intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Hệ thống phanh ABS trên ô tô

Chia sẻ: Tran Van Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:61

540
lượt xem
99
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Hệ thống phanh ABS trên ô tô với mục đích giữ ổn định hướng chuyển động của xe khi phanh trên đường vòng, hay trên đường có trạng thái khác nhau. Với ôtô không bố trí ABS các bánh xe có thể bị khóa cứng và gây xoay thân xe. Với ôtô bố trí ABS khi phanh ôtô sẽ chuyển động ổn định đến khi nào dừng lại, kể cả khi hoạt động trên đường cong, hoặc trên nền đường có trạng thái khác nhau;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Hệ thống phanh ABS trên ô tô

  1. HỆ THỐNG PHANH ABS TRÊN Ô TÔ Anti lock Braking System CƠ SỞ LÝ THUYẾT I. HỆ THỐNG PHANH ABS TRÊN ÔTÔ CON 1. Hệ thống phanh ABS và các liên hợp: Hệ  thống ABS gọi theo các chữ  viết tắt của tiếng Anh: “Anti Lock Brake   System” và được hiểu là thiết bị chống trượt lết bánh xe khi phanh. Ngày nay thiết  bị này đã được tích hợp chức năng của ABS với khả năng chống trợt quay bánh xe  chủ  động (Acceleration Slip Control: ASR), khả  năng  ổn định động học của ôtô  (Vehicle Stability Control: VSC) khi sử dụng. Hệ  thống ABS bắt đầu được bố  trí  ở  tất cả  các bánh xe vào năm 1971, chế  tạo hàng loạt năm 1978, sau đó hoàn thiện theo hướng điều khiển kỹ thuật số vào  năm 1984 và từ  sau năm 1992 một số  quốc gia phát triển đã coi ABS là một hệ  thống phanh tiêu chuẩn bắt buộc của ôtô con. Hiện nay hệ  thống ABS được tổ  hợp từ  các kết cấu: cơ  khí, thủy lực, điện   tử, với kỹ thuật tự động điều chỉnh “Cơ – điện tử” dùng cho hệ thống phanh. Trên  cơ sở của hệ thống ABS bố trí trên ôtô đã hình thành các liên hợp điều chỉnh khác  nhằm hoàn thiện tính chất động học và động lực học. Tùy theo đặc điểm sử  dụng   và yêu cầu, hệ  thống ABS và các liên hợp điều chỉnh có mức độ  phức tạp khác   nhau. Mô tả  về  quá trình hoàn thiện và phát triển hệ  thống phanh ABS và các liên  hợp trên ôtô con có thể  trình bày  qua hình 1.1. Hình   1.1:   Quá   trình   hoàn   thiện   và   phát   triển   hệ   thống   phanh ABS và các liên hợp trên   ôtô con Các chữ viết tắt trên hình có  ý nghĩa sau:  ASR: Thiết bị chống  trượt quay bánh xe, thiết bị là một phần của hệ thống TRC (Traction Control) dùng  để điều khiển lực kéo trên các bánh xe chủ động của ôtô.  ESP:  Electronic Stability Program – Chương trình kiểm soát  ổn định  động học của ôtô. Chương trình là một phần của hệ  thống VSC, được dùng để  kiểm soát khả  năng ổn định hướng của ôtô khi phanh, khi đi trên đường vòng hay  chuyển động thẳng gặp ngoại lực ngẫu nhiên tác động  SBC:  Sensoelectric Braking Control – Hệ  thống phanh thủy lực điện  tử, được bố trí theo sự mở rộng kiểm soát nhờ các cảm biến và chương trình điều  khiển thích hợp của ôtô con. 1
  2.  EHB:  Electrohydraulic brake – Hệ  thống phanh thủy lực  điện tử  là  một phân khúc của hệ thống phanh điện tử có sự hỗ trợ của hệ thống thủy lực.  BBW:  Brake – By – Wirre – Hệ  thống phanh điện là một phân khúc  của hệ thống phanh điện tử không có sự hỗ trợ của hệ thống thủy lực. Nội dung kỹ thuật của các hệ thống này sẽ được lần lượt trình bày tiếp sau. 2. Mục đích cơ bản của việc bố trí thiết bị ABS trên ôtô: Khả năng điều khiển ôtô nói chung và trong trạng thái phanh nói riêng bị  giới  hạn bởi giá trị  các lực truyền giữa bánh xe và mặt đường. Giải quyết hoàn thiện  chất lượng lực truyền này trong các trạng thái mặt đường và điều khiển khác nhau  là một nhiệm vụ được thực hiện bởi ABS và các liên hợp. Phương pháp được lựa  chọn   trong   kết   cấu   là   sử   dụng   các   tổ   hợp   tự   động   điều   chỉnh   cơ   điện   tử  (Mechatronic) trên cơ sở của hệ thống phanh ôtô. Hệ  thống ABS được sử  dụng để  duy trì khả  năng không bó cứng bánh xe  trong các trạng thái phanh ngặt với các mục đích: ­ Giữ ổn định hướng chuyển động của xe khi phanh trên đường vòng, hay trên   đường có trạng thái khác nhau. Với ôtô không bố  trí ABS các bánh xe có thể  bị  khóa cứng và gây xoay thân xe. Với ôtô bố  trí ABS khi phanh ôtô sẽ  chuyển động   ổn định đến khi nào dừng lại, kể cả khi hoạt động trên đường cong, hoặc trên nền   đường có trạng thái khác nhau. ­ Duy trì khả năng điều khiển ôtô bằng vành lái. ­ Tạo điều kiện rút ngắn quãng đường phanh đặc biệt khi sử  dụng  ở  đường   tốt, vận tốc cao. II. CÁC KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ ABS 1. Độ trượt dọc của bánh xe khi phanh: Lực dọc (lực phanh hay lực kéo) trên bề  mặt đường của   các bánh xe liên quan trực tiếp bởi trọng lượng (tải trọng thẳng   đứng) và hệ  số  bám của bánh xe với nền đường. Hệ  số  bám  phụ  thuộc vào nhiều yếu tố: chất lượng bề  mặt đường, tính  chất của lớp phủ  bề  mặt, loại lốp xe, nhưng trước hết phụ  thuộc rất lớn vào độ  trượt của bánh xe. Nếu hệ  số  bám lớn sẽ  cho phép bánh xe tiếp nhận lực dọc lớn, và ngược lại. Độ  trượt của bánh xe được gắn liền với khái niệm: nếu  bánh xe lăn tự  do không chịu tải trọng thẳng đứng, độ  trượt   bằng không, khi bánh xe bị  phanh bó cứng trên nền đường độ  trượt sẽ bằng 100%. Để đạt được hệ số bám cao khi phanh cần  thiết khảo sát mối quan hệ của hệ số bám j với độ trượt lx của   bánh xe. Quan hệ  vật lý này được biểu diễn trên hình 1.2. Qui   luật như  vậy cũng gần giống giữa bánh xe bị  phanh và bánh xe chủ  động.  Ở  đây  chỉ nêu lên trong trường hợp bánh xe bị phanh. Sự trượt dọc của bánh xe gắn liền với sự biến dạng theo chu vi lốp. Các lớp  ở vùng tiếp xúc bị biến dạng, gây nên dịch chuyển tương đối với nền, và được xác   định bằng độ trượt Lamdax. 2
  3. Đánh giá sự trượt dọc của bánh xe nhờ  độ  trượt Lamdax và được định nghĩa  trong trường hợp bánh xe bị phanh: Trong đó: v là vận tốc dịch dọc của bánh xe tại vết tiếp xúc, w.rd là vận tốc  dịch dọc của bánh xe do sự quay của bánh xe gây nên tại vết tiếp xúc. Như vậy sự trượt của bánh xe với nền xuất hiện kể cả khi bánh xe chịu lực   dọc nhỏ. Nếu càng gia tăng lực dọc (ở đây là lực phanh) sự trượt xảy ra càng lớn.  Khi lực dọc vượt quá giá trị của lực bám giới hạn, sự trượt hoàn toàn xảy ra. Mối quan hệ  giữa hệ  số  bám dọc jx với độ  trượt lx khi phanh được thực  nghiệm trên các loại mặt đường: bêtông khô (1), afan  ướt (2), nền tuyết (3), nền   băng (4) mô tả trên hình 1.3. Trong thực nghiệm hệ số bám dọc lx được định nghĩa   bằng tỷ số giữa lực dọc (lực phanh) với tải trọng đặt lên bánh xe. Quá trình diễn biến hệ  số  bám dọc jx theo độ  trượt l xảy ra  ở  dạng đường  cong lồi. Trong trạng thái phanh nhẹ nhằm giảm vận tốc ôtô, giá trị độ trượt thấp.  Nếu càng tăng lực phanh, độ trượt cũng sẽ tăng, hệ số bám tăng tới một giá trị lớn   nhất (điểm đỉnh – B của hình 1.4) và bắt đầu suy giảm. Sự suy giảm hệ số bám sẽ  không cho phép tăng khả  năng tiếp nhận lực dọc và bánh xe dẫn tới bị  bó cứng.  Như  vậy đồ  thị  quan hệ  trên chia ra làm hai vùng: vùng  ổn định và vùng mất  ổn   định. Trong các cấu trúc ABS giá trị được lựa chọn trong khoảng 10% đến 30%, và   gọi là vùng điều chỉnh tối  ưu tương  ứng trên hình 1.4 và A, B, C. Tuy nhiên, qui   luật của hệ số bám và độ trượt trên các loại mặt đường khác nhau bị thay đổi, do   vậy cần thiết bổ sung thông số gia tốc góc bánh xe. Trên các ôtô ngày nay sử dụng cả hai thông số gia tốc phanh (a) và độ  trượt   (l) của bánh xe làm thông số  ngưỡng điều chỉnh thay đổi áp suất phanh của bánh   3
  4. xe, đồng thời sử  dụng chế  độ  điều chỉnh mức thấp với mục đích đảm bảo khả  năng quản lý độ trượt ở vùng ổn định. 2. Quan hệ vật lý của bám dọc, bám ngang với độ trượt ở bánh xe: Trong thực tiễn, bánh xe đồng thời thực hiện khả năng truyền lực dọc và lực  bên, đồ thị quan hệ của lực dọc, lực bên với hệ số bám như trên hình 1.5. Khi bánh   xe biến dạng chịu lực bên, còn kèm theo sự xuất hiện góc lệch bên a ở các bánh xe. Qui luật biến đổi của jy với độ trượt bánh xe Lamdax. ­ Hệ  số  jy sẽ  đạt giá trị  cực đại khi lamdax = 0, sau đó sẽ  giảm dần và đạt  đến giá trị thấp nhất tương ứng với trạng thái bị bó cứng bánh xe hoàn toàn. Điều  này có nghĩa: khi bánh xe dẫn hướng bị bó cứng, khả  năng điều khiển hướng ôtô  bằng vành lái sẽ không còn hiệu quả. ­ Trạng thái tối  ưu cho phép để  đạt được khả  năng tiếp nhận lực dọc và lực bên lớn (cả jx và jy đạt  giá trị cao), cần thiết hạn chế giá trị độ  trượt dọc của   bánh xe trong vùng l0 = (10 + 30)% và hệ  thống ABS   sẽ điều chỉnh độ trượt nằm trong vùng tối ưu đó. ­ Khi xem xét bánh xe đàn hồi có mặt của góc  lệch bên anpha, giá trị  Fix, Fiy sẽ  giảm khi góc lệch  tăng lên, khả năng ổn định của ôtô sẽ kém hơn. Giá trị độ trượt tối ưu l0 = (10 + 30)% là vùng tối  ưu mà hệ thống phanh có thiết bị ABS cần đạt được.  Vùng tối  ưu này được  ứng dụng thực tế  trên ôtô thông qua các thực nghiệm đối  với từng loại ôtô và cấu trúc ABS, bố trí trên xe. 3. Sự quay thân xe: Sự   quay   thân   xe   khi   phanh   gây   nên   lệch  hướng chuyển động của ôtô và làm khó khăn cho  việc   kiểm   soát   quĩ   đạo   chuyển   động   của   ôtô  bằng vành lái. Tuy nhiên, sự  quay thân xe xuất  hiện trên cầu trước và xuất hiện trên cầu sau sẽ  ảnh hưởng khác nhau đến quá trình phanh. Sự quay thân xe xảy ra trên cầu trước: Mô tả hiện tượng này trên ôtô có cầu trước điều khiển độc lập trên hình: 1.6.  Mô men gây quay thân xe Mz được xác định theo biểu thức: Mz = (Pp1 – Pp2+) B Pp1 và Pp2 là lực phanh sinh ra trên các bánh xe trái và phải. B: chiều rộng của hai vết lốp. Như  vậy sự  quay thân xe còn chịu  ảnh hưởng của trọng lượng toàn bộ  ôtô  (thông qua Jz) và chiều rộng của ôtô B. Sự quay thân xe xảy ra trên cầu trước, người lái còn có khả năng kịp thời điều   chỉnh vành lái, lấy lại quĩ đạo chuyển động của ôtô. Sự quay thân xe xảy ra trên cầu sau: 4
  5. Sự  quay thân xe xảy ra trên cầu sau  ảnh hưởng nhiều tới khả  năng giữ  quĩ  đạo chuyển động của ôtô, chỉ  có các lái xe có kinh nghiệm mới có khả  năng hiệu   chỉnh vành lái trong trường hợp này. Hạn chế  khả  năng quay thân xe do cầu sau sẽ  đảm bảo hiệu quả   ổn định   hướng chuyển động khi phanh, mặc dù phải chấp nhận yếu tố giảm khả năng tận  dụng trọng lượng bám. Do vậy trên các bánh xe cầu sau có bổ sung bộ điều chỉnh   cân bằng áp suất dầu phanh tới các bánh xe của cầu sau. 4. Nguyên lý chung của một mạch điều khiển phanh ABS: Hệ  thống phanh của ABS được bố  trí cho dẫn động phanh thủy lực và dẫn  động phanh khí nén với  các nguyên lý tổng quát  như nhau. ABS trong hệ thống phanh thủy lực là một hệ  thống tự  động điều chỉnh áp suất dầu đưa vào xy  lanh bánh xe sao cho phù hợp với chế  độ  lăn của  bánh xe nhằm loại trừ khả năng trượt lết của bánh  xe khi phanh. Một   mạch   điều   khiển   phanh   ABS   cho   một   bánh xe bao gồm: xy lanh chính 4, xy lanh bánh xe  2,   cơ   cấu   phanh   (giống   như   mạch   bố   trí   phanh  thông thường), và bố trí thêm: bộ điều khiển điện tử 5 (ECU); cảm biến đo tốc độ  góc   bánh   xe   1   (Sensor),   van   thủy   lực   điện   từ   3   điều   chỉnh   áp   lực   dầu   phanh   (Actuator). Sơ đồ một mạch điều khiển trình bày trên hình 1.7. Cảm biến tốc độ  bánh xe 1 có chức năng xác định tốc độ  quay của bánh xe,  làm việc như  một bộ  đếm số  vòng quay, tín hiệu của bộ  cảm biến tốc độ  được   đưa về bộ điều khiển điện tử (tín hiệu vào ECU – ABS). Bộ  điều khiển điện tử  5 làm việc như  một máy tính nhỏ  theo chương trình  đặt sẵn. Tín hiệu điều khiển van điện tử (output signal) phụ thuộc vào tín hiệu của   cảm biến (input signal) và chương trình vi xử  lý, xác định chế  độ  làm việc của   bánh xe (theo độ  trượt), đưa ra tín hiệu điều khiển van điều khiển (cơ  cấu thừa   hành), thiết lập chế độ điều chỉnh áp suất dầu phanh ở bánh xe. Van điều chỉnh áp suất 3 (hay môdun điều khiển áp lực phanh), là cơ cấu thừa   hành của ABS (Actuator). Nhiệm vụ của nó là tạo nên sự  đóng, mở đường dầu từ  xy lanh chính đến xy lanh bánh xe tùy thuộc vào tín hiệu điều khiển của ECU –   ABS. Cấu trúc của van điều chỉnh áp suất là các van con trượt thủy lực được điều   khiển bằng điện tử. Sự thay đổi áp suất trong xy lanh bánh xe tạo nên sự thay đổi   mômen phanh bánh xe tiến hành phanh hay nhả phanh. Ngoài ra trong ABS còn có nguồn bổ sung năng lượng như: bình dự trữ dầu áp   suất thấp, bơm cầu, bình tích năng giảm xung, van an toàn hệ thống. Nguyên lý làm việc cơ bản của ABS như sau: Khi bắt đầu phanh, bánh xe quay với tốc độ quay giảm dần, nếu bánh xe đạt   tới giá trị gần bó cứng, tín hiệu của cảm biến chuyển về bộ điều khiển trung tâm.  ECU­ABS lựa chọn chế độ, đưa ra tín hiệu điều khiển van điều chỉnh áp suất ( giữ   5
  6. hay cắt đường dầu từ xy lanh chính tới xy lanh bánh xe), lực phanh ở cơ cấu phanh  không tăng được nữa, bánh xe có xu hướng lăn với tốc độ cao lên, tín hiệu từ cảm   biến lại đưa về ECU­ABS. ECU­ABS cung cấp lệnh điều khiển cụm van thủy lực   điện từ, giảm áp lực phanh, sao cho bánh xe không bó cứng. Nếu vận tốc góc của bánh xe lại tăng cao, cảm biến tiếp nhận thông tin này   đưa về  bộ  điều khiển điện tử  và lại tăng tiếp áp lực điều khiển, nhờ  đó bánh xe  lại bị  phanh và giảm tốc độ  quay tới khi gần bó cứng. Quá trình xảy ra được lặp  lại theo chu kỳ liên tục, tới khi bánh xe dừng hẳn. Cứ như vậy, hệ  thống điện tử  kiểm soát chế  độ  lăn có trượt của bánh xe, trong lúc vị  trí bàn đạp phanh không   thay đổi. Một chu kỳ điều khiển thực hiện khoảng chừng 1/10 s, do vậy ABS làm việc   rất hiệu quả, giúp cho bánh xe luôn nằm trong trạng thái phanh với độ trượt tối ưu,  tránh được hiện tượng bó cứng bánh xe. Quá trình này có thể  coi như  sự  nhấp   phanh liên tục của người lái khi phanh, nhưng mức độ chuẩn xác cao hơn và tần số  lớn hơn nhiều so với người lái xe có kinh nghiệm. Trong kết cấu thực tế hệ thống được tổ hợp là nhiều mạch (kênh) điều khiển   khác nhau cho từng bánh xe hay một số bánh xe. Để giữ cho các bánh xe làm việc ở  vùng có hệ số trượt l0 với lực phanh tối ưu và không xảy ra sự khóa cứng các bánh  xe cần phải điều chỉnh áp suất dầu dẫn đến cơ cấu phanh. 5. Kiểm soát độ trượt bánh xe: Việc điều chỉnh được thực hiện nhờ các thông số sau: ­ Theo giá trị độ trượt cho trước; ­ Theo gia tốc góc của các bánh xe bị phanh; ­ Theo giá trị tỷ số giữa vận tốc góc bánh xe với gia tốc chậm dần của nó. Trong thực tế  việc xác định trực tiếp độ  trượt rất khó khăn, đặc biệt là khi   phanh gấp trên nền trơn, giá trị  độ  trượt nhanh chóng vượt quá giới hạn độ  trượt   tối ưu, bộ ECU của ABS sẽ tính toán thông qua các giá trị  khác như: vận tốc góc,   gia tốc góc của bánh xe và gia tốc dài của xe. Các hệ  thống ABS ngày nay sử  dụng cảm biến đo vận tốc bánh xe theo thời   gian và xác lập các mối quan hệ say đây trong ECU: vận tốc tức thời của bánh xe,   gia   tốc   góc   của   bánh   xe,   độ  trượt bánh xe. Mô tả  quá trình kiểm soát  độ  trượt theo gia tốc trình bày  trên hình 1.8. Phương   pháp   quản   lý   độ  trượt   của   bánh   xe   trên   cơ   sở  các tín hiệu tiếp nhận từ  cảm  biến vận tốc bánh xe được giải  thích như sau: 6
  7. Vận tốc chuyển động của ôtô Vxe được hình thành trên cơ  sở  các vận tốc  quay của các bánh xe bị phanh Vk. Việc xác định được giá trị  gia tốc giới hạn (­a) được xuất phát từ  giá trị  vận   tốc giới hạn của bánh xe là v (l1) với l1 nằm trong vùng độ  trượt tối ưu. Nếu giá   trị tuyệt đối l1 càng lớn (bánh xe bị phanh bó cứng nhiều), giá trị vận tốc giới hạn v  (l1) càng nhỏ và ngược lại. Giá trị giới hạn ­a dùng để điều khiển chuyển chế độ  tăng áp sang chế độ giữ áp hay giảm áp. Tại giá trị vận tốc bánh xe, thực hiện chế độ điều chỉnh, tốc độ bánh xe được  ghi nhận là tốc độ đại diện vdd và dùng để kiểm soát giá trị vận tốc giới hạn theo   độ  trượt v(l1). Quá trình thay đổi Vdd bám sát quá trình biến đổi vận tốc ôtô, cho  tới khi giá trị Vk = Vdd, Vdd lại lấy theo Vk. Điều này đảm bảo độ  trượt nằm sát  vùng tối ưu l0. Khi nhả  phanh, bánh xe đạt được gia tốc dương, giá trị  giới hạn +a thường   thấp hơn giá trị tuyệt đối của ­a, nhằm hạn chế sự tăng gia tốc góc lớn. Giá trị giới   hạn +a dùng để điều khiển chuyển chế độ giữ áp hay giảm áp sang chế độ tăng áp. III. CÁC SƠ ĐỒ BỐ TRÍ ABS TRÊN ÔTÔ CON NGÀY NAY 1. Các loại dẫn động phanh thủy lực: Ngày nay trên ôtô con chỉ  cho phép chế  tạo dẫn động phanh hai dòng, xy  lanh “tăngđem” với các sơ đồ kết cấu dẫn động phanh cơ bản sau ­ Bố trí dẫn động độc lập cho từng cầu (kiểu T); ­ Bố trí dẫn động chéo (kiểu K). Trên cơ sở của hai dạng, hình thành các cấu trúc ABS khác nhau, với việc   bố  trí cụm van điều chỉnh áp suất đặt trên các mạch dẫn động phanh khác nhau.  Tùy thuộc vào mức độ phức tạp yêu cầu các cấu trúc ABS sẽ có các kết cấu bố trí   khác nhau. 2. Các cấu trúc điều khiển hệ thống ABS: Trong các chương trình thiết lập của ECU­ABS, các môđun điều khiển áp  suất có liên quan trong hệ thống với nhau. Tùy thuộc vào loại cảm biến, thiết lập  chương trình điều khiển có thể  phân chia ra một số  nguyên tắc điều khiển khác   nhau: điều khiển theo điều kiện bám thấp “SL”, điều khiển độc lập từng bánh xe  “IR”, điều khiển độc lập cải biên “IRM” Các   khái   niệm  điều khiển này gắn liền  với   khả   năng   đảm   bảo  hiệu quả  phanh và tránh  quay   thân   xe   khi   phanh  như đã trình bày. Hiệu   quả   làm  việc của hệ  thống phanh  ABS   phụ   thuộc   vào   sự  làm việc của tất cả  các  bánh   xe,   trước   hết   phụ  7
  8. thuộc vào các cấu trúc bố  trí ABS trên các mạch dẫn động phanh cơ  bản của ôtô.   Các mạch dẫn động phanh có điều chỉnh áp suất trong hệ  thống ABS phụ  thuộc   vào kết cấu dẫn động phanh cơ  sở, yêu cầu của phương pháp điều chỉnh áp suất   đối với các bánh xe và số lượng kênh điều chỉnh, cảm biến tốc độ bánh xe. a. Loại có 4 cảm biến – 4 kênh điều khiển, kiểu dẫn động T:  Các bánh xe cầu trước, cầu sau được điều khiển độc lập (hình 2.1) nhờ  các   cảm biến và van điều khiển áp suất độc lập “IR/IR”. Do điều khiển riêng rẽ  cho  từng bánh xe nên tạo được hiệu quả  phanh cao, các bánh xe dẫn hướng dễ  dàng  điều khiển hướng chuyển động. Cấu trúc phù hợp với ôtô con thường xuyên sử  dụng ở vận tốc cao, trên nền đường tốt, đồng nhất. Tuy nhiên, khi đi trên nền đường có hệ  số  bám khác nhau, lực phanh sinh ra   không bằng nhau giữa bánh xe trái và phải, sẽ xuất hiện mômen quay thân xe xung   quanh trục đứng lớn, các lực bên  ở  các bánh xe khác nhau nhiều. Việc xuất hiện   lực bên đồng thời xảy ra góc lệch bên bánh xe, kết quả  có thể  làm xấu  ổn định   hướng chuyển động. Trong sơ đồ cho phép ứng dụng với các phương pháp bố trí truyền lực với ký  hiệu được ghi: ­ Động cơ đặt trước, cầu trước chủ động (Front engine, Front drive – FF); ­ Động cơ đặt trước, có cầu sau chủ động (Front engine, Rear drive – FR) Với cấu trúc FF, trọng lượng xe được đặt lớn hơn  ở  trên các cấu trước, khi  phanh tải trọng của xe tăng  ở  phía trước và tải trọng phanh bố  trí cho cầu trước   chiến khoảng 70% lực phanh của toàn xe. Điều này có nghĩa rằng: hầu hết năng   lượng phanh tập trung trên cầu trước và cần đạt đến giá trị  hệ  số  bám dọc lớn  nhất khi ABS hoạt động, do vậy trên các bánh xe cầu trước sử  dụng điều khiển  độc lập là cần thiết. Loại ABS điều khiển riêng rẽ   ở  trên tuy không hoàn toàn tối  ưu về  tính  ổn   định hướng khi phanh, nhưng được sử  dụng với các hệ  thống có ABS và liên hợp   điều khiển (sẽ trình bày ở các phần sau). b. Loại có 4 cảm biến – 3 kênh điều khiển dẫn động T: Loại   có   4  cảm biến – 3 kênh  điều khiển được sử  dụng phổ  biến trên  xe   có   ABS   đơn  giản với 3 cấu trúc  như trên hình 2.2. Cấu   trúc  (2+1):  Các bánh xe  cầu   trước   điều  khiển  độc  lập,  các  bánh xe cầu sau sử  8
  9. dụng hai cả biến riêng rẽ nhưng chỉ có một van điều khiển chung. Các bánh xe của  cầu sau được điều khiển chung theo tín hiệu trượt từ  bánh xe có hệ  số  bám thấp   hơn (điều khiển chung cả  hai bánh xe bởi mạch logic “điều khiển SL”). Cấu trúc  này giảm được sự xoay thân xe, nâng cao khả năng tiếp nhận lực bên ở cầu sau. Cấu trúc (1+2): Các bánh xe cầu trước sử dụng hai cảm biến riêng nhưng  có một van điều khiển chung, làm việc theo “điều khiển SL”, các bánh xe của cầu   sau điều khiển độc lập “IR”. c. Loại có 3 cảm biến   –   3   kênh   điều   khiển,   kiểu   dẫn động T: Loại  3  cảm   biến  – 3  kênh điều khiển trình bày trên  hình 2.3. Cấu  trúc (2+1)  dùng trên  xe   cấu   trúc   FR.   Hai   bánh   xe  trước   được   điều   khiển   độc  lập cải biên (IRM”. Khi phanh  trên nền đường có hệ  số  bám  khác   nhau,   các   bánh   xe   được  điều khiển độc lập đảm bảo khả năng tiêu hao lớn động năng của ôtô, mặt khác do  sự  tăng tải nên mômen phanh tại bánh xe cầu trước có hệ  số  bám cao tăng chậm,  giúp cho người lái có đủ  thời gian để  điều khiển các bánh xe dẫn hướng phù hợp  với sự  điều chỉnh trên vành lái. Cầu sau chủ động có một cảm biến đặt ở  truyền   lực chính, còn van điều chỉnh bố trí trước khi chia đường dầu ra các bánh. Cấu trúc (1+2) dùng trên xe có cấu trúc FF. Một van và một cảm biến đặt ở  cầu trước, hai cảm biến và hai van điều khiển đặt  ở  hai bánh xe sau (bộ  điều  khiển độc lập IR). Cấu trúc hình thành khả  năng điều khiển cân đối lực phanh tại hai bánh xe  cầu trước khi chuyển động với vận tốc cao, trên đường tốt. Sự  gia tăng tải trọng   thẳng đứng trên cầu trước cho phép hạn chế  khả  năng bó cứng các bánh xe cầu   trước và tận dụng tối đa lực bám  để  tăng lực phanh, tiêu hao động  năng ôtô khi phanh gấp. c. Cấu   trúc   ABS   đối   với dẫn động phanh   kiểu dẫn động “K”: Hai sơ  đồ  sử  dụng được  trình bày trên hình 2.4. Bộ   điều   khiển   độc   lập  “IRM/IR” – 4 kênh điều khiển 4  cảm   biến   bố   trí   chéo,   bánh   xe  phía   trước   điều   khiển   độc   lập  9
  10. cải biên “IRM”, các bánh phía sau bố trí độc lập “IR”. Bộ điều khiển dạng 2+2 đặt   chéo “IRM/IR” đảm bảo người lái xe dễ  dàng điều khiển trong tình huống phanh  cần thiết. Sơ đồ (2+2) này được sử dụng nhiều trên các loại xe có ABS và liên hợp  TRC, VSC. Loại 2 cảm biến 2 kênh điều khiển bố  trí trên cầu sau, thực hiện “điều  khiển IR”, được sử  dụng trên xe loại FF có giá thành rẻ. Cũng như  các cấu trúc   tương tự, cấu trúc này không có khả  năng rút ngắn quãng đường phanh khi phanh  gấp (thậm chí còn gia tăng quãng đường phanh do việc hạn chế lực phanh trên cầu   sau và ảnh hưởng xấu đến khả năng ổn định hướng). Các cấu trúc theo sơ  đồ  2 kênh, 1 kênh ngày nay không bố  trí trên ôtô con  nữa, kể cả cho dạng bố trí dẫn động phanh kiểu K và kiểu T. 3. Sơ đồ tổng quát của ABS: Trên   hình  2.5   trình   bày   sơ  đồ   cấu   trúc  chung   của   hệ  thống   ABS   loại  “IR/IR”   có   4  cảm   biến,   4  kênh điều khiển  trên ôtô con phổ  thông.  Các môđun  điều khiển ABS  là   các   van   điện  từ  điều chỉnh áp suất dẫn tới xy lanh bánh xe. Mỗi kênh điều khiển của xe bố  trí  các môđun điều khiển theo hai dạng: ­ Mỗi kênh sử dụng 1 van 3 vị trí (môđun 3 vị trí). ­ Mỗi kênh sử dụng 2 van 2 vị trí (môđun gồm 2 van 2 vị trí). 4. Cấu trúc, nguyên lý làm việc một môđun 3 vị trí: 10
  11. Toàn bộ các cụm van được bố  trí trong block thủy lực. Tách riêng một mạch  điều khiển của van 3 vị trí được mô tả trên hình 2.6a. Môđun (3a) là cụm van thủy lực điện từ  3 vị  trí, đặt nằm giữa xy lanh chính  (4) và xy lanh bánh xe (2). Môđun làm việc gắn liền với bơm và van điều tiết áp  suất (3c), bầu tích năng (3b). Môtơ bơm có nhiệm vụ cung cấp dầu có áp suất cao   (120 – 130) bar cho van khi cần thiết, cuộn dây của van được điều khiển nhờ  tín   hiệu điều khiển của ECU­ABS. Mạch thủy lực của bơm dầu nối song song v ới   mạch thủy lực điều khiển xy lanh bánh xe và cung cấp dầu hay chuyển dầu qua hai  van một chiều. Bầu tích năng bố trí song song với bơm làm nhiệm vụ ổn áp đường  dầu trong quá trình điều khiển và là nơi tích trữ  năng lượng khi xy lanh bánh xe  giảm áp. Điện áp điều khiển cuộn dây ở 3 mức (0; 2; 5A). Cụm van (3a) bao gồm: cuộn dây điện (4) bố  trí trong vỏ  của cụm van, cuộn  dây 4 tạo nên từ trường khi cho dòng điện đi qua, lõi thép từ (5) đặt trong cuộn dây  có khả  năng di chuyển theo cường độ  từ  trường tạo ra, lõi thép từ  luôn chịu tác  động của lò xo định vị  các van A, van B bố  trí nằm trong lõi thép từ, liên kết với   nhau thông qua các lò xo nhỏ. Van A có nhiệm vụ đóng mở mạch cấp dầu cho xy   lanh bánh xe, van B có nhiệm vụ đóng mở mạch thoát dầu sang bình tích dầu (3b).   Trong lõi thép từ có một cửa dầu C cấp dầu thông qua lõi thép (2). Các trạng thái điều khiển cho một bánh xe bao gồm: chế độ phanh trước điều  chỉnh, chế độ giữ áp, chế độ giảm áp, chế độ tăng áp trở lại. a. Chế độ phanh trước điều chỉnh (phanh bình thường): Ở  trạng thái phanh bình thường (hình 2.6a) khi bánh xe được phanh chưa tới  giới hạn của độ trượt tối ưu ECU­ABS không gửi dòng điện đến cuộn dây của các  van điện. Do vậy các cuộn dây chưa bị điều khiển. Khi đó lõi thép 5 bị đẩy xuống  dưới tác dụng lò xo nén, van A mở, van B đóng. Khi tác động lên bàn đạp phanh,   dầu có áp suất từ  xilanh phanh chính (7) qua van A đến cửa C và đưa tới xilanh   bánh xe (2) thực hiện tăng áp phanh bánh xe. Dầu phanh không đi qua bơm bởi van   một chiều đóng kín. Bơm không hoạt động. 11
  12. Khi thôi phanh, dầu hồi từ xilanh bánh xe (2) về  xilanh phanh chính (7) thông  qua cửa C và van A. Lúc này môđun đóng vai trò như đường thông dẫn dầu. Khi xe chuyển động với tốc độ cao, thực hiện phanh với cường độ phanh lớn   hơn, ECU­ABS được đưa vào hoạt động, quá trình tăng áp xảy ra theo mạch bình  thường. Bơm làm việc ở chế độ không tải. Nếu bất kỳ bánh xe nào có độ trượt gia   tăng tới giới hạn trượt trong khoảng định sẵn (thông qua ECU­ABS) van thủy lực   điện từ sẽ được điều khiển giữ áp suất dầu phanh tác dụng lên xilanh của bánh xe  đó. b. Chế độ giữ áp (hình 2.6b): Khi áp suất bên trong xilanh công tác tăng, cảm biến độ thu nhận thông tin về  tốc độ bánh xe đạt giá trị mong muốn. ECU­ABS cấp dòng điện 2A đến cuộn dây   van điện từ để điều khiển van giữ áp suất dầu không đổi đến xilanh công tác. Điện áp của cuộn dây do ECU­ABS ở mức 2A, lực điện từ sinh ra trong cuộn   dây giữ lõi thép ở vị trí giữa, đóng van A, van B chưa được mở (vẫn đóng). Van A   đóng giúp cho mạch dẫn động dầu ngăn cách giữa xilanh chính và xilanh bánh xe.  Cửa C sẽ  không chịu  ảnh hưởng của áp suất dầu từ  xilanh chính do van A đóng.   Áp suất dầu trong xilanh bánh xe không gia tăng được nữa.  Chế độ giữ áp cũng được thực hiện như thế khi bánh xe đang nằm trong giới  hạn   độ   trượt  định sẵn do quá  trình   giảm   áp  gây nên. c. Chế   độ   giảm   áp   (hình   2.6c): 12
  13. Khi một bánh xe có xu hướng bị tăng độ trượt vượt quá giới hạn định trước,   ECU­ABS sẽ  cấp tín hiệu dòng điện 5A đến cuộn dây. Lực điện từ  sinh ra trong   cuộn dây giữ lõi thép  ở  vị  trí trên cùng, đóng van A, van B được mở. Van A đóng   giúp cho mạch dẫn động dầu ngăn cách giữa xilanh chính và xilanh bánh xe. Dầu  phanh từ  xilanh công tác qua cửa B hồi về bầu tích (3b), áp suất dầu trong xilanh   bánh xe giảm. Nếu áp suất dầu từ xilanh bánh xe còn lớn, ban đầu chất lỏng san bằng với   áp suất trong bầu (3b), sau đó được bơm chuyển qua van một chiều quay trở  về  xilanh chính. Do cửa A đóng, dầu không vào được van điện từ  nên không  ảnh   hưởng tới quá trình giảm áp suất của xilanh bánh xe giảm, ngăn không cho bánh xe  bị khóa cứng. Mức độ giảm áp suất dầu được điều chỉnh bằng cách lặp lại các chế  độ giảm áp và giữ. Van điện từ ở vị trí này cho tới khi bánh xe chuyển động tới giá trị  độ  trượt  cho phép. Tiếp theo van điện từ  quay trở  lại chế  độ  “giữ  áp” hay “tăng áp” tùy  thuộc theo tín hiệu nhận được từ bánh xe, và chu kỳ điều khiển lại lặp lại. d. Chế độ tăng áp trở lại: Khi độ trượt giảm nhỏ cần tăng áp trong xilanh công tác để tạo nên lực phanh  lớn. ECU ngắt dòng điện cấp cho van điện. Lực từ trường không còn, nhờ lực hồi  vị  của lò xo mà van phía trên dịch chuyển xuống mở  van A, van B đóng. Dầu từ  xilanh chính chảy qua cửa C đến xilanh công tác, thực hiện gia tăng áp suất, mômen   trên bánh xe. Mức độ  tăng áp được điều khiển nhờ  lặp lại chế  độ  tăng áp và giữ  áp. Môtơ  bơm hoạt động. Đồng thời sự  tăng hay giảm áp suất chất lỏng có thể  xảy ra liên tục bằng phương pháp tương tự  mà không bị  xảy ra mạch động trong   điều khiển. Sơ đồ ở trạng thái như trên hình 2.6a. 4. Sơ đồ tổng quát hệ thống ABS sử dụng 3 van 3 vị trí (kiểu T): Sơ  đồ  hệ  thống phanh ABS chỉ ra trên (hình 2.7) có bộ  điều hòa áp suất (đặt  ngay sau xilanh chính) cho hai dòng dẫn động. Cảm biến gia tốc dọc có thể  bố  trí  hay không trên một số xe 2WD. 13
  14. Các nhà sản xuất chế tạo theo tiêu chuẩn, nhằm giảm thiểu sự phức tạp trong   công nghệ. Các van thủy lực điện từ  ngày nay trên ôtô con đều bố  trí trong một khối   (block) thủy lực. Khối này đặt gọn bên cạnh (hay đặt tách rời) với ECU­ABS. Như  vậy cả hai van được làm việc trên cơ sở tín hiệu điện của ECU­ABS, ở mỗi van có  hai vị  trí tương  ứng với trạng thái tín hiệu cấp: ON, OFF. Tổ  hợp các trạng thái   mạch điều khiển thực hiện chức năng tăng áp, giữ  áp, giảm áp (tương tự  như  môđun điều khiển của loại van 3 vị trí). Hệ thống thuộc hệ thống phanh ABS tiêu chuẩn với 3 hay 4 cảm biến tốc độ  và 3 kênh điều chỉnh (2+1), với kiểu bố trí dẫn động phanh T. Một kênh điều chỉnh   cho hai bánh xe sau đảm bảo hạn chế sự khác nhau của lực phanh trên cầu sau. Hai   kênh bố trí trên cầu trước độc lập (IRM) cho phép sử dụng tối đa lực bám của các  bánh xe cầu trước và tăng khả  năng điều khiển hướng chuyển động của bánh xe   dẫn hướng. Việc sử dụng bộ điều hòa áp suất giữa hai dòng dẫn động cho phép đảm bảo   cung cấp đủ lớn lượng dầu cho hai bánh xe cầu sau mà không gây nên sự thay đổi   áp suất dẫn động chung.  ­ Một van 2 vị trí thực hiện chức năng đóng và mở đường dầu. Tổ hợp 2 van 2   vị trí thực hiện dễ  dàng các chức năng tăng áp, giữ  áp và giảm áp của mạch điều  chỉnh áp suất.  ­ Mỗi van chỉ bao gồm 2 vị trí đối ngược nhau (ON, OFF), tương  ứng với các   trạng thái cấp và ngắt đường dầu qua một van khi con trượt di chuyển trong vỏ.   Mạch logic điều khiển này phù hợp với hệ cấp tín hiệu ở hai mức, nâng cao độ tin   cậy của hệ  thống, rút ngắn khoảng thời gian chậm tác dụng và nâng cao tần số  điều khiển. Cấu trúc cụ thể van 2 vị trí dùng trên ABS của các nhà chế tạo có thể  khác nhau, song đều 5. Cấu tạo, nguyên lý làm việc của một modun 2 van 2 vị trí: Ngày nay trên ôtô con phần lớn chuyển sang sử  dụng cấu trúc mô đun điều chính  áp suất dạng 2 van 2 vị trí. Cấu trúc của van 2 vị trí khác với van 3 vị trí. Sơ đồ cấu   tạo của các van dùng trong các tài liệu kỹ thuật hiện nay trình bày trên hình 2.8. Sử dụng môđun hình thành bởi tổ hợp 2 van 2 vị trí cho mạch điều khiển đảm  nhận chức năng tương tự như  loại môđun 3 vị  trí,  tuy nhiên có nhiều ưu điểm nổi bật: ­ Hệ  thống ABS có nhiều khả  năng tổ  hợp   với các tính năng khác (BAS, TRC,…), bằng cách  gia tăng thêm số lượng môđun điều chỉnh. Khi phanh xe, áp suất dầu được cung cấp bởi   xilanh chính tăngđem đi qua van dầu (A) đến từ  xilanh bánh xe và một phần được cấp cho bầu tích  năng qua một van tiết lưu. a. Chế   độ   phanh   trước   giới   hạn   điều   chỉnh: 14
  15. Khi phanh bình thường (hình 2.9a), tín hiệu điều khiển không được đưa vào  ECU­ABS. ECU­ABS không cấp điện cho các van điện từ A và van điện từ B, van   A mở, còn van B đóng. Dầu từ  xilanh chính qua van A truyền trực tiếp  tới xilanh bánh xe, van B ngắt đường dầu về  bơm,   thực   hiện   đưa   dầu   tăng   áp   đến   bánh   xe,   tạo   sự  phanh trước giới hạn điều chỉnh  ở  cơ  cấu phanh.  Bánh xe đang lăn trơn trên đường được phanh bởi  cơ cấu phanh và xuất hiện sự trượt lết bánh xe trên  nền đường với độ  trượt tăng dần theo sự  gia tăng  của áp suất dầu trong xilanh bánh xe. Độ trượt bánh  xe trên nền đường tăng dần tới giới hạn cần thiết  phải điều chỉnh, ECU­ABS xuất tín hiệu điện, van  A   chuyển   sang   chế   độ   đóng,   ngắt   dầu   cấp   tới  xilanh, kết thúc chế độ tăng áp, chuyển sang chế độ  giữ áp. b. Chế độ giữ áp (hình 2.9b): Nếu bánh xe bị  phanh tới giới hạn  độ  trượt  cần điều chỉnh (gia tốc phanh hoặc độ  trượt giới hạn), thông tin từ  cảm biến về  tốc độ  bánh xe gửi về  ECU­ABS. ECU­ABS thực hiện duy trì áp suất dầu bằng   cách: chuyển tín hiệu đến van A và ngắt mạch cấp dầu, trong lúc van B vẫn đóng  kín đường thoát dầu. Áp suất dầu trong xilanh bánh xe không thay đổi tạo nên chế  độ giữ áp suất dầu. Mômen phanh không tăng được, duy trì độ trượt của bánh xe. Trong thực tế  quan hệ  lăn của bánh xe trên đường liên tục biến đổi, độ  trượt  bánh xe cũng thay đổi và dẫn tới các trạng thái: ­ Nếu độ trượt giảm nhỏ hơn độ trượt giới hạn, mạch điều khiển cần chuyển   về chế độ tăng áp suất dầu trong xilanh phanh bánh. ­ Nếu độ  trượt tăng cao hơn độ  trượt giới hạn, mạch điều khiển cần chuyển  về chế độ giảm áp suất dầu trong xilanh phanh bánh. Các cảm biến tốc độ  quay của bánh xe tiếp nhận các tín hiệu này, chuyển về  bộ  vi xử  lý (ECU­ABS) và ECU đưa ra các tín hiệu điều khiển các van điện từ  thích hợp. Quá trình giữ  áp có thể  duy trì với một  khoảng thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào sự biến  đổi độ trượt của bánh xe trên nền đường. c. Chế độ giảm áp (hình 2.9c): Nếu độ  trượt (hoặc gia tốc) bánh xe đột ngột  gia   tăng   vượt   quá   giới   hạn   cho   phép,   mạch   điều  chỉnh thực hiện giảm áp suất dầu bằng cách: ECU­ ABS chuyển tín hiệu đến van A và ngắt mạch cấp  dầu, chuyển tín hiệu đến van B mở đường thoát dầu   sang bình dự  trữ  (7). Áp suất dầu trong xilanh bánh  15
  16. xe và mômen phanh giảm, giảm độ  trượt của bánh xe với nền.Khi giảm áp suất  dầu: ­ Nếu áp suất dầu sau van B cao, dầu được chuyển vào bình dự trữ (7) và đẩy   van một chiều chảy vào bơm. Bơm hút dầu chuyển về bình tích năng (4), chuẩn bị  đáp ứng điều kiện khi cần thay đổi chế độ làm việc tiếp sau. ­ Nếu áp suất dầu sau van B thấp, dầu chứa vào bình dự trữ. d. Chế độ tăng áp trở lại: Nếu độ trượt của bánh xe đột ngột giảm quá giới hạn tối ưu cho phép, thông  tin tốc độ bánh xe từ cảm biến gửi về ECU­ABS, ECU­ABS thực hiện tăng áp suất   dầu bằng cách: cắt tín hiệu đến van A và đóng mạch cấp dầu, cắt tín hiệu đến van  B ngắt đường thoát dầu sang bình dự trữ. Chế độ làm việc của mạch điều chỉnh áp   suất thực hiện như trên hình 2.9a. Áp suất dầu trong xilanh bánh xe được tăng dần,   mômen phanh trong cơ cấu phanh tăng, độ trượt lại tăng tới giới hạn yêu cầu. Sự tăng áp trong trạng thái điều chỉnh này của mạch ABS không có sự gia tăng  áp lực từ bàn đạp phanh, mà thực hiện cấp năng lượng (qua áp suất dầu) từ  bơm   dầu. Nhờ tác dụng cấp năng lượng từ bơm dầu thông qua bình tích năng nên người   lái không cảm thấy sự thay đổi lực trên bàn đạp. Trong suốt quá trình điều chỉnh ABS, các van được điều khiển bằng cuộn dây   từ trường chuyển trạng thái tắt hay mở trong một khoảng thời gian rất nhanh bởi   hệ  điều khiển điện tử. Sự  đóng ngắt mạch cấp dầu điều chỉnh theo sự  quay của   bánh xe với giới hạn độ trượt tối ưu. 6. Sơ đồ tổng quát hệ thống phanh ABS sử dụng môđun 2 van 2 vị trí: a. Sơ đồ tổng hợp mạch thủy lực ABS đơn thuần với 6 van 2 vị trí (kiểu   T): Mạch thủy lực ABS với 6 van 2 vị trí dẫn động kiểu T trình bày trên hình 2.10. Hệ thống được bố trí cho dẫn động phanh kiểu T với 3 cảm biến tốc độ và 3  kênh điều chỉnh (2+1). So với loại môđun 3 vị trí, loại môđun 2 van 2 vị trí có khả  năng dịch chuyển con trượt ngắn, nên trên một số  cấu trúc không bố  trí van một  chiều hồi dầu nhanh. Hai kênh bố  trí trên cầu trước độc lập (IRM). Một kênh cho hai bánh xe sau.  Để  đảm bảo hạn chế  áp suất ra cầu sau tránh bị  sớm tăng độ  trượt tới giới hạn   điều chỉnh, trên mạch dẫn ra cầu sau sử dụng van giảm áp suất. Cấu tạo của van giảm áp suất loại cơ  khí: sử  dụng van con trượt tiết lưu   lượng dầu tùy thuộc vào áp lực dẫn ra cầu sau, theo nguyên tắc càng tăng cường   độ phanh càng giảm áp suất ra cầu sau. Sơ  đồ  được sử  dụng với hệ  thống 3 cảm biến 3 kênh điều khiển. Khi sử  dụng với hệ thống điều khiển 4 cảm biến, mạch dẫn ra cầu sau được điều khiển   theo logic ở mức thấp “SL” như đã trình bày trước đây. 16
  17. Sơ đồ mạch thủy lực ABS với van 2 vị trí của hãng BOSCH trình bày trên hình   2.11, với dẫn động phanh chéo (K). Hệ thống ABS 5 này được áp dụng trên ôtô con   (năm 1994) với ký hiệu E38/M60. Các bộ  phận của mạch thủy lực được tổ  hợp  trong cùng một block thủy lực, các van điện từ được bố trí rời và lắp ráp ngay trên  thân của blok thủy lực. Khi cần bố trí bộ ECU­ABS với các môđun thủy lực có thể  liên kết với nhau bằng các cáp dẫn, đầu nối. Mạch thủy lực chia thành 2 phần cơ ban: cụm van ABS cơ bản, cụm van mở  rộng chức năng ABS. ­ Cụm van ABS cơ bản dùng với 8 van 2 vị trí cho 4 bánh xe điều khiển độc  lập “IR”, theo nguyên lý đã trình bày  ở  phần trên. Van A của mạch điều chỉnh có   thêm van hồi dầu nhanh, nhằm giúp cho việc mở  rộng đường dầu hồi, tạo điều   kiện nhanh chóng tiến hành phanh lần sau. ­ Cụm van mở rộng chức năng ABS bao gồm 4 van 2 vị trí. Mỗi mạch phanh  cấp dầu cho môđun điều k hiển ABS của bánh xe thông qua 2 van 2 vị trí và các van  một chiều, van an toàn áp suất. ­ Khi làm việc  ở chế  độ  phanh ABS thông thường các van 3 (nằm trong cụm   van mở rộng chức năng)  ở  trạng thái mở  thông đường dầu từ  xilanh chính tới các  cụm van ABS cơ bản, các van 4 ở trạng thái ngắt. ­ Khi làm việc  ở  các chức năng mở  rộng các van 3 và 4 đều ngắt mạch dầu  thông với xilanh chính. Van 4 chỉ  được mở  khi cần bù dầu vào hệ  thống ABS cơ  bản. 17
  18. So với các mạch thủy lực khác trên hệ thống có lắp van 3, van 4 tạo điều kiện   ngắt mạch dầu ra khỏi xilanh chính khi làm việc  ở  chế  độ  BAS, TRC, VSC. Các  van này được điều khiển bởi ECU­ABS và các chương trình chức năng sẽ trình bày  ở các bài sau. Mạch tín hiệu lấy từ  các cảm biến vận tốc quay của bánh xe và ECU­ABS   tính toán vận tốc chuyển động của ôtô (không có cảm biến gia tốc G). Từ  giá trị  vận tốc của từng bánh xe riêng lẻ xác định độ  trượt và vận tốc đặc trưng của ôtô.  Trong trường hợp đi thẳng, tốc độ đặc trưng nằm gần cùng độ trượt có hệ số bám   max. Trong trường hợp quay vòng, vận tốc đặc trưng tính toán thu được từ các cặp  bánh xe chéo có vận tốc lớn nhất. Từ giá trị này tính toán gia tốc bánh xe. Bộ  điều khiển điện tử  được trang bị  hai tổ  hợp xử  lý vi mạch song song   (Microprocessor) có liên hệ chặt chẽ và cả phần mềm kiểm soát, nhằm có thể xác   định đúng các hàm và mạch logic điều khiển. Khi có cùng tín hiệu vào, các tín hiệu   ra điều khiển phải phù hợp. Nếu có sự sai lệch mạch logic tại một thời điểm bất   kỳ  nào đó, các tính toán trước đó được loại bỏ  và van mở  mạch dầu 3 tạm ngắt.   Các hàm tính toán và mạch logic phân tích các tín hiệu tiến hành liên tục và có tốc  độ tính toán nhanh hơn nhiều lần sơ với một chu trình điều chỉnh áp suất thủy lực   trên hệ thống. Như vậy, việc sử dụng các môđun 2 van 2 vị trí giúp cho hệ thống ABS có thể  thực hiện được chức năng phanh với chế độ ABS cơ bản (khi đó sự phanh của hệ  thống ABS được tiến hành nhờ  tín hiệu đóng mạch điều khiển phanh từ  công tắc   bố trí ở bàn đạp phanh). Khi hoạt động  ở  chế  độ  BAS, TRC, VSC hệ  thống sử  dụng tín hiệu phanh   khẩn cấp (BAS) hay kích hoạt bằng phím bấm  ở  trên bảng điều khiển (TRC,  18
  19. VSC). Trong trường hợp này mạch năng lượng cung cấp phanh dùng từ  bơm dầu  mà không tiếp nhận năng lượng từ bàn đạp phanh và xilanh chính. PHẦN 4: CÁC BỘ PHẬN CHÍNH CỦA HỆ THỐNG ABS I   ­   ECU   điều   khiển  trượt: 1. Khái quát : ­ ECU nhận tín hiệu từ các  cảm biến tốc độ. ­ ECU đánh giá mức trượt  giữa các bánh xe và mặt đường  khi phanh. ­ ECU điều khiển các van  điện từ của bộ chấp hành theo 3  chế độ. 2. Điều khiển: ­ ECU ước tính tốc độ bánh  xe bằng cách tính toán tốc độ và  sự giảm tốc của mỗi bánh xe. 19
  20. ­ ECU sẽ phát hiện và giảm áp suất thủy lực trong xylanh của bánh xe sắp bị  bó cứng. 3. Điều chỉnh tốc độ bánh xe:  ­ Khoảng A :  ECU   đặt   các   van   điện   từ  vào chế  độ  “giảm áp” theo mức  giảm tốc của bánh xe. ECU  chuyển  các  van  điện  từ  vào chế  độ  “giữ” sau khi áp  suất   hạ   xuống   để   theo   dõi   sự  thay đổi tốc độ bánh xe. ECU   sẽ   lại   giảm   áp   suất  nếu   nó   cho   rằng   cần   tiếp   tục  giảm. ­ Khoảng B : Khi   áp   suất   thủy   lực   tác  động vào bánh xe giảm do giảm  áp   suất   thủy   lực   trong   xylanh  (khoảng A). ECU   đặt   các   van   điện   từ  lần lượt vào chế độ “tăng áp” và  “giữ”   để   bánh   xe   sắp   bị   khóa  hồi phục tốc độ. ­ Khoảng C: Khi áp suất thủy lực trong xylanh bánh xe được ECU tăng lên (khoảng B),bánh   xe lại có xu hướng bị khóa. ECU lại chuyển các van điện từ về chế độ “giảm áp”. Khoảng D : Vì áp suất thủy lực trong xylanh của bánh xe lại giảm (khoảng C),ECU lại   bắt   đầu   tăng   áp   suất   như   trong  khoảng B. 4.   Chức   năng   kiểm   tra   ban   đầu: ECU điều khiển các van điện từ  và   các   môtơ   bơm   theo   trình   tự   để  kiểm tra hệ thống điện của ABS. Chức năng này chỉ  hoạt động 1  lần mỗi khi bật khóa điện sang vị  trí  ON,   tốc   độ   xe   lớn   hơn   6km/h,   với   đèn phanh tắt. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2