loạt các điều chỉnh và thay đổi trong nỗ lực nhằm đáp ứng nhu cầu về tác động hành vi và học tập của trẻ. Khi thực hiện những can thiệp này cũng đồng thời thu thập thông tin để đánh giá tính hiệu quả của tác động. Nếu kết quả cho thấy vấn đề học tập của học sinh vẫn không giải quyết được thì học sinh đó sẽ được giới thiệu đến các dịch vụ giáo dục đặc biệt. Cần xác định trẻ khuyết tật thuộc dạng nào? mức độ nặng nhẹ ra sao để có cơ sở xây dựng kế hoạch giáo dục cho học sinh. Bước này chi tiết hơn nhiều so với đánh giá sàng lọc và tham vấn sơ bộ. Hơn nữa nó được cá biệt hóa; nhóm đánh giá xác định các loại thông tin cần thu thập ở mỗi học sinh. Sau đó học sinh được đánh giá để xác định mức độ khả năng hiện tại học sinh, năng lực trí tuệ, thính lực, thị lực và thực trạng về mặt hành vi và xã hội, khả năng ngôn ngữ. Thông tin về quá trình học tập trước đó, sự thể hiện trên lớp hiện tại, những đặc điểm về môi trường học tập. - 48 -
  15. Như vậy việc đánh giá này nhằm giúp các nhà giáo dục phân tích, lựa chọn môi trường, các biện pháp tác động phù hợp nhất, lựa chọn qui trình tác động hợp lí nhất đối với mỗi cá nhân trẻ. Hay nói cách khác, giúp ta xây dựng được kế hoạch can thiệp tốt nhất đối với mỗi cá nhân trẻ. 3.3. Phương pháp đánh giá để lập kế hoạch can thiệp. Đánh giá giáo dục đặc biệt là một quá trình mang tính hệ thống, một quá trình diễn ra theo một trật tự lô-gic nhằm thu thập thông tin cần thiết để đưa ra những quyết định quan trọng về chương trình giáo dục dành cho học sinh. Chủng loại và số lượng các thủ tục đánh giá ở mỗi giai đoạn đều rất khác nhau. Quá trình này được diễn ra theo những bước sau: - Quá trình nhận dạng: Các dữ liệu được tập hợp để mô tả các vấn đề về học tập của trẻ và những nỗ lực giải quyết các vấn đề này ở trường phổ thông. - Mỗi khi một học sinh đựơc giới thiệu một cách chính thức, sự hội tụ đủ điều kiện thụ hưởng giáo dục đặc biệt của học sinh đó sẽ được nghiên cứu bằng cách thu thập các thông tin về khả năng học tập trên lớp và học sinh có phải là khuyết tật hay không. - Nếu học sinh được xác định là hợp pháp để thụ hưởng giáo dục đặc biệt, một sự đánh giá sâu hơn sẽ được thực hiện nhằm phát hiện những thế mạnh và điểm yếu trong kỹ năng học tập và các lĩnh vực quan trọng khác. - Phát triển một chương trình giáo dục cá nhân trong đó bao hàm các mục tiêu ưu tiên với một chương trình can thiệp. - Thực hiện chương trình giáo dục, theo dõi một cách cẩn thận sự tiến bộ của học sinh và sự thành công của chương trình. Thực hiện quá trình trên cũng chính là việc trả lời được những câu hỏi chính được đề ra ở đây là: Trẻ có vấn đề về khả năng học tập ở trường hay không? Trẻ có khuyết tật hay không? Trẻ có nhu cầu gì về mặt giáo dục? Loại dịch vụ nào cần thiết để đáp ứng các nhu cầu đó? Hiệu quả của chương trình giáo dục như thế nào? Đánh giá để lập kế hoạch can thiệp thường phải tiến hành chẩn đoán hỗn hợp, bao gồm chẩn đoán y học và chẩn đoán sư phạm. - Chẩn đoán y học: Phần việc này do các bác sĩ chuyên khoa thực hiện. Phần khám y học chủ yếu là phát hiện các bệnh mà hiện nay học sinh đó đang mắc phải: “Về nội nhi”, “tai, mũi, họng”, “răng, hàm, mặt”, “các cơ quan vận động”, hệ thống thần kinh trung ương”… phần khám chủ yếu là xác định xem não bộ có bị tổ thất thực thể hay không. Phần khám y học có thể tiến hành đồng thời với khám nghiệm sư phạm hoặc có thể làm sau, trước là tuỳ thuộc vào từng địa phương. Song nhất thiết phải có sự kết luận y học về tình trạng bệnh lý của học sinh để hội đồng xét tuyển có cơ sở kết luận. - 49 -
  16. - Chẩn đoán sư phạm Chẩn đoán sư phạm được tiến hành theo các phương pháp sau đây: • Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động vui chơi, lao động và học tập của trẻ • Phương pháp tìm hiểu tiền sử thông qua y bác sĩ, cha mẹ học sinh hay người đỡ đầu. • Phương pháp đối thoại trực tiếp với đối tượng bằng hệ thống các câu hỏi và bài tập được chuẩn bị trước theo mẫu chuẩn (còn gọi là test). Cách quan sát đối tượng được tiến hành khi trẻ sinh hoạt và lao động trong gia đình. Cán bộ đến từng gia đình đối tượng để quan sát cách sinh hoạt và đối xử của trẻ đối với các thành viên trong gia đình và khách. Quan sát trẻ làm việc giúp cha mẹ, trẻ học ở nhà. Có thể nói chuyện với bố mẹ để biết thêm về trẻ. Quan sát trẻ khi đến trường: Xem quan hệ của trẻ với bạn bè, thầy cô giáo. Trẻ vui chơi ở trường, nếu quan sát trong giờ học phải có sự thống nhất với nhà trường. Có thể đàm thoại với giáo viên để hiểu rõ thêm về trẻ. Công việc này được tiến hành với sự tham gia của cán bộ chuyên sâu ngành chậm phát triển (để chẩn đoán trẻ chậm phát triển trí tuệ) của Viện KHGD Việt Nam hoặc các cán bộ chuyên môn đã kinh qua các lớp huấn luyện, đào tạo sâu. Công việc này có thể làm nhiều lần và đều phải ghi lại các kết quả đã quan sát được. c Nghiên cứu về tiền sử bệnh tật của trẻ. Muốn đạt được kết quả nghiên cứu chính xác phải có sự tham gia của cha mẹ học sinh, tốt nhất là người mẹ. Cần phải nghiên cứu kỹ quá trình tiền sử sau: - Xem xét trong gia đình nội ngoại của học sinh có ai mắc bệnh thần kinh hoặc tâm thần không - Xem xét các thời kì trước khi sinh (sức khoẻ của bà mẹ trong thời gian mang thai, có bị bệnh gì không? Có bị nghiện gì không? Có bị chấn thương vùng thai nhi không? Có dùng nhiều kháng sinh không? …). - Sau đến thời kì sinh đẻ (đẻ dễ hay khó, đủ tháng hay thiếu tháng, đẻ có bị kẹp póc set không? thời gian có lâu không? đẻ ra trẻ có khóc ngay không?…) - Và thời gian sau khi sinh (xem sự phát triển của trẻ từ 1 đến 6 tuổi có bị bệnh gì trầm trọng? Có bị sốt cao không? Có dùng nhiều kháng sinh không? - Từ 6 tuổi trở lên xem xét các quá trình sinh hoạt và học tập ở nhà. d Nghiên cứu trạng thái ngôn ngữ của trẻ - Cơ quan cấu âm gồm lồng ngực, phổi, cuống phổi, thanh quản, vòm miệng. - Cần xem xét các cơ quan phát âm như: vòm họng, lưỡi, hàm răng, môi và thanh quản. Có thể cho học sinh phát âm một số từ để phát hiện xem - 50 -
  17. trẻ có bị tật ngôn ngữ hay không? nếu có thì đó là tật gì? (nói ngọng hay nói lắp…). - Nghiên cứu về vốn từ của trẻ thông qua các bộ tranh ảnh về động vật, thực vật, về các dụng cụ gia đình, về phong cảnh thiên nhiên… để phát hiện được số lượng từ giàu hay nghèo từ. - Nghiên cứu về khả năng ngữ pháp khi nói và viết. Có thể cho kể một mẩu chuyện nhỏ để phát hiện khả năng sử dụng câu có đúng ngữ pháp hay không, hay cho một và từ rồi yêu cầu học sinh đặt các câu đơn giản. - Tìm hiểu khả năng hiểu ý nghĩa của từ có thể cho một vài từ thông thường để các em giải nghĩa hoặc phân biệt, so sánh. e Nghiên cứu các trạng thái tâm lý của trẻ. - Nghiên cứu về khả năng tư duy, phát hiện khả năng khái quát và tổng hợp thông qua các bài tập kiểm tra “test” hướng dẫn – phát hiện khả năng tư duy cụ thể. - Nghiên cứu khả năng tri giác: chủ yêú khả năng nghe, nhìn. - Nghiên cứu khả năng ghi nhớ - phát hiện xem các hình thức ghi nhớ của trẻ. Phần này cũng dùng các bài tập kiểm tra “test” để đánh giá. - Nghiên cứu về tưởng tượng của trẻ. f Nghiên cứu về khả năng giao tiếp: xem xét cách sinh hoạt vui chơi, phát hiện xem cách quan hệ với những người xung quanh: mạnh dạn, cởi mở hay e dè, sợ sệt. g Nghiên cứu các khả năng học tập và tài liệu học tập của học sinh (bao gồm sách vở mà học sinh đã học tập qua từng lớp). - Nghiên cứu khả năng đọc - Nghiên cứu khả năng viết - Nghiên cứu khả năng tính toán (chủ yếu là 4 phép tính cơ bản). - Nghiên cứu các sản phẩm học tập của học sinh. 3.4. Công cụ đánh giá để lập kế hoạch can thiệp Để đánh giá trẻ khuyết tật, chúng ta phải lựa chọn và sử dụng nhiều loại công cụ khác nhau: Với trẻ chậm phát triển trí tuệ ta sử dụng hệ thống bài tập sau: 1. Kiểm tra tật ngôn ngữ: - Cho học sinh phát âm một số âm tiết - Đọc một đoạn văn hay kể chuyện - Nhắc lại một số từ 2. Kiểm tra về nhận biết màu sắc: - Dùng bảng chỉ thị màu gồm: xanh, đỏ, tím, vàng, trắng, đen - Kiểm tra sự nhận biết và khả năng phân biệt màu sắc, phát hiện bệnh mù màu sắc. 3. Kiểm tra vốn từ và hiểu ý nghĩa của từ: - 51 -
  18. - Dùng các bộ tranh các loài vật, các dụng cụ gia đình, tranh phong cảnh quê hương đất nước, tranh về thực vật… - Bài tập phát hiện sự giàu nghèo vốn từ ở trẻ, khi kiểm tra đưa từng tranh riêng lẻ, hỏi và học sinh trả lời, ghi lại số từ các em biết và không biết. 4. Kiểm tra khả năng sử dụng ngữ pháp trong ngôn ngữ nói và viết. - Cho trẻ tập đặt câu đơn giản với các từ cho trước hoặc điền từ vào ô trống trong một câu. - Viết một vài câu theo chủ đề - Kể một mẩu chuyện nhỏ mà học sinh biết. - Kể chuyện theo tranh 5. Kiểm tra khả năng tính toán: - Kiểm tra hệ đếm thập phân từ 1-10 và từ 10-20. Đếm xuôi và ngược lại. - Kiểm tra về khả năng giải các bài tập toán (trong phạm vi đã học, chủ yếu 4 phép tính số nguyên), các bài tập này mang tính bắt buộc mỗi học sinh được kiểm tra đều phải làm theo một loại bài tập. 6. Kiểm tra các trạng thái tâm lý (đây là công việc cơ bản và khó khăn nhất). a. Kiểm tra về tư duy (dùng test) - Sự loại ra vật thể (nghiên cứu khả năng khái quát) - So sánh khái niệm (nghiên cứu dấu hiệu so sánh) - Sự phân loại vật thể (nghiên cứu khả năng phân tích) - Tính liên tục của các sự kiện (khả năng định hướng và độ nhanh nhạy của tư duy) - Sự liên tưởng (nghiên cứu khả năng liên tưởng và tư duy bằng lời) b. Kiểm tra về tri giác (dùng test) - Nhận biết nhanh vật thể trên một bức tranh (phát hiện độ nhanh nhạy của tri giác) - Nhận biết nhanh màu sắc và hình dạng của vật thể (phát hiện khả năng màu sắc). - Quan sát quang cảnh thiên nhiên hoặc bức tranh có cốt truyện hấp dẫn (nghiên cứu khả năng phân biệt các dấu hiệu). - Tìm nhanh các số (phát hiện độ nhanh nhạy của tri giác và khả năng định hướng). - Kể chuyện cho học sinh nghe và học sinh kể lại (tìm hiểu khả năng nghe và mức độ ghi nhớ). c. Kiểm tra trí nhớ (dùng test) - Học thuộc 10 từ (đánh giá tình trạng trí nhớ và tính tích cực của chú ý - Nhắc lại một câu (kiểm tra khả năng ghi nhớ). - Kể lại một chuyện sau khi lắng nghe thầy giáo đã kể (độ nhanh và khả năng ghi nhớ) - Lắp mẫu hình theo hướng dẫn - 52 -
  19. d. Kiểm tra trí tưởng tượng (dùng test) - Tranh 2 mặt người dối nhau (giữa là bình hoa) - Vẽ các tranh có thể tưởng tượng ra nhiều vật khác nhau cho học sinh quan sát (kiểm tra sự tưởng tượng và liên tưởng) Đánh giá và xếp loại mức độ tật phát triển trí tuệ thông qua chẩn đoán sư phạm Khi đánh giá và xếp loại học sinh cần: - Căn cứ vào tiền sử. - Căn cứ vào nhận xét của giáo viên và kết quả nghiên cứu sản phẩm của học sinh. - Căn cứ vào việc thực hiện các bài “test” • Loại nhẹ: đã được hướng dẫn từ 1-3 lần mà chỉ thực hiện được 30% yêu cầu bài tập. • Loại nặng: đã được hướng dẫn tỷ mỉ từ 1-5 lần mà chỉ thực hiện được 10% yêu cầu bài tập. • Loại rất nặng: đã được hướng dẫn nhiều lần mà không thực hiện được yêu cầu bài tập hoặc chỉ đạt 2-3% yêu cầu. Ngoài cách sắp xếp như trên, để có thể thử lại cách sắp xếp đó – trên thế giới còn có một số nước vẫn sử dụng chỉ số trí tuệ để xếp loại gọi là “IQ”. Chúng ta có thể tham khảo để kiểm tra lại việc xếp loại của mình. Cách thử theo “IQ” * Thoạt đầu hỏi những câu hỏi đúng với tuổi thực của trẻ - Nếu trẻ trả lời tốt, ta hỏi câu hỏi cao hơn tuổi thực để tìm tuổi trí tuệ. - Nếu trẻ trả lời kém ta hỏi các câu hỏi thấp hơn tuổi thực của trẻ để tìm tuổi trí tuệ ở mức tối thiểu. * Sau khi có kết quả ta áp dụng công thức tính IQ (% trí tuệ) Tuổi trí tuệ X 100 ----------------------- = % trí tuệ (IQ) Tuổi thực Theo Terman, ông đã căn cứ cào chỉ số IQ mà xếp loại như sau: IQ Xếp loại 0-25% Loại rất nặng (ngu) 25-50% Loại năng (ngốc) 50-70% Loại nhẹ (thiểu năng trí tuệ) 70-90% Bình thường 90-110% Trí tuệ trung bình 110-125% Trí thuệg thông minh 125-140% kiệt xuất 140 trở lên Thiên tài - 53 -
  20. Bảng thử tuổi trí tuệ (lấy từ tập sách phục hồi chức năng cộng đồng của Bộ y tế ban hành) 1. Ba tuổi: - Chỉ đúng mồm, mũi, mắt - Nhắc lại câu có sáu từ - Đọc theo số có 2 chữ số 2. Bốn tuổi: - Gọi được tên một số đồ vật xung quanh - Nhắc lại số có 3 chữ số - Trả lời đúng câu hỏi: cháu là con trai hay con gái - So sánh đúng 2 đoạn thẳng dài ngắn khác nhau cho trước 3. Năm tuổi - Nhắc lại câu 10 từ - Đếm 4 đồng xu - Vẽ lại hình vuông theo mẫu - So sánh 2 vật nặng nhẹ khác nhau - Chắp 2 tam giác vuông đã cắt thành hình chữ nhật. 4. Sáu tuổi - Nêu được công dụng một số vật xung quanh. - So sánh 2 chân dung một đẹp một xấu. - Phân biệt được tay phải, tay trái, sáng, trưa, chiều, tối. - Thực hiện được 3 công việc khác nhau theo yêu cầu - Nhắc lại câu 16 từ. - Vẽ hình quả trám theo mẫu - Đếm được từ 1 đến 13 5. Bảy tuổi - Mô tả được các đồ vật trong nhà - Làm việc theo yêu cầu thông qua 3 câu nói nhiều từ - Nêu được 4 màu (xanh, đỏ, vàng, tím) và nhận biết trên vật có màu sơn cụ thể. 6. Tám tuổi - Đếm được từ 1-20 - So sánh 2 con vật về hình dạng, kích thước không cần nhìn con vật cụ thể - Nhắc lại được số có 5 chữ số. - Phát hiện được thiếu sót ở một số hình vẽ đơn giản chưa hoàn chỉnh - Nói được ngày, tháng, thứ của ngày hôm nay. 7. Chín tuổi - Nêu cấu tạo của một số đồ vật, công dụng và vật liệu chế tạo - Hỏi: em mua chiếc bánh chín đồng, em đưa cho người bán bánh 10 đồng. Vậy người bán bánh phải trả lại em bao nhiêu tiền? - Hỏi về trí khôn: “Cháu phải làm gì khi ngôi nhà bị cháy?” - 54 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2