intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Ký sinh trùng y học: Phần 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2021)

Chia sẻ: Lôi Vô Kiệt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:112

14
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nối tiếp phần 1, phần 2 của tập bài giảng Ký sinh trùng y học tiếp tục cung cấp cho sinh viên những nội dung về: đại cương giun sán; giun ký sinh trong mô/tạng; sán lá ký sinh; đại cương tiết túc y học; sự liên quan giữa sinh thái của tiết túc đến dịch tễ học những bệnh do tiết túc truyền; đại cương vi nấm y học và các yếu tố liên quan khả năng gây bệnh của nấm; nguyên tắc và biện pháp phòng chống bệnh;... Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung bài giảng!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Ký sinh trùng y học: Phần 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2021)

  1. Chương 3. GIUN SÁN ĐẠI CƯƠNG VỀ GIUN SÁN 1. Đại cương Giun sán là những động vật đa bào, đa số sống tự do. Dựa trên hình dạng và giớitính: - Giun (Nemathelminths): thân hình ống, đơn tính. - Sán (Platyhelminth): thân dẹp. Sán ký sinh ở người được chia làm hai lớp:+ Sán dải (Cestoda): dẹp, dài, thân có nhiều đốt, lưỡng tính. + Sán lá (Trematoda): Thân dẹp, hình như chiếc lá. Gồm hai nhóm: Sán lá lưỡng tính: Ký sinh ở ruột, gan, phổi. Sán lá đơn tính: Ký sinh trong tĩnh mạch (sán máng) 2. Tính chất ký sinh của bệnh giun sán 2.1. Ký sinh vĩnh viễn Giun sán thường ký sinh vĩnh viễn trong cơ thể vật chủ, một số có thể phát triển ởngoại cảnh như giun lươn. Đa số giun sán ký sinh ở đường tiêu hoá, một số kýsinh ở các bộ phận khác như gan, phổi, cơ… 2.2. Ký sinh lạc chỗ Trước khi đến vị trí ký sinh, giun sán có giai đoạn di chuyển trong cơ thể vật chủgọi là giai đoạn chu du. Giun sán có thể di chuyển đến vị trí bất thường gọi là kýsinh lạc chỗ. 3. Chu kỳ phát triển Đa số chu kỳ phát triển của giun sán có 2 giai đoạn: sống trên vật chủ và pháttriển ở ngoại cảnh. Tuy nhiên có loại không cần phát triển ở ngoại cảnh như giunchỉ. Giun có chu kỳ phát triển đơn giản, sán thường có chu kỳ phức tạp hơn cácloại giun, chu kỳ phát triển của sán thường có nhiều vật chủ. Mỗi loại giun sán thường ký sinh trên một vật chủ nhất định. Một vài trường hợplạc vật chủ như giun đũa chó có thể xâm nhập vào người, hiện tượng này có thểlàm cho giun sán không hoàn thành được chu kỳ hoặc tuổi thọ ngắn. Trong cơ thể vật chủ, nhiều loại giun sán ký sinh ở đường ruột nên thức ăn chủyếu của giun sán là dưỡng chấp, một số lấy thức ăn là máu, sinh chất. 4. Đường xâm nhập Giun sán xâm nhập chủ yếu qua đường tiêu hóa (giun đũa, giun tóc, giun kim, sán 73
  2. lá gan, sán lá ruột, sán lá phổi, sán dải heo bò, sán dải cá…). Một số khác xâm nhập qua đường da (giun móc, giun lươn) hoặc qua vết đốt của côn trùng (giun chỉ) 5. Đường bài xuất của giun sán ra ngoại cảnh Tuỳ theo vị trí ký sinh mà mầm bệnh giun sán được bài xuất theo đường thải bỏ thích hợp như: giun sán ký sinh ở ruột, gan được ra ngoài theo phân, giun sán ký sinh ở phổi được ra ngoài theo đờm. 6. Sinh sản Chỉ sau khi thụ tinh trứng giun sán mới có khả năng phát triển. Giun sán có nhiều hình thức sinh sản: - Các loại giun chủ yếu sinh sản đơn tính như giun đũa, giun móc, giun tóc… - Các loại sán đa số sinh sản lưỡng tính như sán lá, sán dây. - Có thể sinh sản đa phôi hoặc sinh phôi tử. 7. Dịch tể học Nhiễm giun sán rất phổ biến ở nước ta, do có một số điều kiện thuận lợi: - Khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm rất thuận lợi cho sự phát triển của giun sán. - Sự phong phú của động vật và thực vật ở môi trường sống cũng tạo điều kiện thích hợp cho giun sán ký sinh nhiều ký chủ. 8. Tác hại của giun sán Nhiễm giun sán thường không phải là bệnh nguy hiểm nhưng nếu không phát hiện và điều trị sẽ gây suy dinh dưỡng, thiếu máu, thiếu sắt... đặc biệt là ở trẻ em. Khi nhiễm giun sán, sức đề kháng của cơ thể giảm, tạo điều kiện cho một số bệnh khác. Tác hại chủ yếu của giun sán ký sinh trên người như sau: - Chiếm thức ăn hoặc sinh chất của vật chủ: Giun sán ký sinh ở đường tiêu hoá, lấy thức ăn đã tiêu hoá dở dang của vật chủ và có thể gây suy dinh dưỡng cho vật chủ; một số lấy thức ăn là máu; các loại giun sán ký sinh ở tổ chức lấy thức ăn là sinh chất của cơ thể. - Giun sán có thể gây những biến chứng do chiếm thức ăn tuỳ thuộc vào mật độ và tuổi thọ của giun sán, tác hại này thường gặp ở trẻ em. 74
  3. - Rối loạn tiêu hoá: Những giun sán ký sinh ở đường tiêu hoá thường gây rối loạn tiêu hoá, bệnh nhân đau bụng vùng quanh rốn, chán ăn, tiêu phân lỏng hoặc táo bón. - Gây rối loạn chức phận các cơ quan: Một số giun sán có tỷ lệ mắc thấp như giun chỉ, sán lá gan, sán lá phổi,… có thể gây những rối loạn chức phận các cơ quan dẫn tới hậu quả nặng nề và có thể tử vong. - Gây dị ứng: Một số giun sán gây hiện tượng dị ứng cho cơ thể như giun móc gây mẩn ngứa khi chui qua da, giun đũa gây hội chứng Loeffler khi ấu trùng ở phổi. - Gây độc: Các loại giun sán ký sinh đều gây độc cho cơ thể vật chủ, mức độ gây độc nhiều hay ít tuỳ theo từng loại giun sán như giun móc tiết chất độc ức chế cơ quan tạo máu, nhiễm độc tuỷ xương. - Gây kích thích thần kinh: Một số giun sán kích thích thần kinh như giun kim gây ngứa hậu môn, có thể gây co giật cho trẻ hoặc gây đái dầm. - Gây biến chứng: Tuỳ theo từng loại giun sán mà cơ thể vật chủ có những biến chứng thậm chí gây nguy hiểm tới tính mạng bệnh nhân. Những biến chứng nội khoa như thiếu máu nặng, viêm nhiễm đường mật, những biến chứng ngoại khoa như tắc ruột, thủng ruột, viêm ruột thừa do giun. 9. Chẩn đoán bệnh giun sán 9.1. Lâm sàng - Bệnh giun sán thường ít có triệu chứng điển hình biểu hiện trên lâm sang, một số trường hợp có biến chứng rõ hoặc do tính chất ký sinh như giun kim gây ngứa hậu môn. - Bệnh giun sán thường dễ nhầm với các bệnh khác. 9.2. Xét nghiệm 9.2.1. Xét nghiệm trực tiếp Tuỳ từng loại giun sán mà lấy bệnh phẩm thích hợp như phân, đờm, dịch tá tràng, máu… làm tiêu bản soi trực tiếp dưới kính hiển vi... 75
  4. Phương pháp này thường áp dụng cho xét nghiệm phân bằng kỹ thuật xét nghiệm phân trực tiếp hoặc kỹ thuật Kato. Phương pháp xét nghiệm phong phú thường được áp dụng trong trường hợp mật độ giun sán ít, xét nghiệm trực tiếp không phát hiện được, các kỹ thuật thường được dùng như kỹ thuật Willis. 9.2.2. Các phương pháp khác Có thể dùng các phương pháp khác để chẩn đoán như chẩn đoán miễn dịch, nuôi cấy tìm ấu trùng… 9.3. Chẩn đoán dịch tễ Điều tra mầm bệnh ở vật chủ trung gian như ấu trùng sán lá phổi ở cua, ấu trùng sán lá gan nhỏ ở cá… Điều tra tập quán sinh hoạt của địa phương như ăn cá gỏi, ăn cua sống, dùng phân tươi bón cây trồng. Xét nghiệm một số mẫu bệnh phẩm của người dân địa phương. Điều tra mầm bệnh ở ngoại cảnh. 10. Điều trị bệnh giun sán 10.1. Nguyên tắc điều trị 10.1.1. Phù hợp - Chọn thuốc điều trị có hiệu quả cao, ít tính độc và tốt nhất thuốc có tác dụng với nhiều loại giun sán. - Thuốc dễ sử dụng, rẻ tiền, phù hợp với đa số người nhiễm. 10.1.2. Tính độc của thuốc - Các loại thuốc điều trị giun sán đều có tính độc và ít nhiều đều độc với người bệnh nên chỉ dùng khi có chẩn đoán chính xác, có biện pháp điều trị khi có tác dụng phụ. - Người già, trẻ em, phụ nữ có thai, không dùng cho các trường hợp có chống chỉ định. 10.1.3. Điều trị hàng loạt Một số bệnh giun sán phải điều trị nhiều người mới có kết quả tốt. 76
  5. Ex: Bệnh giun kim phải điều trị cả gia đình hoặc điều trị toàn bộ trẻ em vườn trẻ, nhà mẫu giáo. 10.1.4. Nguyên tắc khác Điều trị các giun sán có kích thước lớn trước, kính thước nhỏ sau. Nếu người bệnh mắc nhiều loại một lúc cần tránh biến chứng do giun sán phản ứng với thuốc, dễ di chuyển gây lạc chỗ như giun chui ống mật (trong trường hợp không có thuốc đa năng). * Có nhiều loại thuốc điều trị giun sán. Các loại thuốc thường dùng - Thuốc điều trị giun thường dùng là: Levamisol. Mebendazol Albendazol... - Thuốc điều trị sán thường dùng là: Yomesan Praziquantel Bithionol. 11. Phòng bệnh giun sán 11.1. Giun sán nhiễm qua đường tiêu hoá - Quản lý và xử lý nguồn phân tốt: Ở Việt Nam, đặc biệt vùng nông thôn, bệnh giun sán liên quan chặt chẽ với môi trường sống. Quản lý phân không tốt, hố xí không hợp vệ sinh, sử dụng phân người làm phân bón là những yếu tố gây ô nhiễm môi trường thì bệnh phổ biến và dễ tái nhiễm. - Vệ sinh ăn uống: Ăn chín uống sôi, cung cấp nước sạch, đặc biệt đối với các vùng nông thôn. - Tiêu diệt côn trùng trung gian truyền bệnh. 11.2. Giun sán nhiễm qua da - Quản lý phân tốt. - Vệ sinh môi trường, diệt mầm bệnh ở ngoại cảnh. - Trang bị bảo hộ lao động để bảo vệ người lao động. 77
  6. 11.3. Giun sán do côn trùng đốt - Phát hiện và điều trị kịp thời cho bệnh nhân. - Diệt côn trùng trung gian truyền bệnh. GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT Giun truyền qua đất gồm những giun ký sinh ở đường ruột của người, có một giai đoạn phát triển bên ngoài cơ thể của người, trứng hoặc ấu trùng chưa thể lây nhiễm vào người khi mới thải ra môi trường mà phải tiếp tục phát triển trong đất một thời gian. Như vậy sự lây truyền chỉ xảy ra khi đất bị ô nhiễm trứng giun có ấu trùng bên trong. Giun truyền qua đất có một tầm quan trọng đối với sức khỏe người dân trong nhiều nước đang phát triển, vì có nhiều người bị nhiễm một hoặc nhiều loại giun này và biện pháp phòng bệnh cũng như điều trị một loại giun có ảnh hưởng chặt chẽ đến những loại giun khác. Các loại giun truyền qua đất ký sinh ở người gồm có: o Ascaris lumbricoides – giun đũa o Trichuris trichiura – giun tóc o Ancylostoma duodenale – giun móc o Necator americanus – giun móc o Strongyloides stercoralis – giun lươn GIUN ĐŨA Ascaris lumbricoides Giun đũa có tên khoa học là Ascaris lumbricoides, là loài giun có kích thước lớn, thân hình ống dài như chiếc đũa. Giun đũa có tính đặc hiệu ký chủ hẹp, nhiễm vào người qua đường miệng, ký sinh ở ruột và gây nhiều tác hại cho người. 1. Hình thể 78
  7. Giun đũa có màu trắng ngà hay hồng lợt. Thân dài, đầu và đuôi có hình chóp nón. Miệng có 3 môi hình bầu dục, xếp cân đối gồm 1 môi lưng và 2 môi bụng. Bờ môi có răng và các gai cảm giác. Giun đũa có kích thước khá to, giun đực: 15 - 31 cm x 2 - 4 mm, đuôi cong lại về phía bụng, có hai gai giao hợp nằm ở cuối đuôi. Giun cái dài 20 - 35 cm x 3 - 6 mm. Đuôi giun cái thẳng, hình nón, có 2 gai nhú sau hậu môn. Lỗ sinh dục nằm ở 1/3 trên, mặt bụng. Tại khoảng này, giun cái có một vòng thắt quanh than có vai trò giữ giun đực trong khi thụ tinh. Trứng giun đũa có 3 loại trứng: - Trứng thụ tinh còn gọi là trứng chắc, có hình bầu dục, vỏ gồm 3 lớp: ngoài cùng là lớp albumin dày đều, xù xì, lớp giữa dày, nhẫn và trong suốt được cấu tạo bởi glycogen và một lớp vỏ trong cùng là màng dinh dưỡng cấu tạo bởi lipid, không thấm nước có vai trò bảo vệ phôi và chống lại các chất độc. Trứng có kích thước khoảng 45 - 75 µm x 35 - 50 µm, bên trong trứng là phôi bào chưa phân chia khi trứng nới được đẻ ra. Sau một thời gian ở ngoại cảnh, phôi phát triển thành giun bên trong vỏ. - Trứng không thụ tinh hay trứng lép có hình bầu dục dài và hẹp hơn, kích thước từ 88 - 94 µm x 39 - 44 µm. Lớp vỏ gồm 2 lớp mỏng, không có lớp màng dinh dưỡng, bên trong trứng là những hạt tròn không đều, rất chiết quang. Trứng không bthuj tinh sẽ bị thoái hóa. - Trứng mất vỏ do lớp albumin bị tróc mất làm cho vỏ trứng trở nên trơn tru, gặp ở trứng thụ tinh hay không thụ tinh. 2. Sinh học và chu trình phát triển 2.1. Sinh học: Sự dinh dưỡng của giun cần đến protid, glucid và các loại vitamin A, C hấp thụ từ các dưỡng chất trong ruột non hoặc các thức ăn chưa tiêu hóa hết. 2.2. Chu trình phát triển Giun đũa cái đẻ trứng ở ruột non, đẻ trung bình 200.000 trứng mỗi ngày. Trứng được thải ra ngoài theo phân. Ở trong đất ẩm, phôi trong vỏ trứng sẽ phát triển 79
  8. thành ấu trùng trong vòng từ 2 – 4 tháng ở nhiệt độ 36 – 400C (tốt nhất là ở 250C chỉ cần 3 tuần). Trứng có ấu trùng có khả năng lây nhiễm. Khi được nuốt vào dạ dày, ấu trùng thoát ra khỏi vỏ trứng ở tá tràng, đi xuyên qua thành ruột, vào mạch máu và theo dòng máu đến gan, đến tim phải và lên phổi. Ở phổi ấu trùng lột xác 2 lần sau 5 ngày và khoảng 10 ngày sau đó, ấu trùng có chiều dài khoảng 1,5 – 2 mm, đường kính than 0,02 mm. Ấu trùng làm vỡ các phế nang để vào phế quản. Từ đây ấu trùng đi ngược lên khí quản, thực quản. Ấu trùng được nuốt trở lại ruột non và trưởng thành tại đây. Từ lúc người bị nhiễm đến khi giun trưởng thành khoảng 5 – 12 tuần. Giun đũa sống được khoảng 12 – 18 tháng. Trong quá trình chu du từ ruột non, đi qua các cơ quan khác rồi trở lại định cư ở ruột non, ấu trùng có thể đi lạc sang các cơ quan khác, gây ra hiện tượng giun đi lạc chỗ. 3. Dịch tễ Giun đũa là một loài giun phổ biến nhất trên thế giới và có phân bố rộng nhất trong các loại KST gây bệnh ở người. Tỷ lệ nhiễm giun đũa thay đổi tùy vùng Nguồn bệnh là người và nơi chứa mầm bệnh là đất bị ô nhiễm trứng giun. Trứng giun đũa phát triển tốt nhất trong đất ẩm và có bóng mát. Chúng đề kháng được với lạnh và các chất tẩy ở các nồng độ thường dùng. Chúng bị giết bởi ánh sáng mặt trời trực tiếp và nhiệt độ trên 450C. Ở Việt Nam có khoảng 60 triệu người nhiễm giun đũa, tỷ lệ nhiễm giun đũa rất cao, lứa tuổi nhiễm cao nhất là trẻ em (3 – 15 tuổi). Các tỉnh phía Bắc có tỷ lệ nhiễm cao hơn các tỉnh phía Nam. Nông thôn nhiễm cao hơn thành thị. Đường lây nhiễm: trứng lây nhiễm vào người qua đường tiêu hóa qua rau sống, quả tươi nước lã, thức ăn bị ô nhiễm... Thường trẻ em chơi đùa trên đất chung quanh nhà hay bị nhiễm. Mùa nhiễm giun đũa xảy ra quanh năm, nhưng cao nhất vào tháng 4 – 5 và tháng 9. 80
  9. 4. Miễn dịch 4.1. Giai đoạn ấu trùng di chuyển Kháng nguyên được phóng thích trong lúc ấu trùng lột xác từ giai đoạn 2 đến giai đoạn 3, lúc này có sự gia tăng IgE cao nhất. 4.2. Giai đoạn trưởng thành Giun trưởng thành ở ruột không gây đáp ứng miễn dịch nhưng khi giun di chuyển lạc chỗ thì nó sẽ kích thích cơ thể bệnh nhân để tạo ra đáp ứng miễn dịch tế bào đưa đến kết quả là sự thành lập một u hạt. Phản ứng phản vệ tức thì đối với kháng nguyeengiun đũa xảy ra ở một số người. 5. Tác hại - Tước đoạt chất dinh dưỡng - Bội nhiễm vi trùng - Miễn dịch bệnh lý 6. Bệnh học 6.1. Ấu trùng + Viêm phổi do giun đũa + Các cơ quan khác 6.2. Giun trưởng thành + Tại nơi cư trú bình thường (ruột non) + Ngoài ruột: o Áp xe do giun đũa o Tổn thương ở màng bụng o Giun đũa ở đường mật 7. Triệu chứng lâm sàng 7.1. Thời kỳ ủ bệnh Thời kỳ ủ bệnh từ lúc trứng được nuốt vào cơ thể cho đến khi trứng bắt đầu xuất hiện trong phân là 60 – 70 ngày. Triệu chứng ở phổi do ấu trùng di chuyển xuất hiện vào ngày 4 – 16 sau khi bị nhiễm. 7.2. Bệnh do ấu trùng giun đũa 81
  10. Viêm phổi do ấu trùng giun đũa Trong quá trình di chuyển ấu trùng gây ra viêm phổi vào ngày 4 – 16 sau khi được nuốt vào, triệu chứng gồm có sốt, ho, ho có đàm, bạch cầu toan tính tăng cao và có thể tìm thấy ấu trùng trong đàm hoặc dịch tá tràng. Viêm phổi không kéo dài, chỉ khoảng 3 tuần. Trong quá trình chu du, ấu trùng có thể gây triệu chứng: rối loạn thần kinh (co giật kích thích màng não và động kinh…), phù mí mắt mất ngủ và nghiến răng ban đêm. Khi ấu trùng đi lạc lên não, nó gây ra u hạt, những nốt nhỏ ở mắt, võng mạc hoặc não. 7.3. Bệnh do giun đũa trưởng thành Tại ruột: thường gặp rối loạn tiêu hóa, viêm ruột già và nôn ói. Nếu nhiễm nặng, biểu hiện chủ yếu là tắc ruột, thường xảy ra ở trẻ em. Ngoài ruột, do giun di chuyển lạc chỗ: giun trưởng thành có khuynh hướng di chuyển khi môi trường sống bị xáo trộn. Bệnh nhân dùng thuốc tetrachloroethylen, bị gây mê hoặc bị sốt, chúng di chuyển và đi lạc vào ống dẫn mật, bong Vater, ruột thừa, xung quanh hậu môn và ống eustache. Chúng có thể gây xoắn ruột và hoại thư ruột, thủng ruột và viêm phúc mạc, viêm tụy cấp, viêm tụy viêm ống mật có mủ, áp xe gan, viêm túi mật cấp và vàng da tắc mật. 8. CHẨN ĐOÁN 8.1. Chẩn đoán được xác định khi tìm thấy trứng hoặc giun Xét nghiệm phân để tìm trứng bằng phương pháp soi trực tiếp hay tập trung. Có thể tìm thấy trứng thụ tinh hay trứng lép hoặc trứng mất vỏ. Đôi khi giun trưởng thành thoát ra ở mũi, miệng, hậu môn. 8.2. Tăng bạch cầu toan tính Trong giai đoạn nhiễm ấu trùng, bạch cầu toan tính tăng cao nhưng khi giun trưởng thành rồi thì bạch cầu toan tính giảm nhiều hoặc không tưng. Nếu bạch cầu toan tính trong trường hợp nhiễm giun ở giai đoạn trưởng thành thì có thể bị nhiễm kết hợp với Toxocara hoặc giun lươn. 8.3. X quang 82
  11. Chụp x quang cho bệnh nhân uống chất cản quang tư 4 - 6 giờ cho thầy giun có hình ống hoặc một cái bong giống như sợi dây do giun uống thuốc cản quang. 8.4. Huyết thanh chẩn đoán Trong huyết thanh của người nhiễm giun đũa có kháng thể đặc hiệu với loại giun này. Những kỹ thuật đã được dung để phát hiện kháng thể gồm: cố định bổ thể, kết tủa, khuếch tán trong thạch, điện di miễn dịch. Chẩn đoán nhiễm giun đũa bằng miễn dịch ít được dung do có nhiều phản ứng chéo với các loại giun khác. 9. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT 9.1. Triệu chứng ở phổi, thâm nhiễm phổi và tăng bạch cầu toan tính là triệu chứng phổ biến của nhiều bệnh giun sán và các bệnh khác. Bệnh do ấu trùng giun đũa cần được phân biệt với bệnh do Toxocara, giun móc, giun lươn, sán máng và hội chứng tăng bạch cầu toan tính nhiệt đới. 9.2. Toxocara Thường nhiễm kết hợp với giun đũa (Ascaris lumbricoides), Toxocara gây ra hội chứng ấu trùng di chuyển, kéo dài nhiều tháng với sự gia tăng bạch cầu toan tính kéo dài và triệu chứng phổi khong rỏ ràng. Ấu trùng Toxocara đi lang thang, gây các sang thương ở não và mắt như Ascaris lumbricoides và có thể chẩn đoán bằng huyết thanh miễn dịch học. 9.3. Giun móc Giai đoạn xâm nhập của giun móc kéo dài 2 -3 tháng, triệu chwngsgiamr dần, sau 42 ngày trứng xuất hiện trong phân. Có thể có nổi mụn ngứa ở chân trước khi có triệu chứng của ấu trùng di chuyển. 9.4. Sán máng Giai đoạn xâm nhập của sán máng (hội chứng Katayama) có thể kéo dài 2 -3 tháng. Thường có lách to và chẩn đoán bằng kỹ thuật miễn dịch. 9.5. Tăng BCTT nhiệt đới Rất giống viêm phổi do ấu trùng giun đũa. Bệnh xảy ra chủ yếu ở người lớn, kéo dài hơn nhiều và dương tính với thử nghiệm huyết thanh giun chỉ. Đáp ứng nhanh chóng với diethylcarrbamazine. 83
  12. 9.6. Các hội chứng tăng BCTT khác ở phổi Bệnh nhiễm Aspergillus, phản ứng thuốc và bệnh ưng thư máu dòng bạch cầu toan tính thường có tính chất kinh niên hơn. 10. ĐIỀU TRỊ 10.1. Điều trị đặc hiệu Điều trị chỉ có kết quả giun trưởng thành. Thuốc được chọn là: - Albendazole: trẻ em từ 2 đến 5 tuổi, liều duy nhất 200mg, trẻ em lớn hơn và người lớn, 1 liều 400mg - Mebendazole: 100mg x 2 lần/ngày, chỉ uống 1 ngày duy nhất. - Levamisole: liều duy nhất 5 mg/kg cân nặng. - Pyrantel palmoate (Combantrin): liều duy nhất 10mg/kg cân nặng. Uống thuốc tốt nhất vào giữa bữa ăn, không có chế độ kiêng cử gì, có thể dung thuốc sổ trước hoặc sau khi tẩy giun. 10.2. Điều trị biến chứng Viêm phổi do Ascaris lumbricoides Đáp ứng rất tốt với prednisolone. Nên tẩy giun 2 tuần sau khi có triệu chứng ở phổi. Viêm đường mật Điều trị bảo tồn: chống co thắt, chống đau, giảm căng dạ dày bằng cách dung ống thông mũi dạ dày, truyền dịch, cách này thường cho kết quả tốt. Nên tẩy giun sau khi cơn đau cấp đã qua và chức năng ruột được phục hồi. Nên dùng loại thuốc tẩy dạng lỏng và có tác dụng nhanh (levamisole, pyrantel). Nếu cách điều trị này thất bại thì phải dùng phẫu thuật. Tắc ruột Nên điều trị bảo tồn bằng bằng cách dùng thuốc giảm co thắt, giảm căng dạ dày, truyền dịch dùng paraffin và tẩy giun, thường cho kết quả tốt. Nếu bệnh nhan bị sốt, nhịp tim nhanh, nhu động ruột nổi rõ, đau nhiều hoặc không thuyên giảm sau 48 giờ điều trị bảo tồn, thì phải mổ, cố gắng không cắt ruột mà nên làm cho nút lỏng ra, cho giun đi xuống ruột già. Hiếm khi phải cắt bỏ đoạn ruột. 84
  13. 11. PHÒNG BỆNH Phòng bệnh dựa trên vệ sinh cá nhân, xử lý phân hợp hệ sinh, giáo dục sức khỏe và điều trị những người bị nhiễm. 85
  14. GIUN TÓC Trichuris trichiura Giun tóc là loại giun nhỏ, cơ thể được chia làm 2 phần rõ rệt, phần đầu mảnh dài như sợi tóc, cắm sâu vào niêm mạc ruột. Phần sau tròn, lơ lửng trong lòng ruột. Giun ký sinh ở ruột già, nếu nhiễm nhẹ thì ít gây tác hại, nhưng nếu nhiễm nặng có thể gây lỵ hoặc sa trực tràng. 1. HÌNH THỂ Giun trưởng thành có màu trắng hay hồng lợt, vỏ có vân. Phần đầu dài mảnh như sợi tóc, chiếm 3/5 cơ thể, chứa thực quản hẹp. Phần đuôi phình to, chứa ruột và cơ quan sinh dục. Giun đực dài 30 - 45 mm, tận cùng đuôi có chóp hình nón và uốn cong, có một gai sinh dục. Giun cái có kích thước 35 -50 mm, phân nữa thân sau là tử cung đầy trứng, âm môn mở ra ở mặt bụng ở 3/5 trước của thân, đuôi thẳng và tròn. Trứng có hình thoi dài, giống trái cau, kích thước 50 - 54 µm x 20 - 22 µm. Vỏ dày, nhẫn gồm 3 lớp, màng ngoài cùng thường bị nhuộm màu vàng của mật, ở hai đầu có nút trong, chứa 1 phôi bào khi mới đẻ ra. 2. CHU TRÌNH PHÁT TRIỂN Giun sống trong manh tràng, dinh dưỡng bằng các chất trong ruột và máu. Giun cái đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài môi trường. Lúc mới đẻ, phôi bên trong trứng chỉ là một đám tế bào, chưa phân đoạn, đám tế bào này cần ít nhất 21 ngày để phát triển thành ấu trùng. Trứng có ấu trùng mới có khả năng gây nhiễm. Trứng được nuốt vào dạ dày, vỏ trứng sẽ bị các men tiêu hóa làm tiêu đi và ấu trùng được phóng thích vào ruột non, đi vào các hốc ruột và phát triển ở dó 1 tuần. Sau đó di chuyển xuống manh tràng và đại tràng. Tại đây, chúng bám vào niêm mạc ruột và trưởng thành trong vòng 3 tháng. 86
  15. Ấu trùng giun tóc không có giai đoạn chu du qua gan, phổi, tim. Từ lúc người nuốt vào cho đến lúc giun trưởng thành kéo dài khoảng 30 – 45 ngày. Giun tóc có thể sống đến 6 năm hoặc lâu hơn. 3. DỊCH TỄ HỌC Bệnh nhiểm giun tóc phổ biến khắp thế giới, đứng hàng thứ ba sau giun đũa và giun móc. Ở Việt Nam, tỉ lệ nhiễm giun ở miền Bắc cao hơn miền Nam. Tỷ lệ nhiễm cao nhất là ở lứa tuổi học sinh tiểu học, chúng chơi trên đất, làm ô nhiễm đất quanh nhà và bị nhiễm nặng. Lây nhiễm trực tiếp: trứng có ấu trùng bên trong được đưa vào miệng bằng tay bẩn hoặc thức ăn nhiễm trứng giun. Bệnh nhiễm giun tóc phổ biến ở những nơi có mưa nhiều, độ ẩm cao, có nhiều bóng râm và đất bị ô nhiễm. Nhiễm giun tóc thường kết hợp với nhiễm giun đũa của người và giun đũa của chó mèo. Trứng chịu đựng được nhiệt độ thấp, nhưng sẽ chết nếu gặp khô. Trứng giun tóc có sức đề kháng ở ngoại cảnh rất cao. Trứng đã có ấu trùng vẫn có thể tồn tại đến 5 năm. Sự phát tán ở ngoại cảnh và phương thức nhiễm vào người của trứng giun tóc cũng giống như trường hợp của trứng giun đũa. Người có thể bị nhiễm giun tóc heo (Trichuris suis), nhất là những người chăn nuôi heo. Về hình thể, giun tóc của người khó phân biệt được với giun tóc của heo. 4. BỆNH HỌC Nếu nhiễm ít thì tác hại không đáng kể. Nhưng nếu nhiễm nặng thì giun sẽ lan tràn khắp từ ruột già đến trực tràng gây xuất huyết, phân có nhày, máu kèm theo triệu chứng lỵ, có thể bị sa trực tràng. Giun tóc có thể gây viêm ruột thừa. Thời gian ủ bệnh thường là 60 ngày. Đa số các trường hợp nhiễm với số lượng ít, không có triệu chứng. Nhiễm nặng thì sẽ có triệu chứng: rối loạn tiêu hóa như đau bụng, buồn nôn, táo bón xen lẫn tiêu chảy. Một số trường hợp có biểu hiện dị ứng ngoài da. Bệnh học 87
  16. Trong trường hợp nhiễm giun tóc nhiều và kéo dài, các triệu chứng lâm sàn có thể gặp như: + Lỵ do giun tóc + Giun tóc thường nhiễm kết hợp với amip. + Trẻ bị nhiễm giun tóc nặng, sẽ có ngón tay dùi trống, thiếu protein máu, thiếu máu nặng và chậm lớn. + Nhiễm trùng thứ phát: do giun tóc cắm phần đầu vào niêm mạc ruột, gây tổn thương thành ruột và tạo của ngõ cho các loại mầm bệnh khác xâm nhập. 5. CHẨN ĐOÁN 5.1. Chẩn đoán xác định - Tìm trứng trong phân bằng phương pháp soi trực tiếp hay phương pháp tập trung. - X quang: Trong vài trường hợp có hình ảnh lỗ chỗ như tổ ong ở ruột non. 5.2. Chẩn đoán phân biệt Trong trường hợp nhiễm nặng, hình ảnh lâm sàng có thể giống nhiễm giun móc, viêm ruột thừa cấp hoặc lỵ amip. 6. ĐIỀU TRỊ Mebendazole là thuốc được chọn để điều trị, dùng liều duy nhất 600 mg sẽ làm giảm 85% số lượng trứng, công hiệu tương đương liều 100 mg x 2/ngày, uống trong 3 ngày. Albendazole cũng hiệu quả với liều duy nhất là 400 mg 7. PHÒNG BỆNH Giống như đối với giun đũa người GIUN MÓC Ancylostoma duodenale Necator americanus 88
  17. Bệnh giun móc do hai loại giun móc là: Ancylostoma duodenale và Necator americanus (Việt Nam gọi là giun móc hay giun mỏ), là một bệnh rất phổ biến trên thế giới. Đặc điểm của giun móc là miệng có bộ phận sắc, giúp chúng bám vào niêm mạc ruột và hút máu bệnh nhân. Nếu nhiễm với số lượng lớn, bệnh nhân sẽ bị thiếu máu. 1. HÌNH THỂ 1.1. Giun trưởng thành Ancylostoma duodenale Giống như sợi chỉ màu trắng xám hay nâu đỏ do tiêu hóa hồng cầu. Cả con đực và con cái đều có bao miệng, 2 cặp răng để bám vào niêm mạc ruột non. Con đực (0,8 - 1,1 cm x 0,4 - 0,5 cm) có bao sinh dục ở phía đuôi gồm có phần vỏ xòe ra. Con cái (1 - 1,3 cm x 0,6 cm) hơi lứn hơn một chút, xoang cơ thể chứa buồng trứng và ống tử cung đầy trứng. Âm môn nằm ở 1/3 sau của thân giun. Giun đẻ trứng nhiều nhất vào tháng 15 - 18 sau khi nhiễm vào người; tuổi thọ của giun khoảng 6 năm. Giun cái đẻ 25.000 -35.000 trứng mỗi ngày và khoảng 18 - 54 triệu trứng suốt đời. Necator americanus Rất giống A. duodenale nhưng nó ngăn và mảnh mai hơn (0,9 - 1,1 cm x 0,4 cm) và có thể phân biệt với A. duodenale bởi âm môn của nó nằm ở 1/3 trước của thân giun và bao miệng nhỏ hơn, có 2 bản dao thay vì răng. Con cái đẻ 6000 - 20.000 trứng mỗi ngày. Tuổi thọ trung bình khoảng 5 năm. 1.2.Trứng Trứng của hai loài giun móc nói trên rất giống nhau về hình thái và cấu tạo: có hình thoi dài, vỏ mỏng trong suốt, có từ 2 đến 4 phôi bào lúc mới được thải ra. Kích thước hơi khác nhau, nhưng cũng khó nhận ra. 1.3. Ấu trùng Ấu trùng giai đoạn 1 dài từ 250 – 300 μm, rộng 17 µm. Đầu trước có xoang miệng dài 98 -14µm. Thực quản hình ống, có một chỗ thắt lại, tạo ra một ụ phình 89
  18. to tròn ở sau chỗ thắt, được gọi là ấu trùng có thực quản ụ phình. Đuôi nhọn. Ấu trùng giai đoạn 1 lột xác trở thành ấu trùng giai đoạn 2 Ấu trùng giai đoạn 2 có chiều dài khoảng 700 μm, thực quản vẫn còn chỗ thắt lại nhưng ít hơn nên có dạng hình ống, còn gọi là ấu trùng có thực quản hình ống. Vì vậy ấu trùng giai đoạn 2 còn có tên gọi là ấu trùng thực quản hình ống. Ấu trùng giai đoạn 3 có thực quản hình ống, có vỏ bao bên ngoài che chở, không ăn và có khả năng gây nhiễm. 2. CHU TRÌNH PHÁT TRIỂN Giun cái đẻ trứng trong lòng ruột, trứng mới được đẻ ra có từ 2, 4 hoặc 8 phôi bào và được thải ra theo phân. Nếu gặp đất ẩm và nhiệt độ thích hợp, trứng nở thành ấu trùng giai đoạn 1, có thực quản hình ụ phình sau 1 - 2 ngày. Chúng có chiều dài băng 0,3 mm, sống tự do ở ngoại cảnh, ăn vi trùng và các chất hữu cơ trong phân. Sau đó 2 - 3 ngày, ấu trùng lột xác để chở thành ấu trùng giai đoạn 2 có thực quản hình ống dài khoảng 700 µm. Ấu trùng giai đoạn 2 phát triển thành ấu trùng giai đoạn 3 mà không lột vỏ, vỏ bao bọc bên ngoài có vai trò che chở. Ấu trùng giai đoạn 3 không ăn, không phát triển tiếp tục, có khả năng gây nhiễm cho ký chủ, có đề kháng tốt với những điều kiện bất lợi ở trong môi trường, tồn tại được khoảng từ 6 đến 9 tuần trên mặt đất, nếu gặp điều kiện thích hợp có thể tồn tại đến nữa năm. Ấu trùng giai đoạn 3 lúc này có 3 tính hướng: hướng về nơi có nhiều ôxy, nơi có độ ẩm và nhiệt độ cao. Với đặc điểm trên, chúng thường trèo lên ngon cây cỏ và rất nhạy với hơi ấm phát ra từ ký chủ đang đi đến gần nơi chúng có mặt. Điều này giúp cho chúng dễ bắt gặp ký chủ. Khi gặp được ký chủ, ấu trùng lột bỏ vỏ bên ngoài và chui qua da. Sau đó chúng đi vào mạch máu, theo dòng máu đến phổi vào ngày thứ 3. Ấu trùng đi qua phế nang, vào phế quản, đi lên khí quản, qua thực quản , xuống dạ dày đến ruột non vào ngày thứ 7. Trong quá trình chu du, ấu trùng lột xác lần thứ 3 và bao miệng được tạo thành. Khi ấu trùng di chuyển đến ruột, sẽ lột xác lần thứ 4, bám vào 90
  19. niêm mạc ruột non và trưởng thành. Quá trình chu du kéo dài khoảng 2 tháng sau khi nhiễm vào người. Giun móc có thể sống từ 1 - 9 năm. 3. DỊCH TỄ HỌC Giun móc có mặt ở tất cả các nước trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trên thế giới có khoảng 900 triệu người mắc bệnh giun móc và có khoảng 60 triệu người chết hàng năm. Ở VN tỷ lệ nhiểm giun móc cũng khác nhau và phân vùng theo điều kiện thổ nhưỡng, miền cao hay miền sông nước, nghề nghiệp. Ấu trùng không thể sống nếu gặp môi trường nước. Ấu trùng thường ở độ sâu 2,5 cm cách mặt đất nhưng vẫn có thể chui xuống lớp đất sâu hơn. Nếu gặp môi trường ẩm, chúng có thể sống đến 2 năm. Ấu trùng chết nhanh chóng khi gặp khô hạn, ánh sáng mặt trời trực tiếp chiếu vào hoặc nước mặn. Thông thường đường xâm nhập của ấu trùng giun móc là qua da hoặc qua miệng. 4. BỆNH HỌC 4.1. Giai đoạn xâm nhập Ấu trùng gây viêm da tại nơi xâm nhập, biểu hiện bởi các nốt sẩn ngứa, mụn nước. Có thể đưa đến chàm hóa do gãi nhiều hoặc nhiễm trùng thứ phát. Triệu chứng của viêm da chỉ xảy ra trong khoảng 3 - 4 ngày rồi biến mất. Các tổn thương thường ở kẽ ngón tay, kẽ ngón chân, mu bàn chân. Triệu chứng này thường nhẹ hay không có ở những người sống trong vùng nhiệt đới. Biểu hiện lâm sàng ở da niêm mạc: niêm mạc nhợt nhạt trong trường hợp thiếu máu vừa và nặng. Da xanh tái. Móng tay mất màu hồng bình thường, mất độ bóng của móng. Người bệnh có thể bị phù nhiều hay ít tùy theo mức độ mất máu. 4.2. Giai đoạn ở phổi: ấu trùng có thể gây nên hội chứng Loeffler: hen suyễn, viêm phế quản và xuất huyết nhẹ ở phế nang cùng với thâm nhiễm bạch cầu toan tính và trung tính ở phổi, nhưng thường nhẹ và không rỏ rang như trường hợp của giun đũa. 91
  20. 4.3. Giai đoạn ở ruột: các rối loạn về tiêu hóa, tuần hoàn, thần kinh... giun gây thiếu máu gặp ở những người sống trong vùng nhiệt đới. Người bệnh hay đau bụng, biếng ăn, buồn nôn, tiêu chảy xen lẫn táo bón. Đặc biệt, người bệnh thường có cảm giác đau ở vùng thượng vị không có chu kỳ rõ rệt. 4.4. Tác hại của giun móc Thiếu máu là đặc điểm quan trọng của bệnh giun móc mạn tính. Tình trạng thiếu máu xảy ra từ từ và trong thời gian dài. Mức độ thiếu máu tùy thuộc vào sự dinh dưỡng của người bệnh và mức độ làm mất máu của giun. Một chế độ ăn cân bằng các chất sắt, muối khoáng, đạm động vật và vitamin có thể bù đắp tình trạng thiếu máu do giun. Thiếu máu do giun móc là thiếu máu do thiếu sắt và nó đáp ứng tốt với việc bổ sung muối sắt; tẩy giun cung có kết quả nhưng lâu hơn. Suy tim: do thiếu máu mạn tính, không bù. Biểu hiện lâm sàng bằng chứng hay hồi hộp, đánh trống ngực, mạch nhanh. Nghe tim có thể có tiếng thổi tâm thu, chụp X quang thấy bong tim to. Tất cả các biểu hiện trở về bình thường khi tình trạng thiếu máu được chấm dứt. 5. CHẨN ĐOÁN 5.1. Lâm sàng Bệnh giun móc khó xác định trên lâm sang vì triệu chứng rất giống với các nguyên nhân khác. Cần chú ý triệu chứng đau vùng thượng vị giống bệnh cảnh của một bệnh viêm hoặc loét dạ dày, tá tràng. Cần khai thác thêm về các yếu tố dịch tể để có hướng chẩn đoán. 5.2. Xét nghiệm Xét nghiệm phân tìm trứng tìm trứng móc bằng kỹ thuật soi trực tiếp hoặc kỹ thuật tập trung Willis. Cấy phân thường dùng để chẩn đoán xác định giun móc và để phân biệt giữa bệnh giun móc và giun lươn nhưng mất thời gian hơn. Các xét nghiệm khác thường dùng để theo dõi tình trạng bệnh giun móc nặng có biểu hiện thiếu máu, suy tim… như X quang tim phổi, công thức máu, đo nồng độ sắt, huyết sắc tố trong máu. 92
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2