intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài kiểm tra: Sinh học phát triển cá thể nâng cao

Chia sẻ: Maiphuong Hoa | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

78
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo chuyên đề Ghép tế bào gốc tạo máu thuộc bài kiểm tra "Sinh học phát triển cá thể nâng cao" dưới đây để nắm bắt được những nội dung về lịch sử ngành ghép tủy, phân loại ghép tủy, quy trình ghép tuỷ, biến chứng sau ghép tủy,....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài kiểm tra: Sinh học phát triển cá thể nâng cao

   Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br /> <br /> <br /> <br /> BÀI KIỂM TRA<br /> SINH HỌC PHÁT TRIỂN CÁ THỂ NÂNG CAO<br /> <br /> <br /> Họ và tên: Nguyễn Xuân Hạnh<br /> Lớp: K12 – Sinh học thực nghiệm ­ Tỉnh Bắc Giang<br /> <br />  <br /> <br /> Chuyên đề: GHÉP TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU<br /> <br /> <br /> Ghép tế  bào gốc tạo máu hay thường được gọi ngắn gọn là  ghép tủy  là <br /> một phương pháp điều trị  bệnh được ứng dụng nhiều trong ngành  huyết học và <br /> ung thư học. Phương pháp này thực hiện quá trình cấy ghép  tế bào gốc tạo máu <br /> lấy từ  tủy xương hoặc từ máu ghép vào cơ thể người bệnh để chữa các bệnh lý <br /> huyết học, bệnh lý miễn dịch, di truyền và một số bệnh lý ung thư khác.<br /> 1. Lịch sử ngành ghép tủy<br /> Ngành ghép tủy thực sự phát triển bắt đầu sau sự bùng nổ của năng lượng <br /> và vũ khí hạt nhân năm 1945. Mặc dù trước đó đã có một vài nỗ lực của các nhà  <br /> khoa học trong việc dùng tủy xương của người hiến đưa vào cơ thể người nhận  <br /> là những bệnh nhân bị  thiếu máu hay ung thư  máu bằng đường uống, tiêm bắp <br /> hay truyền tĩnh mạch.<br /> Vào thời điểm này, ngành ghép tủy bắt đầu được nghiên cứu nhiều vì <br /> xuất hiện những bệnh nhân bị  các bệnh lý máu ác tính do phơi nhiễm  phóng xạ <br /> iôn hóa.<br /> Chúng ta có thể lược lại một số mốc quan trọng của ngành ghép tủy: <br /> ­ Ca ghép tủy đầu tiên được ghi nhận năm 1939, thực hiện trên một bệnh <br /> nhân bị xơ tủy do kim loại nặng, tủy ghép lấy từ người anh ruột của bệnh nhân. <br /> Ca ghép này không thành công, bệnh nhân chết sau 5 ngày.<br /> ­ Ca ghép tủy được ghi nhận thành công đầu tiên là năm  1965, khi một <br /> bệnh nhân Bạch cầu lymphô cấp loại nguyên bào lynphô được điều trị bằng  hóa <br /> trị và xạ trị, sau đó được truyền tế bào tủy xương từ 6 người hiến tủy khác nhau  <br /> nhưng có liên hệ  huyết thống. Bệnh nhân này tử  vong sau 20 tháng vì bệnh tái <br /> phát.<br /> ­ Từ  năm  1977  đến  1980, thành công trong nghiên cứu ghép tủy dị  thân. <br /> Cũng từ  năm  1978, ghép tủy trong  bệnh lymphô  bắt đầu có những thành công <br /> nhất định.<br /> <br /> <br /> 1<br /> Nguyễn Xuân Hạnh                                        K12 – Sinh học thực nghiệm<br />    Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br /> <br /> <br /> <br /> ­ Năm 1990, BS E.D. Thomas đã được trao giải thưởng Nobel y học  cho <br /> những nghiên cứu về ghép tủy.<br /> ­ Đến năm 2000, thì đã có hơn 500 000 trường hợp ghép tủy thực hiện trên <br /> toàn thế  giới. Cho đến bây giờ  ghép tủy đã được thử  nghiệm nghiên cứu trong <br /> nhiều bệnh lý, cả  ác tính  lẫn không ác tính, đáng kể  là ghép tủy khá hiệu quả <br /> trong điều trị các bệnh lý thiếu máu bất sản, khi tủy hiến có HLA phù hợp người  <br /> nhận, đặc biệt giữa anh chị em ruột.<br /> 2. Phân loại ghép tủy<br /> 2.1. Tự ghép tủy<br /> ­ Tự ghép tủy từ sản phẩm tủy toàn phần<br /> ­ Tự ghép tủy từ sản phẩm tế bào gốc của tủy hay của máu ngoại vi<br /> 2.2. Dị ghép tủy<br /> ­ Dị ghép từ sản phẩm tủy toàn phần<br /> ­ Dị ghép từ sản phẩm tế bào gốc của tủy hay của máu ngoại vi.<br /> ­ Dị ghép từ sản phẩm tế bào gốc của máu cuống rốn.<br /> 3. Quy trình ghép tuỷ<br /> 3.1.  Chuẩn bị trước ghép tủy<br /> Lựa chọn người cho tủy – Phức hợp phù hợp mô chính MHC<br /> Phức hợp phù hợp mô chính hay còn gọi là  kháng nguyên bạch cầu người <br /> HLA.<br /> Phức hợp này bao gồm một nhóm gene nằm trên nhánh ngắn của nhiễm <br /> sắc thể  số  6, gồm 3 loại gene, tạo ra các  kháng nguyên  hệ  HLA, gồm 2 loại <br /> chính:<br /> ­ Kháng nguyên lớp I gồm các sản phẩm gene ở các locus A, B, C.<br /> ­ Kháng nguyên lớp II gồm các sản phẩm gene ở các locus D, DR, DQ và DP.<br /> Các kháng nguyên lớp I được xác định bằng phương pháp huyết thanh học  <br /> nên được gọi là kháng nguyên SD (Serum determined). Còn các kháng nguyên  <br /> HLA­D được xác định bằng phản ứng nuôi cấy bạch cầu hỗn hợp.<br /> Các bạch cầu lymphô thường mang cả  2 loại kháng nguyên trên. Một số <br /> lớn các tế  bào khác chỉ  mang kháng nguyên lớp I tức kháng nguyên SD. Kháng  <br /> thể HLA xuất hiện chủ yếu do truyền máu, mang thai, ghép tổ chức hay do tiêm <br /> truyền  bạch cầu  ở  những người tình nguyện. Sự  khác biệt kháng nguyên hệ <br /> HLA của cơ  thể  cho và nhận càng lớn thì hiện tượng thải ghép xảy ra càng  <br /> nhanh. Do đó muốn mảnh ghép sống lâu trong cơ thể thì cần có sự giống nhau về <br /> kháng nguyên HLA của cơ  thể  cho và nhận. Thực tế  khó xảy ra trừ  khi người <br /> cho và nhận là anh chị em sinh đôi một trứng.<br /> 3.2. Điều trị trước ghép tủy<br /> Trong ghép tạng phải có sự   ức chế  miễn dịch mạnh  ở  người nhận để <br /> ngăn ngừa thải ghép.  Ức chế  miễn dịch phải dùng suốt đời bởi sự  dung nạp <br /> <br /> 2<br /> Nguyễn Xuân Hạnh                                        K12 – Sinh học thực nghiệm<br />    Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br /> <br /> <br /> <br /> miễn dịch không bao giờ  đạt được. Trong ghép tủy xương, ngoài  ức chế  miễn <br /> dịch cần phải tạo lên các khoảng trống trong tủy để  các tế  bào ghép trú ngụ  và  <br /> sinh sản. Điều này có được bằng điều trị diệt tủy.<br /> Hóa   trị  liều   cao   trước   ghép   tủy,   các   nhóm   thuốc   thường   dùng   như <br /> alkylating, etoposide, cytarabine... và có thể  cả  xạ  trị toàn thân. Hiện chưa có sự <br /> thống nhất rằng phác đồ  nào hiệu quả  hơn và được dung nạp tốt hơn phác đồ <br /> nào.<br /> Xạ  trị  toàn thân vai trò cũng chưa rõ ràng và thường được  dùng trong  <br /> lymphôm nguyên bào miễn dịch và lymphôm grad thấp.<br /> <br /> <br /> 3.2.1 Điều trị diệt tủy trước ghép tủy<br /> Bước chuẩn bị tiêu chuẩn cho bệnh nhân trước khi ghép tủy dị thân là hóa <br /> trị liều cao kết hợp hay không kết hợp với xạ trị toàn thân. Đó là nỗ lực để điều  <br /> trị tận gốc bệnh ác tính nền đồng thời giảm tình trạng thải ghép, giảm các phản <br /> ứng bất lợi giữa mảnh ghép và chủ.<br /> 3.2.2. Điều trị không diệt tủy trước ghép tủy <br /> Việc điều trị  diệt tủy trước ghép tủy thường có độc tính cao vì thường <br /> dùng hóa chất liều cao kèm xạ  trị  toàn thân. Chính độc tính đó đã hạn chế  sự <br /> dung nạp điều trị, nhất là  ở  những bệnh nhân lớn tuổi, bệnh nhân có bệnh lý  <br /> nặng   khác   kèm   theo,   hoặc   ở   những   bệnh   nhân   có   bệnh   lý   diễn   tiến   chậm <br /> (indolent). Lúc này các phác đồ  điều trị  mà không diệt tủy phù hợp cho những <br /> bệnh nhân này mà giảm bớt độc tính. Những phác đồ  ít độc tính này cũng phù <br /> hợp với bệnh nhân ghép tủy để  điều trị  các bệnh lý do rối loạn di truyền hoặc  <br /> bệnh tự  miễn mà không phải bệnh lý ác tính. Mục đích của điều trị  không diệt <br /> tủy trước ghép tủy là ức chế một phần tủy đồng thời ức chế một phần  hệ miễn <br /> dịch của người nhận để chấp nhận mảnh ghép một cách lâu dài và bền vững.<br /> 3.2.3. Những phác đồ chuẩn bị trước ghép tủy mới<br /> Xu hướng hiện nay là dùng  xạ  trị  nhắm trúng đích, với  kháng thể  đơn <br /> dòng được gắn đồng vị phóng xạ, tăng liều xạ trị vào bướu và giảm liều đáng kể <br /> đến các mô lành. Ví dụ  gắn đồng vị  phóng xạ  I 131 vào kháng thể  đơn dòng <br /> kháng CD­33, để điều trị cho những bệnh nhân lympho  không Hodgkin tế bào B. <br /> Kháng thể đơn dòng kháng CD­20 (rituximab) cũng được sử  dụng kết hợp trong <br /> các phác đồ  điều trị  trước ghép tủy cho kết quả  khá khả  quan nhất là  ở  bệnh <br /> nhân lympho dạng nang. <br /> 3.3. Chọn lựa nguồn lấy tế bào gốc<br /> 3.3.1. Tế bào gốc từ tủy tự thân<br /> ­ Tế bào gốc được lấy từ tủy xương của chính người bệnh.<br /> ­ Phương pháp này có bất lợi là có thể  bị  nhiễm tế  bào bướu. Đa số  các  <br /> tác giả cho rằng tái phát ở những bệnh nhân ghép tủy tự thân là do sự  nhiễm tế <br /> <br /> 3<br /> Nguyễn Xuân Hạnh                                        K12 – Sinh học thực nghiệm<br />    Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br /> <br /> <br /> <br /> bào bướu trong tủy ghép và do các tế bào bướu còn sót lại trong tủy xương bệnh  <br /> nhân trước khi ghép tủy. Đã có nhiều cách nhằm loại bỏ tế bào bướu khỏi mẫu  <br /> tủy ghép. Chẳng hạn kháng thể đơn dòng chống tế  bào lymphô B đã được dùng <br /> để loại tế bào bướu trong ghép tủy tự thân ở bệnh nhân lymphôm không Hodgkin <br /> tế bào lymphô B.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Lấy tủy xương<br /> ­   Phương   pháp   loại   tế   bào   bướu   thường   được   dùng  nhất  hiện   nay  là <br /> phương pháp dùng kỹ  thuật từ  miễn dịch (immunomagnetic) với kháng thể  đơn <br /> dòng để lựa chọn các tế bào gốc có CD 34(+). Ngoài ra, còn có thể kết hợp thêm  <br /> kháng thể đơn dòng khác để  lựa chọn tế bào có CD 34(+) và Thy­1 (+), phương  <br /> pháp này đã được ứng dụng trong ghép tủy ở bệnh nhân ung thư vú, đa u tủy và <br /> lymphôm.<br /> 3.3.2. Tế bào gốc từ máu ngoại vi<br /> ­ Tế  bào gốc cũng có thể  có trong máu ngoại vi. Bằng các phương pháp  <br /> huy động tế bào gốc sau đó chiết tách tế bào gốc bằng các máy tách tế bào. Đây <br /> cũng là một nguồn cung cấp tế bào gốc nhất là ở những bệnh nhân đã có tiền căn <br /> xạ  trị vùng chậu, bệnh nhân mà tế  bào tủy xương có nguy cơ  bị  nhiễm tế  bào  <br /> bướu hoặc khi quá trình nuôi tế bào gốc từ tủy xương thất bại.<br /> 3.3.3. Tế bào gốc từ tủy dị thân<br /> Tế bào gốc tạo máu được lấy từ tủy của người cho tủy khỏe mạnh. Ghép  <br /> tủy dị  thân được lợi là không bị  nhiễm tế  bào bướu, đồng thời tác dụng mảnh <br /> ghép chống bướu có thể mang lợi ích diệt trừ tế bào ung thư. Tuy nhiên bù lại sự <br /> không tương hợp miễn dịch giữa mảnh ghép và người nhận có thể  gây nhiều  <br /> biến chứng chết người. Những biện pháp để   ức chế  miễn dịch, hạn chế  hiện  <br /> tượng này như  hóa trị  liều cao, xạ  trị, dùng thuốc  ức chế  miễn dịch  ở  người  <br /> nhận và dùng tủy ghép đã được loại tế bào lymphô T, hoặc dùng kháng thể đơn <br /> dòng chống tế bào T.<br /> Hiện nay, với các bệnh lý lành tính như  hội chứng xơ tủy, thiếu máu bất <br /> sản, và nhiều loại bệnh lý rối loạn tăng sinh tủy, cũng như những rối loạn bẩm <br /> sinh thì chỉ  ghép tủy tự  thân được  ứng dụng. Tuy nhiên với các bệnh lý ác tính <br /> <br /> <br /> 4<br /> Nguyễn Xuân Hạnh                                        K12 – Sinh học thực nghiệm<br />    Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br /> <br /> <br /> <br /> của hệ tạo huyết, thì ghép tủy tự thân và dị thân đều được ứng dụng. Nhìn chung  <br /> ghép tủy dị thân cho kết quả tốt hơn trong việc kiểm soát bệnh với sự giảm đáng <br /> kể  tỉ  lệ  tái phát. Ngược lại, những biến chứng của việc ghép tủy dị  thân như <br /> bệnh lý mảnh ghép chống chủ, độc tính, nhiễm trùng đã ảnh hưởng đáng kể lên <br /> kết quả sống còn.<br /> 3.4. Các nguồn gốc tế bào tủy ghép <br /> 3.4.1. Từ tủy xương<br /> Đa phần lấy từ xương cánh chậu. Quá trình lấy tủy từ  tủy xương khá an <br /> toàn và hầu hết các biến chứng liên quan đến việc vô cảm. Một số  nghiên cứu <br /> cho thấy thời gian trung bình để tủy người hiến tặng hồi phục là 16 ngày.<br /> 3.4.2. Máu ngoại vi<br /> Tế  bào gốc tạo máu hiện diện rất ít ở  máu ngoại vi. Tuy nhiên, dưới tác  <br /> dụng của một số  tác nhân như  hóa trị, yếu tố  kích thích tăng trưởng tạo máu <br /> (hematopoietic growth factor), một số  thuốc  ức chế  thụ  thể  hóa  ứng động BC <br /> (chemokine receptor), có thể  gia tăng sự  huy động tế  bào gốc trong tủy ra  máu <br /> ngoại biên. Những tế  bào này có thể  lấy được bằng cách lọc máu (apheresis). <br /> Những tế bào được lấy bằng cách này được gọi là tế bào đầu dòng máu ngoại vi  <br /> (peripheral blood progenitor cells) để  phân biệt với  tế  bào gốc tạo máu  (blood <br /> stem cell). Có nhiều thuốc được dùng để  huy động tế  bào gốc ra máu ngoại vi  <br /> như  G­CSF, GM­CSF, interleukin­3, thrombopoietin, và gần đây hơn là những  <br /> chất đối vận (antagonist AMD 3100) với receptor của quá trình hóa  ứng động  <br /> (chemokine­related receptor CXCR4).<br /> 3.4.3. Tế bào máu cuống rốn<br /> Một bất lợi của nguồn cung cấp này là lượng tế  bào gốc tạo máu không <br /> nhiều do đó thường được dùng để  ghép cho bệnh nhi. Ngược lại đây là các tế <br /> bào non, do đó đây cũng chính là những tế  bào đi qua được hàng rào miễn dịch <br /> của người nhận dễ dàng nhất.<br /> 3.5. Các phương pháp huy động tế  bào gốc tạo máu (đối với tế  bào gốc lấy  <br /> từ máu ngoại biên) <br /> 3.5.1. Hóa trị ức chế tủy<br /> Là một trong những phương pháp được thực hiện đầu tiên.  Ở  giai đoạn  <br /> phục hồi sau hóa trị  ức chế tủy, lượng tế bào gốc ra máu ngoại biên có thể  tăng <br /> lên 14 – 100 lần.<br /> Phương pháp này có một số bất lợi: kéo dài thời gian điều trị, độc tính cao,  <br /> gây giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, … Và  ở  một số  bệnh nhân, sau khi hóa trị <br /> không ghi nhận thấy tình trạng tăng hoặc tăng rất ít tế  bào gốc ở  máu ngoại vi, <br /> nhất là ở bệnh nhân bị xâm nhập tủy.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 5<br /> Nguyễn Xuân Hạnh                                        K12 – Sinh học thực nghiệm<br />    Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br /> <br /> <br /> <br /> Hiện nay, với việc sử dụng các yếu tố  kích thích tăng trưởng tế  bào gốc <br /> thì phương pháp này không còn được sử  dụng rộng cũng như  không được sử <br /> dụng đơn độc để huy động tế bào gốc nữa.<br /> 3.5.2. Dùng các yếu tố kích thích tăng trưởng tế bào gốc đơn thuần<br /> Một số thuốc đã được dùng để huy động tế bào gốc ra máu ngoại biên: G­<br /> CSF, GM­CSF, interleukin­3, SCF (stem cell factor)…<br /> Hiện G­CSM là thuốc thường được dùng nhất vì hiệu quả  và ít độc tính. <br /> Một số thuốc khác mới hơn đang được nghiên cứu như AMD3100. AMD 3100 là  <br /> chất đối vận lên thụ thể chemokine CXCR4 có ở tế bào bạch cầu. Một số nghiên  <br /> cứu gần đây cho thấy AMD3100 có tác dụng hiệp đồng với G­CSF.<br /> 4. Biến chứng sau ghép tủy <br /> 4.1. Sớm: trong vòng 100 ngày sau ghép tủy<br /> Với việc sử dụng nguồn tế bào gốc từ tế bào máu ngoại vi, thu ngắn thời  <br /> gian hồi phục tế  bào tủy, tế  bào máu, vì thế  làm giảm đáng kể  các biến chứng  <br /> sớm. Thời gian hồi phục thu ngắn làm giảm sử  dụng kháng sinh, giảm nuôi ăn <br /> bằng đường truyền tĩnh mạch, giảm truyền máu và giảm thời gian nằm viện. <br /> Các thuốc tăng trưởng tế  bào như  G­CSF thường được dùng trong ghép tủy tự <br /> thân có vẻ làm gia tăng quá trình hồi phục của dòng BC trung tính một cách vừa <br /> phải.<br /> Sau ghép tủy dị  thân gặp nhiều khó khăn hơn.  Ở  nhiều trung tâm, tế  bào <br /> gốc từ  máu ngoại vi thường được dùng khi người hiến tủy là chị  em ruột của  <br /> bệnh nhân.<br /> Viêm niêm mạc và dinh dưỡng: viêm niêm mạc đường tiêu hóa gặp ở hầu <br /> hết những bệnh nhân ghép tủy, đặc biệt  ở  những bệnh nhân được xạ  trị  toàn <br /> thân hoặc được điều trị methotrexate phòng ngừa bệnh lý mảnh ghép chống chủ.  <br /> Điều trị  chủ  yếu là súc miệng, kết hợp dùng  kháng sinh phòng ngừa. Giảm đau <br /> chủ yếu là tại chỗ, đôi khi phải dùng giảm đau đường tiêm truyền.<br /> Chảy máu: những bệnh nhân ghép tủy có nguy cơ  cao bị  chảy máu, tuy <br /> nhiên đa phần xuất huyết  ở những bệnh nhân ghép tủy không thường gặp và có  <br /> thể  kiểm soát được bằng các cách thông thường như  xuất huyết dạng chấm,  <br /> chảy máu mũi, nặng hơn có thể  xuất huyết dạ  dày, xuất huyết đường sinh dục  <br /> tiết niệu. Tuy nhiên những xuất huyết này có thể  kiểm soát được bằng truyền <br /> tiểu cầu.<br /> Nhiễm trùng: do tổn thương hàng rào bảo vệ  là da niêm mạc và giảm <br /> bạch cầu. Để  giảm biến chứng này, nhiều trung tâm đã thực hiện việc truyền  <br /> globulin miễn dịch cho bệnh nhân sau ghép tủy.<br /> Nhiễm  vi trùng  rất thường gặp trong thời gian đầu sau ghép tủy và tác  <br /> nhân chủ  yếu là gram (+), mặc dù gram (­) cũng có thể  gặp. Cụ  thể  là nhóm <br /> staphylococcus, streptococuss viridans, trực khuẩn gram (­). Cũng có thể  nhiễm  <br /> <br /> <br /> <br /> 6<br /> Nguyễn Xuân Hạnh                                        K12 – Sinh học thực nghiệm<br />    Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br /> <br /> <br /> <br /> Haemophilus Influenza, nhưng thường gặp muộn hơn, khoảng tháng thứ  2­3 sau <br /> ghép tủy, và gặp ở bệnh nhân bị bệnh mảnh ghép chống chủ cấp.<br /> Theo nhiều tác giả, nguy cơ gia tăng không phải do tình trạng giảm BC mà <br /> nguồn bệnh xuất phát từ các đường tiêm truyền mà chủ yếu là catheter tĩnh mạch <br /> và do tổn thương hang rào da niêm xảy ra trong quá trình chuẩn bị  trước ghép <br /> tủy.<br /> Nhiễm  nấm : thực sự  nguy hiểm cho bệnh nhân sau ghép tủy, đặc biệt  <br /> nhiễm Aspergilus xâm lấn. Candida và Aspergilus là hai tác nhân thường gặp, tuy  <br /> nhiên còn nhiều tác nhân khác.<br /> Nhiễm  virus: trong giai đoạn sớm sau ghép tủy thì virus thường gặp là <br /> Herpes Simplex Virus, virus á cúm. Nhóm Cytomegalo Virus cũng thường gặp,  <br /> thường khoảng tháng thứ 2­3 sau ghép tủy.<br /> Bệnh mảnh ghép chống chủ cấp: vẫn còn là biến chứng nghiêm trọng và <br /> là thách thức cho ghép tủy. Nguyên nhân là sự  xung đột  miễn dịch  giữa tế  bào <br /> lymphô T của tủy người hiến với mô của cơ thể người nhận, trong điều kiện hệ <br /> miễn dịch của người nhận tủy ghép bị   ức chế  đủ  mạnh để  không xảy ra phản  <br /> ứng ngược lại giữa tế bào miễn dịch người nhận với mảnh tủy được ghép. Theo <br /> định nghĩa phản ứng này xảy ra trong 100 ngày sau ghép tủy, biểu hiện đầu tiên <br /> ở  da, đường tiêu hóa và gan. Phòng ngừa bằng cách dùng thuốc  ức chế  miễn  <br /> dịch. Thuốc thường dùng là cyclosporine và methotrexate. Tacrolimus (FK506) <br /> cũng được sử dụng để phòng ngừa phản ứng này. Một cách khác để phòng ngừa <br /> phản  ứng này là loại bỏ  tế  bào lymphô T trong tủy người hiến trước khi ghép  <br /> cho người nhận. Tuy nhiên, ngược lại, việc loại bỏ tế bào lymphô T thì làm tăng <br /> nguy cơ thải ghép và nguy cơ tái phát cho bệnh nhân. Bệnh nhân nhận tủy ghép  <br /> đã loại bỏ tế bào T cũng gia tăng nguy cơ bị các nhiễm trùng cơ hội. Quan niệm  <br /> gần đây là chỉ loại bỏ lymphô T ở một mức độ nào đó thôi.<br /> Điều trị đầu tiên cho bệnh mảnh ghép chống chủ là corticoid thường dùng <br /> là glucocoticoid.<br /> Thuyên tắc tĩnh mạch: thuyên tắc tĩnh mạch gan là một biến chứng nguy <br /> hiểm dễ gây tử vong, thường xuất hiện trong 1 tháng sau ghép tủy, gặp cả trong  <br /> ghép tủy tự thân và ghép tủy dị thân. Triệu chứng điển hình là tăng cân không rõ  <br /> nguyên nhân, vàng da, gan to, đau bụng và báng bụng. Khi diễn tiến nặng, có thể <br /> ảnh hưởng lên não, suy thận, tổn thương phổi và suy đa cơ quan.<br /> Những bệnh nhân có tiền căn viêm gan siêu vi B hoặc C là những người có <br /> nguy cơ cao bị biến chứng này. Những bệnh nhân bị mức độ nhẹ và trung bình có  <br /> thể  hồi phục lại chức năng gan và hiến khi để  lại những di chứng mãn tính lên  <br /> gan.<br /> Điều trị biến chứng này còn chưa thống nhất. Một số nghiên cứu cho thấy  <br /> dùng heparin và rTPA (recombinant Tissue­plasminogen activator) cải thiện  ở một  <br /> số bệnh nhân nhưng ngược lại làm tăng nguy cơ xuất huyết.<br /> <br /> <br /> <br /> 7<br /> Nguyễn Xuân Hạnh                                        K12 – Sinh học thực nghiệm<br />    Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br /> <br /> <br /> <br /> Biến chứng lên phổi: là một biến chứng thường gặp cả trong ghép tủy tự <br /> thân và ghép tủy dị  thân. Nguyên nhân có thể  do nhiễm trùng, do hóa trị, chảy  <br /> máu, hoặc đôi khi nguyên nhân không rõ. Viêm phổi mô kẽ  gặp  ở  khoảng 10­<br /> 15% bệnh nhân. Nguy cơ  cao  ở  bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhân có xạ  trị  vào  <br /> phổi trước đó. Viêm phổi kẽ vô căn có thể điều trị bằng corticoid và có đáp ứng <br /> khá tốt. Biến chứng này thường gặp ở ngày thứ 20­60 sau ghép tủy.<br /> 4.2. Muộn sau 100 ngày<br /> Bệnh mảnh ghép chống chủ mãn<br /> Trong khoảng giữa thập kỷ  70, những ca dị  ghép tủy xương từ  tủy của <br /> người hiến là anh chị em cùng huyết thống đã phù hợp kháng nguyên HLA, bệnh <br /> nhân có những biểu hiện bệnh lý  ở  da, miệng, nhãn cầu, ruột,  gan và mô phổi. <br /> Nhiều bệnh nhân biểu hiện với những tổn thương nặng nề   ở  da, xơ  cứng mô <br /> dưới da, dễ  nhiễm trùng. Bệnh lý này diễn ra với nhiều biểu hiện của hiện  <br /> tượng tự miễn.<br /> Mãn khi những biểu hiện của bệnh xảy ra sau từ ngày thứ 100 trở đi. Biểu  <br /> hiện của bệnh thường rộng, toàn thân gồm các biểu hiện  ở  da, đường tiêu hóa, <br /> gan, hô hấp.<br /> Biểu hiện da có thể tương tự như những rối loạn tự miễn như xơ cứng bì,  <br /> viêm da cơ, da xơ cứng, tróc vẩy, teo da, teo đét móng tay móng chân, rụng tóc. Ở <br /> đường tiêu hóa, loét niêm mạc miệng, thực quản, rối loạn hấp thu.   Ở  gan thì <br /> tăng men gan, nghẽn mật trong gan, xơ  gan. Khô các tuyến ngoại tiết, nhiễm <br /> trùng phổi từng đợt, viêm tắc phế quản...<br /> Bệnh nhân có thể có nguy cơ tử vong nếu bệnh biểu hiện nặng, nhất là ở <br /> những bệnh nhân giảm tiểu cầu 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2