Bài giảng Kinh doanh quốc tế: Chương 3 Các học thuyết thương mại quốc tế cung cấp cho người học những kiến thức như: Tổng quan học thuyết thương mại quốc tế; Những kiểu thương mại quốc tế; Học thuyết thương mại và chính sách của chính phủ;...Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung Text: Bài giảng Kinh doanh quốc tế: Chương 3 - TS. Vũ Thế Dũng
Tự do thương mại là khi chính phủ không sử
dụng các công cụ như quotas hay thuế làm
ảnh hưởng đến việc mua hàng hoặc bán hàng
của công dân trong nước với các nước khác
Smith, Ricardo và Heckscher-Ohlin chỉ ra
những ích lợi đối với một quốc gia khi tham
gia thương mại quốc tế với các nước khác,
thậm chí cả trong trường hợp quốc gia đó có
thể tự mình làm ra sản phẩm đó
Thương mại quốc tế cho phép một quốc gia:
◦ Chuyên nghiệp hóa sản xuất và lựa chọn xuất khẩu
những sản phẩm có hiệu quả hơn các nước khác
◦ Nhập khẩu những sản phẩm mà nước ngoài làm ra
có hiệu quả hơn
Có những kiểu thương mại quốc tế rất dễ
hiểu như Saudi Arabia xuất khẩu dầu, Ghana
xuất khẩu ca cao, và Brazil xuất khẩu cà phê
Nhưng, tại sao Thụy Sỹ xuất khẩu hóa chất,
đồng hồ và nữ trang? Tại sao Nhật Bản lại
xuất khẩu xe hơi, đồ điện tử và máy móc thiết
bị
Chủ nghĩa trọng thương khuyên các chính
phủ nên khuyến khích xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu
Smith, Ricardo và Heckscher-Ohlin khuyến
khích tự do thương mại không giới hạn
Các lý thuyết thương mại mới và lý thuyết của
Porter về lợi thế cạnh tranh quốc gia hiệu
chỉnh lại sự can thiệp có lựa chọn và có giới
hạn của chính phủ để hỗ trợ sự phát triển của
những ngành công nghiệp định hướng xuất
khẩu
Chủ nghĩa trọng thương cho rằng các quốc
gia nên chú trọng duy trì thặng dư thương
mại dương – xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu
Chủ nghĩa trong thương khuyến khích chính
phủ can thiệp vào thương mại để thặng dư
thương mại dương
Thương mại được xem như một trò chơi huề
vốn, nếu một nước có lợi thì sẽ có một nước
chịu thiệt
Adam Smith cho rằng một quốc gia có lợi thế
tuyệt đối trong sản xuất một sản phẩm nào
đó khi việc quốc gia đó có thể làm ra sản
phẩm đó hiệu quả hơn các quốc gia khác
Theo Smith, các quốc gia nên chuyên môn
hóa sản xuất và trao đổi với các quốc gia khác
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa
Giả sử rằng nước Ghana và Hàn Quốc có 200
đơn vị nguồn lực có thể dùng để sản xuất gạo
và ca cao
Ở Ghana, cần 10 đơn vị nguồn lực để sản
xuất một tấn ca cao và 20 đơn vị để sản xuất
một tấn gạo
Theo đó, Ghana có thể sản xuât tấn ca cao và
không sản xuất gạo, hoặc 10 tấn gạo và
không sản xuất ca cao, hoặc vừa sản xuất
gạo vừa sản xuất ca cao
Ở Hàn Quốc, cần 40 đơn vị nguồn lực để sản
xuất một tấn ca cao, và 10 đơn vị để sản xuất
một tấn gạo
Theo đó, Hàn Quốc có thể sản xuất 5 tấn ca
cao và không sản xuất gạo, hoặc 20 tấn gạo
và không sản xuất ca cao, hoặc vừa sản xuất
gạo vừa sản xuất ca cao
Ghana có lợi thế tuyệt đối về sản xuất ca cao
Hàn Quốc có lợi thế tuyệt đối về sản xuất gạo
Nếu không có thương mại:
◦ Ghana nên sản xuất 10 tấn ca cao và 5 tấn gạo
◦ Hàn Quốc nên sản xuất 10 tấn gạo và 2.5 tấn ca cao
Nếu mỗi nước chuyên môn hóa sản xuất
những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối và
trao đổi những sản phẩm khác:
◦ Ghana nên sản xuất 20 tấn ca cao
◦ Hàn Quốc nên sản xuất 20 tấn gạo
◦ Ghana có thể đổi 6 tấn ca cao để lấy 6 tấn gạo từ
Hàn Quốc
Sau khi trao đổi:
◦ Ghana sẽ còn lại 14 tấn ca cao và có thêm 6 tấn gạo
◦ Hàn Quốc sẽ còn lại 14 tấn gạo và có thêm 6 tấn ca
cao
◦ Cả hai quốc gia đều được lợi
David Ricardo đặt vấn đề rằng điều gì sẽ xảy
ra nếu một công ty có lợi thế tuyệt đối trên
tất cả sản phẩm
Lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo cho rằng
các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất
những sản phẩm mà họ sản xuất hiệu quả
nhất, và mua những sản phẩm mà họ sản
xuất ít hiệu quả hơn từ các nước khác, cho
dù họ có khả năng sản xuất ra những sản
phẩm đó hiệu quả hơn nước mà họ mua
Giả thiết rằng:
◦ Ghana sản xuất gạo và ca cao hiệu quả hơn
◦ Ở Ghana cần 10 đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 tấn
ca cao và 13 1/3 nguồn lực để sản xuất gạo
◦ Theo đó, Ghana có thể sản xuất toàn ca cao (20 tấn)
hoặc toàn gạo (15 tấn) hoặc vừa gạo vừa ca cao
◦ Ở Hàn Quốc, cần 40 nguồn lực để sản xuất 1 tấn ca
cao và 20 nguồn lực để sản xuất 1 tấn gạo
◦ Theo đó, Hàn Quốc có thể sản xuất toàn ca cao (5
tấn) hoặc toàn gạo (10 tấn) hoặc vừa gạo vừa ca cao
Nhờ có thương mại:
◦ Ghana có thể xuất khẩu 4 tấn ca cao qua Hàn Quốc
đổi lấy 4 tấn gạo
◦ Ghana sẽ còn 11 tấn ca cao và có thêm 4 tấn gạo
◦ Hàn Quốc sẽ có 6 tấn gạo và 4 tấn ca cao
◦ Nếu mỗi quốc gia chuyên môn hóa sản xuất những
sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh, và trao đổi với
quốc gia khác, cả hai quốc gia đều có lợi
◦ Lý thuyết lợi thế so sánh là một nền tảng vững chắc
để khuyến khích thương mại
Chỉ 2 quốc gia và 2 sản phẩm tham gia
thương mại
Không có chi phí vận chuyển
Giá bán và giá trị tương đương
Nguồn lực có thể linh hoạt giữa các sản phẩm
của một quốc gia, nhưng không thể vượt ra
ngoài biên giới của quốc gia
Lợi nhuận không đổi
Các nguồn lực không đổi về số lượng ban đầu
Không có ảnh hưởng đến phân phối thu nhập
trong nước
Các nguồn lực không phải luôn luôn có thể dịch
chuyển tự do từ hoạt động kinh tế này sang hoạt
động kinh tế khác, và có thể gây ra tình trạng
mất việc
Tự do thương mại không hạn chế tạo nên lợi ích,
tuy nhiên lợi ích thực tế có thể nhỏ hơn so với
mô hình lý thuyết đơn giản bởi vì một số hao hụt
hệ thống
Mở cửa thị trường một quốc gia:
◦ Có thể làm tăng nguồn lực của một quốc gia nhờ tăng
nguồn cung từ nước ngoài vào
◦ Có thề làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực cũng như
để mở việc sử dụng nguồn lực cho những mục đích khác
◦ Có thể giúp tăng trưởng kinh tế
Paul Samuelson tranh luận rằng gia tăng sự
linh hoạt trong thương mại không phải lúc
nào cũng có lợi
Xu hướng tuyển lao động từ bên ngoài, một
hệ quả của tự do hóa thương mại, có thể dẫn
đến làn sóng nhập cư ồ ạt vào nước Mỹ, dẫn
đến tiền lương giảm
Theo lý thuyết của Ricardo, lợi thế so sánh
tăng khi có sự chuyên môn hóa sản xuất
Eli Heckscher và Bertil Ohlin cho rằng lợi thế
so sánh đến từ sự khác biệt của các nhân tố
sẵn có giữa các quốc gia (đất đai, lao động và
vốn)
Lý thuyết Heckscher-Ohlin dự đoán rằng các
quốc gia sẽ xuất khẩu những sản phẩm được
sản xuất từ những nguồn lực họ dư dả và
nhập khẩu những sản phẩm được sản xuất từ
những nguồn lực họ thiếu hụt
Leontief triển khai từ lý thuyết rằng nước Mỹ
có lợi thế so sánh về vốn cho nên những sản
phẩm xuất khẩu từ Mỹ sẽ cần đầu tư nhiều
vốn và những sản phẩm nhập khẩu vào Mỹ sẽ
cần đầu tư nhiều lao động
Tuy nhiên, ông phát hiện ra rằng trong thực
tế nước Mỹ xuất khẩu những sản phẩm cần
đầu tư ít vốn hơn những sản phẩm nhập khẩu
Từ kết quả sai biệt so với dự đoán từ lý
thuyết, mâu thuẫn này được gọi là “the
Leontief Paradox”
Lý thuyết vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon
cho rằng khi các sản phẩm trưởng thành, cả khu vực
bán hàng và vùng sản xuất sẽ thay đổi làm ảnh
hưởng đến luồng và hướng thương mại
Vernon tranh luận rằng độ lớn cũng như mức đồ giàu
có của thị trường Mỹ làm cho các công ty Mỹ có nhiều
thuận lợi trong việc ra mắt các sản phẩm mới
Vernon tranh luận rằng đầu tiên sản phẩm nên được
sản xuất và bán tại Mỹ, sau đó khi nhu cầu ở các
nước phát triển khác lớn dần, các công ty Mỹ sẽ bắt
đầu xuất khẩu
Dần dần, nhu cầu đối với sản phẩm mới sẽ tiếp tục
tăng lên ở các quốc gia nhập khẩu, dẫn đến các công
ty ở những quốc gia này sẽ nhảy vào sản xuất để
cung cấp cho thị trường nội địa của họ