Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br />
<br />
<br />
<br />
BÀI KIỂM TRA<br />
SINH HỌC PHÁT TRIỂN CÁ THỂ NÂNG CAO<br />
<br />
<br />
Họ và tên: Nguyễn Xuân Hạnh<br />
Lớp: K12 – Sinh học thực nghiệm Tỉnh Bắc Giang<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên đề: GHÉP TẾ BÀO GỐC TẠO MÁU<br />
<br />
<br />
Ghép tế bào gốc tạo máu hay thường được gọi ngắn gọn là ghép tủy là <br />
một phương pháp điều trị bệnh được ứng dụng nhiều trong ngành huyết học và <br />
ung thư học. Phương pháp này thực hiện quá trình cấy ghép tế bào gốc tạo máu <br />
lấy từ tủy xương hoặc từ máu ghép vào cơ thể người bệnh để chữa các bệnh lý <br />
huyết học, bệnh lý miễn dịch, di truyền và một số bệnh lý ung thư khác.<br />
1. Lịch sử ngành ghép tủy<br />
Ngành ghép tủy thực sự phát triển bắt đầu sau sự bùng nổ của năng lượng <br />
và vũ khí hạt nhân năm 1945. Mặc dù trước đó đã có một vài nỗ lực của các nhà <br />
khoa học trong việc dùng tủy xương của người hiến đưa vào cơ thể người nhận <br />
là những bệnh nhân bị thiếu máu hay ung thư máu bằng đường uống, tiêm bắp <br />
hay truyền tĩnh mạch.<br />
Vào thời điểm này, ngành ghép tủy bắt đầu được nghiên cứu nhiều vì <br />
xuất hiện những bệnh nhân bị các bệnh lý máu ác tính do phơi nhiễm phóng xạ <br />
iôn hóa.<br />
Chúng ta có thể lược lại một số mốc quan trọng của ngành ghép tủy: <br />
Ca ghép tủy đầu tiên được ghi nhận năm 1939, thực hiện trên một bệnh <br />
nhân bị xơ tủy do kim loại nặng, tủy ghép lấy từ người anh ruột của bệnh nhân. <br />
Ca ghép này không thành công, bệnh nhân chết sau 5 ngày.<br />
Ca ghép tủy được ghi nhận thành công đầu tiên là năm 1965, khi một <br />
bệnh nhân Bạch cầu lymphô cấp loại nguyên bào lynphô được điều trị bằng hóa <br />
trị và xạ trị, sau đó được truyền tế bào tủy xương từ 6 người hiến tủy khác nhau <br />
nhưng có liên hệ huyết thống. Bệnh nhân này tử vong sau 20 tháng vì bệnh tái <br />
phát.<br />
Từ năm 1977 đến 1980, thành công trong nghiên cứu ghép tủy dị thân. <br />
Cũng từ năm 1978, ghép tủy trong bệnh lymphô bắt đầu có những thành công <br />
nhất định.<br />
<br />
<br />
1<br />
Nguyễn Xuân Hạnh K12 – Sinh học thực nghiệm<br />
Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br />
<br />
<br />
<br />
Năm 1990, BS E.D. Thomas đã được trao giải thưởng Nobel y học cho <br />
những nghiên cứu về ghép tủy.<br />
Đến năm 2000, thì đã có hơn 500 000 trường hợp ghép tủy thực hiện trên <br />
toàn thế giới. Cho đến bây giờ ghép tủy đã được thử nghiệm nghiên cứu trong <br />
nhiều bệnh lý, cả ác tính lẫn không ác tính, đáng kể là ghép tủy khá hiệu quả <br />
trong điều trị các bệnh lý thiếu máu bất sản, khi tủy hiến có HLA phù hợp người <br />
nhận, đặc biệt giữa anh chị em ruột.<br />
2. Phân loại ghép tủy<br />
2.1. Tự ghép tủy<br />
Tự ghép tủy từ sản phẩm tủy toàn phần<br />
Tự ghép tủy từ sản phẩm tế bào gốc của tủy hay của máu ngoại vi<br />
2.2. Dị ghép tủy<br />
Dị ghép từ sản phẩm tủy toàn phần<br />
Dị ghép từ sản phẩm tế bào gốc của tủy hay của máu ngoại vi.<br />
Dị ghép từ sản phẩm tế bào gốc của máu cuống rốn.<br />
3. Quy trình ghép tuỷ<br />
3.1. Chuẩn bị trước ghép tủy<br />
Lựa chọn người cho tủy – Phức hợp phù hợp mô chính MHC<br />
Phức hợp phù hợp mô chính hay còn gọi là kháng nguyên bạch cầu người <br />
HLA.<br />
Phức hợp này bao gồm một nhóm gene nằm trên nhánh ngắn của nhiễm <br />
sắc thể số 6, gồm 3 loại gene, tạo ra các kháng nguyên hệ HLA, gồm 2 loại <br />
chính:<br />
Kháng nguyên lớp I gồm các sản phẩm gene ở các locus A, B, C.<br />
Kháng nguyên lớp II gồm các sản phẩm gene ở các locus D, DR, DQ và DP.<br />
Các kháng nguyên lớp I được xác định bằng phương pháp huyết thanh học <br />
nên được gọi là kháng nguyên SD (Serum determined). Còn các kháng nguyên <br />
HLAD được xác định bằng phản ứng nuôi cấy bạch cầu hỗn hợp.<br />
Các bạch cầu lymphô thường mang cả 2 loại kháng nguyên trên. Một số <br />
lớn các tế bào khác chỉ mang kháng nguyên lớp I tức kháng nguyên SD. Kháng <br />
thể HLA xuất hiện chủ yếu do truyền máu, mang thai, ghép tổ chức hay do tiêm <br />
truyền bạch cầu ở những người tình nguyện. Sự khác biệt kháng nguyên hệ <br />
HLA của cơ thể cho và nhận càng lớn thì hiện tượng thải ghép xảy ra càng <br />
nhanh. Do đó muốn mảnh ghép sống lâu trong cơ thể thì cần có sự giống nhau về <br />
kháng nguyên HLA của cơ thể cho và nhận. Thực tế khó xảy ra trừ khi người <br />
cho và nhận là anh chị em sinh đôi một trứng.<br />
3.2. Điều trị trước ghép tủy<br />
Trong ghép tạng phải có sự ức chế miễn dịch mạnh ở người nhận để <br />
ngăn ngừa thải ghép. Ức chế miễn dịch phải dùng suốt đời bởi sự dung nạp <br />
<br />
2<br />
Nguyễn Xuân Hạnh K12 – Sinh học thực nghiệm<br />
Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br />
<br />
<br />
<br />
miễn dịch không bao giờ đạt được. Trong ghép tủy xương, ngoài ức chế miễn <br />
dịch cần phải tạo lên các khoảng trống trong tủy để các tế bào ghép trú ngụ và <br />
sinh sản. Điều này có được bằng điều trị diệt tủy.<br />
Hóa trị liều cao trước ghép tủy, các nhóm thuốc thường dùng như <br />
alkylating, etoposide, cytarabine... và có thể cả xạ trị toàn thân. Hiện chưa có sự <br />
thống nhất rằng phác đồ nào hiệu quả hơn và được dung nạp tốt hơn phác đồ <br />
nào.<br />
Xạ trị toàn thân vai trò cũng chưa rõ ràng và thường được dùng trong <br />
lymphôm nguyên bào miễn dịch và lymphôm grad thấp.<br />
<br />
<br />
3.2.1 Điều trị diệt tủy trước ghép tủy<br />
Bước chuẩn bị tiêu chuẩn cho bệnh nhân trước khi ghép tủy dị thân là hóa <br />
trị liều cao kết hợp hay không kết hợp với xạ trị toàn thân. Đó là nỗ lực để điều <br />
trị tận gốc bệnh ác tính nền đồng thời giảm tình trạng thải ghép, giảm các phản <br />
ứng bất lợi giữa mảnh ghép và chủ.<br />
3.2.2. Điều trị không diệt tủy trước ghép tủy <br />
Việc điều trị diệt tủy trước ghép tủy thường có độc tính cao vì thường <br />
dùng hóa chất liều cao kèm xạ trị toàn thân. Chính độc tính đó đã hạn chế sự <br />
dung nạp điều trị, nhất là ở những bệnh nhân lớn tuổi, bệnh nhân có bệnh lý <br />
nặng khác kèm theo, hoặc ở những bệnh nhân có bệnh lý diễn tiến chậm <br />
(indolent). Lúc này các phác đồ điều trị mà không diệt tủy phù hợp cho những <br />
bệnh nhân này mà giảm bớt độc tính. Những phác đồ ít độc tính này cũng phù <br />
hợp với bệnh nhân ghép tủy để điều trị các bệnh lý do rối loạn di truyền hoặc <br />
bệnh tự miễn mà không phải bệnh lý ác tính. Mục đích của điều trị không diệt <br />
tủy trước ghép tủy là ức chế một phần tủy đồng thời ức chế một phần hệ miễn <br />
dịch của người nhận để chấp nhận mảnh ghép một cách lâu dài và bền vững.<br />
3.2.3. Những phác đồ chuẩn bị trước ghép tủy mới<br />
Xu hướng hiện nay là dùng xạ trị nhắm trúng đích, với kháng thể đơn <br />
dòng được gắn đồng vị phóng xạ, tăng liều xạ trị vào bướu và giảm liều đáng kể <br />
đến các mô lành. Ví dụ gắn đồng vị phóng xạ I 131 vào kháng thể đơn dòng <br />
kháng CD33, để điều trị cho những bệnh nhân lympho không Hodgkin tế bào B. <br />
Kháng thể đơn dòng kháng CD20 (rituximab) cũng được sử dụng kết hợp trong <br />
các phác đồ điều trị trước ghép tủy cho kết quả khá khả quan nhất là ở bệnh <br />
nhân lympho dạng nang. <br />
3.3. Chọn lựa nguồn lấy tế bào gốc<br />
3.3.1. Tế bào gốc từ tủy tự thân<br />
Tế bào gốc được lấy từ tủy xương của chính người bệnh.<br />
Phương pháp này có bất lợi là có thể bị nhiễm tế bào bướu. Đa số các <br />
tác giả cho rằng tái phát ở những bệnh nhân ghép tủy tự thân là do sự nhiễm tế <br />
<br />
3<br />
Nguyễn Xuân Hạnh K12 – Sinh học thực nghiệm<br />
Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br />
<br />
<br />
<br />
bào bướu trong tủy ghép và do các tế bào bướu còn sót lại trong tủy xương bệnh <br />
nhân trước khi ghép tủy. Đã có nhiều cách nhằm loại bỏ tế bào bướu khỏi mẫu <br />
tủy ghép. Chẳng hạn kháng thể đơn dòng chống tế bào lymphô B đã được dùng <br />
để loại tế bào bướu trong ghép tủy tự thân ở bệnh nhân lymphôm không Hodgkin <br />
tế bào lymphô B.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Lấy tủy xương<br />
Phương pháp loại tế bào bướu thường được dùng nhất hiện nay là <br />
phương pháp dùng kỹ thuật từ miễn dịch (immunomagnetic) với kháng thể đơn <br />
dòng để lựa chọn các tế bào gốc có CD 34(+). Ngoài ra, còn có thể kết hợp thêm <br />
kháng thể đơn dòng khác để lựa chọn tế bào có CD 34(+) và Thy1 (+), phương <br />
pháp này đã được ứng dụng trong ghép tủy ở bệnh nhân ung thư vú, đa u tủy và <br />
lymphôm.<br />
3.3.2. Tế bào gốc từ máu ngoại vi<br />
Tế bào gốc cũng có thể có trong máu ngoại vi. Bằng các phương pháp <br />
huy động tế bào gốc sau đó chiết tách tế bào gốc bằng các máy tách tế bào. Đây <br />
cũng là một nguồn cung cấp tế bào gốc nhất là ở những bệnh nhân đã có tiền căn <br />
xạ trị vùng chậu, bệnh nhân mà tế bào tủy xương có nguy cơ bị nhiễm tế bào <br />
bướu hoặc khi quá trình nuôi tế bào gốc từ tủy xương thất bại.<br />
3.3.3. Tế bào gốc từ tủy dị thân<br />
Tế bào gốc tạo máu được lấy từ tủy của người cho tủy khỏe mạnh. Ghép <br />
tủy dị thân được lợi là không bị nhiễm tế bào bướu, đồng thời tác dụng mảnh <br />
ghép chống bướu có thể mang lợi ích diệt trừ tế bào ung thư. Tuy nhiên bù lại sự <br />
không tương hợp miễn dịch giữa mảnh ghép và người nhận có thể gây nhiều <br />
biến chứng chết người. Những biện pháp để ức chế miễn dịch, hạn chế hiện <br />
tượng này như hóa trị liều cao, xạ trị, dùng thuốc ức chế miễn dịch ở người <br />
nhận và dùng tủy ghép đã được loại tế bào lymphô T, hoặc dùng kháng thể đơn <br />
dòng chống tế bào T.<br />
Hiện nay, với các bệnh lý lành tính như hội chứng xơ tủy, thiếu máu bất <br />
sản, và nhiều loại bệnh lý rối loạn tăng sinh tủy, cũng như những rối loạn bẩm <br />
sinh thì chỉ ghép tủy tự thân được ứng dụng. Tuy nhiên với các bệnh lý ác tính <br />
<br />
<br />
4<br />
Nguyễn Xuân Hạnh K12 – Sinh học thực nghiệm<br />
Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br />
<br />
<br />
<br />
của hệ tạo huyết, thì ghép tủy tự thân và dị thân đều được ứng dụng. Nhìn chung <br />
ghép tủy dị thân cho kết quả tốt hơn trong việc kiểm soát bệnh với sự giảm đáng <br />
kể tỉ lệ tái phát. Ngược lại, những biến chứng của việc ghép tủy dị thân như <br />
bệnh lý mảnh ghép chống chủ, độc tính, nhiễm trùng đã ảnh hưởng đáng kể lên <br />
kết quả sống còn.<br />
3.4. Các nguồn gốc tế bào tủy ghép <br />
3.4.1. Từ tủy xương<br />
Đa phần lấy từ xương cánh chậu. Quá trình lấy tủy từ tủy xương khá an <br />
toàn và hầu hết các biến chứng liên quan đến việc vô cảm. Một số nghiên cứu <br />
cho thấy thời gian trung bình để tủy người hiến tặng hồi phục là 16 ngày.<br />
3.4.2. Máu ngoại vi<br />
Tế bào gốc tạo máu hiện diện rất ít ở máu ngoại vi. Tuy nhiên, dưới tác <br />
dụng của một số tác nhân như hóa trị, yếu tố kích thích tăng trưởng tạo máu <br />
(hematopoietic growth factor), một số thuốc ức chế thụ thể hóa ứng động BC <br />
(chemokine receptor), có thể gia tăng sự huy động tế bào gốc trong tủy ra máu <br />
ngoại biên. Những tế bào này có thể lấy được bằng cách lọc máu (apheresis). <br />
Những tế bào được lấy bằng cách này được gọi là tế bào đầu dòng máu ngoại vi <br />
(peripheral blood progenitor cells) để phân biệt với tế bào gốc tạo máu (blood <br />
stem cell). Có nhiều thuốc được dùng để huy động tế bào gốc ra máu ngoại vi <br />
như GCSF, GMCSF, interleukin3, thrombopoietin, và gần đây hơn là những <br />
chất đối vận (antagonist AMD 3100) với receptor của quá trình hóa ứng động <br />
(chemokinerelated receptor CXCR4).<br />
3.4.3. Tế bào máu cuống rốn<br />
Một bất lợi của nguồn cung cấp này là lượng tế bào gốc tạo máu không <br />
nhiều do đó thường được dùng để ghép cho bệnh nhi. Ngược lại đây là các tế <br />
bào non, do đó đây cũng chính là những tế bào đi qua được hàng rào miễn dịch <br />
của người nhận dễ dàng nhất.<br />
3.5. Các phương pháp huy động tế bào gốc tạo máu (đối với tế bào gốc lấy <br />
từ máu ngoại biên) <br />
3.5.1. Hóa trị ức chế tủy<br />
Là một trong những phương pháp được thực hiện đầu tiên. Ở giai đoạn <br />
phục hồi sau hóa trị ức chế tủy, lượng tế bào gốc ra máu ngoại biên có thể tăng <br />
lên 14 – 100 lần.<br />
Phương pháp này có một số bất lợi: kéo dài thời gian điều trị, độc tính cao, <br />
gây giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, … Và ở một số bệnh nhân, sau khi hóa trị <br />
không ghi nhận thấy tình trạng tăng hoặc tăng rất ít tế bào gốc ở máu ngoại vi, <br />
nhất là ở bệnh nhân bị xâm nhập tủy.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
5<br />
Nguyễn Xuân Hạnh K12 – Sinh học thực nghiệm<br />
Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br />
<br />
<br />
<br />
Hiện nay, với việc sử dụng các yếu tố kích thích tăng trưởng tế bào gốc <br />
thì phương pháp này không còn được sử dụng rộng cũng như không được sử <br />
dụng đơn độc để huy động tế bào gốc nữa.<br />
3.5.2. Dùng các yếu tố kích thích tăng trưởng tế bào gốc đơn thuần<br />
Một số thuốc đã được dùng để huy động tế bào gốc ra máu ngoại biên: G<br />
CSF, GMCSF, interleukin3, SCF (stem cell factor)…<br />
Hiện GCSM là thuốc thường được dùng nhất vì hiệu quả và ít độc tính. <br />
Một số thuốc khác mới hơn đang được nghiên cứu như AMD3100. AMD 3100 là <br />
chất đối vận lên thụ thể chemokine CXCR4 có ở tế bào bạch cầu. Một số nghiên <br />
cứu gần đây cho thấy AMD3100 có tác dụng hiệp đồng với GCSF.<br />
4. Biến chứng sau ghép tủy <br />
4.1. Sớm: trong vòng 100 ngày sau ghép tủy<br />
Với việc sử dụng nguồn tế bào gốc từ tế bào máu ngoại vi, thu ngắn thời <br />
gian hồi phục tế bào tủy, tế bào máu, vì thế làm giảm đáng kể các biến chứng <br />
sớm. Thời gian hồi phục thu ngắn làm giảm sử dụng kháng sinh, giảm nuôi ăn <br />
bằng đường truyền tĩnh mạch, giảm truyền máu và giảm thời gian nằm viện. <br />
Các thuốc tăng trưởng tế bào như GCSF thường được dùng trong ghép tủy tự <br />
thân có vẻ làm gia tăng quá trình hồi phục của dòng BC trung tính một cách vừa <br />
phải.<br />
Sau ghép tủy dị thân gặp nhiều khó khăn hơn. Ở nhiều trung tâm, tế bào <br />
gốc từ máu ngoại vi thường được dùng khi người hiến tủy là chị em ruột của <br />
bệnh nhân.<br />
Viêm niêm mạc và dinh dưỡng: viêm niêm mạc đường tiêu hóa gặp ở hầu <br />
hết những bệnh nhân ghép tủy, đặc biệt ở những bệnh nhân được xạ trị toàn <br />
thân hoặc được điều trị methotrexate phòng ngừa bệnh lý mảnh ghép chống chủ. <br />
Điều trị chủ yếu là súc miệng, kết hợp dùng kháng sinh phòng ngừa. Giảm đau <br />
chủ yếu là tại chỗ, đôi khi phải dùng giảm đau đường tiêm truyền.<br />
Chảy máu: những bệnh nhân ghép tủy có nguy cơ cao bị chảy máu, tuy <br />
nhiên đa phần xuất huyết ở những bệnh nhân ghép tủy không thường gặp và có <br />
thể kiểm soát được bằng các cách thông thường như xuất huyết dạng chấm, <br />
chảy máu mũi, nặng hơn có thể xuất huyết dạ dày, xuất huyết đường sinh dục <br />
tiết niệu. Tuy nhiên những xuất huyết này có thể kiểm soát được bằng truyền <br />
tiểu cầu.<br />
Nhiễm trùng: do tổn thương hàng rào bảo vệ là da niêm mạc và giảm <br />
bạch cầu. Để giảm biến chứng này, nhiều trung tâm đã thực hiện việc truyền <br />
globulin miễn dịch cho bệnh nhân sau ghép tủy.<br />
Nhiễm vi trùng rất thường gặp trong thời gian đầu sau ghép tủy và tác <br />
nhân chủ yếu là gram (+), mặc dù gram () cũng có thể gặp. Cụ thể là nhóm <br />
staphylococcus, streptococuss viridans, trực khuẩn gram (). Cũng có thể nhiễm <br />
<br />
<br />
<br />
6<br />
Nguyễn Xuân Hạnh K12 – Sinh học thực nghiệm<br />
Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br />
<br />
<br />
<br />
Haemophilus Influenza, nhưng thường gặp muộn hơn, khoảng tháng thứ 23 sau <br />
ghép tủy, và gặp ở bệnh nhân bị bệnh mảnh ghép chống chủ cấp.<br />
Theo nhiều tác giả, nguy cơ gia tăng không phải do tình trạng giảm BC mà <br />
nguồn bệnh xuất phát từ các đường tiêm truyền mà chủ yếu là catheter tĩnh mạch <br />
và do tổn thương hang rào da niêm xảy ra trong quá trình chuẩn bị trước ghép <br />
tủy.<br />
Nhiễm nấm : thực sự nguy hiểm cho bệnh nhân sau ghép tủy, đặc biệt <br />
nhiễm Aspergilus xâm lấn. Candida và Aspergilus là hai tác nhân thường gặp, tuy <br />
nhiên còn nhiều tác nhân khác.<br />
Nhiễm virus: trong giai đoạn sớm sau ghép tủy thì virus thường gặp là <br />
Herpes Simplex Virus, virus á cúm. Nhóm Cytomegalo Virus cũng thường gặp, <br />
thường khoảng tháng thứ 23 sau ghép tủy.<br />
Bệnh mảnh ghép chống chủ cấp: vẫn còn là biến chứng nghiêm trọng và <br />
là thách thức cho ghép tủy. Nguyên nhân là sự xung đột miễn dịch giữa tế bào <br />
lymphô T của tủy người hiến với mô của cơ thể người nhận, trong điều kiện hệ <br />
miễn dịch của người nhận tủy ghép bị ức chế đủ mạnh để không xảy ra phản <br />
ứng ngược lại giữa tế bào miễn dịch người nhận với mảnh tủy được ghép. Theo <br />
định nghĩa phản ứng này xảy ra trong 100 ngày sau ghép tủy, biểu hiện đầu tiên <br />
ở da, đường tiêu hóa và gan. Phòng ngừa bằng cách dùng thuốc ức chế miễn <br />
dịch. Thuốc thường dùng là cyclosporine và methotrexate. Tacrolimus (FK506) <br />
cũng được sử dụng để phòng ngừa phản ứng này. Một cách khác để phòng ngừa <br />
phản ứng này là loại bỏ tế bào lymphô T trong tủy người hiến trước khi ghép <br />
cho người nhận. Tuy nhiên, ngược lại, việc loại bỏ tế bào lymphô T thì làm tăng <br />
nguy cơ thải ghép và nguy cơ tái phát cho bệnh nhân. Bệnh nhân nhận tủy ghép <br />
đã loại bỏ tế bào T cũng gia tăng nguy cơ bị các nhiễm trùng cơ hội. Quan niệm <br />
gần đây là chỉ loại bỏ lymphô T ở một mức độ nào đó thôi.<br />
Điều trị đầu tiên cho bệnh mảnh ghép chống chủ là corticoid thường dùng <br />
là glucocoticoid.<br />
Thuyên tắc tĩnh mạch: thuyên tắc tĩnh mạch gan là một biến chứng nguy <br />
hiểm dễ gây tử vong, thường xuất hiện trong 1 tháng sau ghép tủy, gặp cả trong <br />
ghép tủy tự thân và ghép tủy dị thân. Triệu chứng điển hình là tăng cân không rõ <br />
nguyên nhân, vàng da, gan to, đau bụng và báng bụng. Khi diễn tiến nặng, có thể <br />
ảnh hưởng lên não, suy thận, tổn thương phổi và suy đa cơ quan.<br />
Những bệnh nhân có tiền căn viêm gan siêu vi B hoặc C là những người có <br />
nguy cơ cao bị biến chứng này. Những bệnh nhân bị mức độ nhẹ và trung bình có <br />
thể hồi phục lại chức năng gan và hiến khi để lại những di chứng mãn tính lên <br />
gan.<br />
Điều trị biến chứng này còn chưa thống nhất. Một số nghiên cứu cho thấy <br />
dùng heparin và rTPA (recombinant Tissueplasminogen activator) cải thiện ở một <br />
số bệnh nhân nhưng ngược lại làm tăng nguy cơ xuất huyết.<br />
<br />
<br />
<br />
7<br />
Nguyễn Xuân Hạnh K12 – Sinh học thực nghiệm<br />
Sinh học phát triển cá thể nâng cao<br />
<br />
<br />
<br />
Biến chứng lên phổi: là một biến chứng thường gặp cả trong ghép tủy tự <br />
thân và ghép tủy dị thân. Nguyên nhân có thể do nhiễm trùng, do hóa trị, chảy <br />
máu, hoặc đôi khi nguyên nhân không rõ. Viêm phổi mô kẽ gặp ở khoảng 10<br />
15% bệnh nhân. Nguy cơ cao ở bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhân có xạ trị vào <br />
phổi trước đó. Viêm phổi kẽ vô căn có thể điều trị bằng corticoid và có đáp ứng <br />
khá tốt. Biến chứng này thường gặp ở ngày thứ 2060 sau ghép tủy.<br />
4.2. Muộn sau 100 ngày<br />
Bệnh mảnh ghép chống chủ mãn<br />
Trong khoảng giữa thập kỷ 70, những ca dị ghép tủy xương từ tủy của <br />
người hiến là anh chị em cùng huyết thống đã phù hợp kháng nguyên HLA, bệnh <br />
nhân có những biểu hiện bệnh lý ở da, miệng, nhãn cầu, ruột, gan và mô phổi. <br />
Nhiều bệnh nhân biểu hiện với những tổn thương nặng nề ở da, xơ cứng mô <br />
dưới da, dễ nhiễm trùng. Bệnh lý này diễn ra với nhiều biểu hiện của hiện <br />
tượng tự miễn.<br />
Mãn khi những biểu hiện của bệnh xảy ra sau từ ngày thứ 100 trở đi. Biểu <br />
hiện của bệnh thường rộng, toàn thân gồm các biểu hiện ở da, đường tiêu hóa, <br />
gan, hô hấp.<br />
Biểu hiện da có thể tương tự như những rối loạn tự miễn như xơ cứng bì, <br />
viêm da cơ, da xơ cứng, tróc vẩy, teo da, teo đét móng tay móng chân, rụng tóc. Ở <br />
đường tiêu hóa, loét niêm mạc miệng, thực quản, rối loạn hấp thu. Ở gan thì <br />
tăng men gan, nghẽn mật trong gan, xơ gan. Khô các tuyến ngoại tiết, nhiễm <br />
trùng phổi từng đợt, viêm tắc phế quản...<br />
Bệnh nhân có thể có nguy cơ tử vong nếu bệnh biểu hiện nặng, nhất là ở <br />
những bệnh nhân giảm tiểu cầu