intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tập lớn: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin học phần 2

Chia sẻ: Dinhhai Anh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:13

484
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu trả lời 2 câu hỏi lớn về học thuyết giá trị thặng dư. Tài liệu dành cho các bạn sinh viên các trường đại học, cao đẳng, TCCN đang theo học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tập lớn: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin học phần 2

  1. Đại học Kinh tế Quốc dân BÀI TẬP LỚN Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin học phần 2 Họ tên: ………………… Mã sinh viên: …………. Lớp: …………  
  2. HÀ NỘI ­ 2016
  3. Đề II Câu 1: Phân tích quy luật giá trị thặng dư trong phương thức sản xuất tư bản chủ  nghĩa và liên hệ với thực tiễn kinh tế đổi mới ở Việt Nam. Câu 2: Từ nội dung học thuyết giá trị thặng dư hãy trả lời: a. Quan điểm sau đây có đúng không ? Tại sao ? “Chỉ có phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới tạo ra giá trị thặng dư” b. Tại sao có thể  khẳng định:  “Quá trình tích lũy tư  bản cũng chính là quá  trình biến quyền sở  hữu tư  liệu sản xuất của người sản xuất hàng hóa thành  quyền chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất” c. Quan điểm sau có đúng không? Tại sao? Cho thí dụ. “ Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ  hiện đại, áp dụng vào quá trình sản  xuất tư bản chủ nghĩa, đã khắc phục được tình trạng các nhà tư bản bóc lột công  nhân làm thuê”
  4. Câu 1: Phân tích quy luật giá trị thặng dư trong phương thức sản xuất tư bản chủ  nghĩa và liên hệ với thực tiễn kinh tế đổi mới ở Việt Nam. Bài làm       Phải nói rằng học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng trong học thuyết kinh   tế của Mác. Trong quyển I của bộ tư bản có tựa đề là “Về tư tưởng”, C. Mác đã  trình bày một cách khoa học hệ  thống các phạm trù kinh tế, chính trị  tư  bản mà   trước đó chưa ai có thể làm được. Một trong số các học thuyết được nêu ra là học   thuyết giá trị thặng dư, C. Mác đã nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển hình  thành giá trị thặng dư và biểu hiện hoạt động giá trị  thặng dư cũng như  động cơ  của nó, nhờ  đó mà tòa bộ  bí mật của nền kinh tế  tư  bản chủ  nghĩa được vạch  trần, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được nêu ra một cách chính xác.       Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư: Mục đích của sản xuất tư bản là giá trị  thặng dư. Để  có giá trị  thặng dư, nhà tư  bản phải mua được hàng hoá sức lao   động và sử  dụng nó trong quá trình tạo ra giá trị  thặng dư  Quá trình nhà tư  bản   tiêu dùng hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất giá trị thặng dư  có ba đặc điểm:      Một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản.      Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.       Thứ ba, quá trình sản xuất tư  bản chủ nghĩa là sự  thống nhất giữa quá trình   sản xuất ra giá trị sử dụng với việc tạo ra giá trị và hơn nữa là giá trị thặng dư.      Ví dụ: Lấy một ví dụ về việc sản xuất sợi của nhà tư bản, để làm rõ quá trình   tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Giả sử, để  chế  tạo ra 1 kg sợi, nhà tư  bản phải   ứng ra số tiền 20.000 đơn vị  tiền tệ mua 1 kg bông, 3.000 đơn vị  tiền tệ cho hao   phí máy móc và 5.000 đơn vị tiền tệ mua sức lao động của công nhân điều khiển  máy móc trong 1 ngày (8 giờ). Giả  định việc mua này đúng giá trị. Mỗi giờ  lao   động sống của công nhân tạo ra giá trị mới kết tinh vào sản phẩm là 1.000 đơn vị  tiền tệ. Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể, công nhân sử  dụng máy   móc để chuyển 1kg bông thành 1 kg sợi, theo đó giá trị của bông và hao mòn máy   móc cũng được chuyển vào sợi; bằng lao động trừu tượng, mỗi giờ công nhân tạo  thêm một lượng giá trị  mới 1.000 đơn vị  tiền tệ. Giả  định chỉ  trong 4 giờ  công 
  5. nhân đã kéo xong 1kg bông thành 1 kg sợi, thì giá trị  1 kg sợi được tính theo các  khoản như sau:     Giá trị 1kg bông chuyển vào = 20.000 đơn vị tiền tệ     Hao mòn máy móc = 3.000 đơn vị tiền tệ      Giá trị mới tạo ra (trong 4 giờ lao động, phần này vừa đủ bù đắp giá trị sức lao   động) = 4.000 đơn vị tiền tệ Tổng cộng = 27.000 đơn vị tiền tệ. Nếu quá trình lao  động ngừng  ở  đây thì nhà tư  bản chưa có được giá trị  thặng dư. Nhưng nhà tư  bản đã mua sức lao động trong 1 ngày với 8 giờ, chứ không phải là 4 giờ. Trong 4   giờ lao động tiếp, nhà tư bản chi thêm 20.000 đơn vị tiền tệ để mua 1 kg bông và  3000 đơn vị tiền tệ hao mòn máy móc và với 4 giờ lao động sau, người công nhân  vẫn tạo ra 4.000 đơn vị  giá trị  mới và có thêm 1kg sợi với giá trị  27.000 đơn vị  tiền tệ. Tổng số tiền nhà tư bản chi ra có được 2kg sợi sẽ là:     Tiền mua bông: 20.000 x 2 = 40.000 đơn vị tiền tệ      Hao mòn máy móc (máy chạy 8 tiếng): 3000 x 2 = 6.000 đơn vị tiền tệ     Tiền lương công nhân sản xuất cả ngày (trong 8 giờ, tính theo đúng giá trị sức   lao động) = 4.000 đơn vị tiền tệ      Tổng cộng = 50.000 đơn vị tiền tệ      Tổng giá trị của 2 kg sợi là: 2 kg x 27.000 = 54.000 đơn vị tiền tệ và như vậy,   lượng  giá trị  thặng dư  thu  được là: 54.000 – 50.000= 4.000 (đơn vị  tiền tệ).  Lượng giá trị này chính bằng lượng giá trị mới do công nhân tạo ra trong 4 giờ lao   động sau.       Khi thu được giá trị thặng dư nhà tư  bản sẽ  chia nó ra thành nhiều phần, sử  dụng vào những mục đích khác nhau, trong đó một phần rất lớn dung để  mu tư  liệu sản xuất, để tái mở rộng sản xuất nhằm đem lại nhiều giá trị thặng dư hơn        Đã có nhiều phương pháp được dùng để  tạo ra giá trị  thặng dư, nhưng hai   phương pháp được sủ dụng chủ yếu là phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối và  phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương pháp đại diện cho một trình  độ  khác nhau của giai cấp tư  bản, cũng như  những giai đoạn lịch sử  khác nhau   của xã hội.
  6.      Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu của chủ  nghĩa tư bản, thời kì này nền kinh tế  sản xuất chủ yếu là sủ  dụng lao động thủ  công, hoặc lao động với những máy móc đơn giản  ở  các công trường thủ  công.  Đó là sự  ra tặng về  mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị  thặng dư. Bởi   phương pháp giá trị  thặng dư  tuyệt đối là giá trị  thặng dư  thu được do kéo dài  ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động,  giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu là không thay đổi.       Với sự thèm khát giá trị  thặng dư, nhà tư  bản phải tìm mọi cách để  kéo dài   ngày lao động và phương pháp bốc lột này đã đem lại hiệu quả  rất cao cho các   nhà tư bản. Nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của  ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Dưới chủ  nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hóa, nhưng nó toàn tại   trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời người lao động làm việc cho   nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian để  ăn   uống nghỉ  ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặc khác, sức lao đông là  hàng hóa đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi còn phải  có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về  tinh thần, v ật ch ất, tôn giáo của  mình. Từ  đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai   cấp tư  sản rút ngắn thời gian lao động trong ngày. Giới hạn dưới của ngày lao   động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng   dư bằng không. Như vậy về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao   động tất yếu nhưng không thể  vượt quá giới hạn về  thể  chất và tinh thần của   người lao động.      Vì vậy, giai cấp tư bản phải chuyển sang một phương thứ bóc lột mới tinh vi   hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.      Để khắc phục những vấn đề mà giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải thì nhà tư  bản đã áp dung phương pháp sản xuất giá trị  thặng dư  tương đối vào sản xuất.   Việc kéo dài ngày lao động bị  giới hạn về  thể  chất và tinh thần của người lao  động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ  của giai cáp công nhân.  Mặt khác khi sản xuất tư bản hủ nghĩa phát triển đến giai đoạn công nghiệp cơ  khí, kĩ thuật tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà   tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động,  bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Giá trị  thặng dư tương đối là giá trị  thu được 
  7. do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã  hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày  lao động vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động được quyết định bởi các tư liệu tiêu  dùng và phục vụ  sản xuất, tái sản xuất sức lao động, nếu muốn hạ  thấp  giá trị  sức lao động. Điều đó chỉ  được thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động xã   hội cho các ngành sản xuất tư  liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư  liệu sản  xuất để sán xuất ra các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ.       Sự  ra đời, phát triển và sử  dụng rộng rãi máy móc ðã làm cho năng suất lao   động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các công cụ  thủ  công, vì công cụ  thủ  công là công cụ  lao động do con người trực tiếp sử  dụng   bắng sức lao động nên bị  hạn chees bởi khả  năng sinh lý của con người, nhưng   khi lao động bằng máy móc sẽ không gặp phải những hạn chế đó. Vì thế việc sử  dụng máy móc làm năng suất lao động tăng lên rất cao, làm giảm giá trị sinh hoạt,   làm hạ thấp giá trị hàng hóa sức lao động, rút ngắn thời gian lao động tất yếu kéo  dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư  hơn. Phương pháp giá trị  thặng dư  tương đối ngày càng được nâng cao do các  cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng khoa học công nghệ  phát  triển với tốc độ  vũ bão, đem lại sự  phát triển chưa từng có trong lịch sử  loài  người,   nó   khác   với   cuộc   cách   mạng   khoa   hộc   là   dẫn   đến   sự   hình   thành   các  nguyên lý công nghệ sản xuất mới, chứ không đơn thuần là công cụ sản xuất như  cách mạng khoa học,do đó dẫn đến sự  tăng trưởng cao, đưa xã hội loài người  bước sang một nền văn minh mới – nền văn minh trí tuệ.       Một dạng của của giá trị  thặng dư tương đối là giá trị  thặng dư siêu ngạch,   đây là cái đich tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng   dư thu được do áp dụng công mới làm cho giá trị  cá biệt của hàng hóa thấp hơn   giá trị xã hội của nó. Xét trong từng trường hợp giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện  tượng tạm thời, nó sẽ  bị  mất đi khi công nghệ  đó đã được phổ  biến rộng rãi,  nhưng xét theo phạm vi toàn xã hội thì đây một hiện tương thường xuyên. Theo   đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là kỳ  vọng của nhà tư  bản và là động lực mạnh   nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất   lao động, làm cho năng suất xã hội tăng lên nhanh chóng. C. Mác gọi giá trị thặng  dư  siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị  thặng dư  tương đối, vì giá trị  thặng dư siêu ngạch và giá trị  thặng dư tương đối đều dựa trên cơ  sở  tăng năng  suất lao động.
  8.       Thực ra, hai phương pháp giá trị  thặng dư  không hề  bị  tách rời nhau, mà chỉ  trong mỗi thời kì khác nhau sự vận động hai phương pháp là nhiều hay ít mà thôi,   trong thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản thì phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối  được sử  dụng nhiều hơn so với phương pháp giá trị  thặng dư  tương đối, còn  trong thời kì sau của chủ nghĩa tư bản thì ngược lại. Trong xã hội hiện đại ngày  nay, việc nhà tư bản kết hợp hai phương pháp sản xất giá trị thặng dư đã tạo rao  ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản, bằng cách tăng cường kĩ thuật và   quản lí để  bóc lột ngày càng nhiều sức lao động làm thuê. Máy móc hiện đại   được áp dụng, các lao động chân  tay bị cắt giảm nhưng nó không đi đôi với giảm   nhẹ  cường độ  lao động của công nhân, mà trái lại do áp dụng máy móc không  đồng bộ nên máy móc chạy với tốc độ  cao, có thể  chạy với tốc độ  liên tục buộc  người công nhân phải chạy theo tốc độ vận hành của máy làm cho cường độ  lao  động tăng lên, năng suất lao động tăng lên, ngoài ra nền nền sản xuất hiện đại  đáp dụng tự động hóa cao cường độ  người lao động công nhân tăng lên với hình  thức mới đó là cương độ  lao động thần kinh thay thế  cho cường độ  lao động cơ  bắp, tạo ra sản phẩm chứa nhiều chất xám có giá trị  lớn. Nên sản xuất tư  bản  chủ nghĩa trong điều kiện hiện đại là sự kết hợp tinh vi của hai phương pháp sản  xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối.       Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối (hay cơ bản) của chủ  nghĩa tư bản: Quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa giản đơn là quy luật giá trị,   còn quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật giá trị thặng dư. Sản  xuất nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực của nền sản xuất tư bản chủ  nghĩa. Để  sản xuất ra giá trị  thặng dư  tối đa cho nhà tư  bản bằng cách tăng số  lượng lao động làm thuê và tăng mức bóc lột là nội dung của quy luật kinh tế cơ  bản của phương thức tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội tư  bản, mối quan hệ  giữa   tư  bản và lao động là mối quan hệ  cơ  bản, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả  các   quan hệ sản xuất của xã hội, giá trị thặng dư phản ánh mối quan hệ cơ bản nhất   đó. Khối lượng giá trị  thặng dư do lao động không công của công nhân làm thuê  sáng tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản, sản xuất ra giá trị thặng dư  là cơ sở tồn tại của chủ nghã tư bản. Quy luật giá trị thặng dư ra đời cùng với sự  ra đời của quan hệ  sản xuất tư  bản chủ  nghĩa, nó tồn tại và phát huy tác dụng   cùng với sự  tồn tại và vận động của nền kinh tế  tư  bản chủ  nghĩa. Nó tạo ra  động lực cho sự vận động của tư bản chủ nghĩa, đồng thừoi cũng đưa tới những  mâu thuẫn quan điểm sự diệt vong của tư bản chủ nghĩa. Do đó, đối với giai cấp 
  9. tư bản hiện đại, việc tìm cách điều chỉnh để thích nghi và tồn tại là rất cần thiết   của phương thức sản xuất này.      Việc nghiên cứu hai đối tượng trên, khi gạt bỏ mục đích và tính chất của chủ  nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương pháp   sản xuất giá trị  thặng dư  tương đối và giá trị  thặng dư  siên ngạch có thể  vận  động trong các doanh nghiệp  ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất  lao động xã hội, sữ dụng ki thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí  sản xuất. Đối với quá trình phát triển kinh tế  quốc dân cua nước ta, việc nghiên  cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương   thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất   phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để  nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải   tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nền  kinh tế quốc dân là giải pháp cơ bản để  tăng năng suất lao động xã hội thúc đẩy  tăng trưởng kinh tế. Phương pháp sản suất ra giá trị thặng dư tuyệt đối được vận   dụng vào công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước ta hiện nay. Là một   nước đi lên xã hội chủ nghĩa chưa và không qua giai đoạn phát triển tư  bản chủ  nghĩa hay đúng hơn là không qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản. Vì vậy,   chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát như  những sáng tạo của người đi trước cho dù chúng chỉ  là những nhân tố  vô cớ.   Điểm xuất phát để  nhận thức tầm quan trọng của học thuyết giá trị  thặng dư  chính là luận điểm sản phẩm của lao động thừa vượt quá những chi phí để duy trì   lao động và việc xây dựng, tích lũy quỹ sản xuất xã hội và dự trữ “ Tất cả những   cái đó và mãi mãi vẫn là cơ  sở  cho mọi tiến bộ  xã hội, veef chính trị  và về  tinh  thần. Nó là điều kiện và là động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa….”         Trong Học thuyết về  giá trị  thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính   chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên của  nền sản xuất tư  bản chủ nghĩa là làm thế  nào để  với một tư  bản  ứng trước tối   thiểu, sản xuất ra một giá trị  thặng dư  hay sản phẩm thặng dư  tối đa; và trong   chừng mực mà kết quả   ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của  những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong  cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi phí ít  nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy cho   loài người biết chi phí sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích  
  10. sản   xuất   với   một   chi   phí   ít   nhất   về   tư   liệu".        Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta thấy rõ   ít   nhất   ba   vấn   đề   lớn   trong   giai   đoạn   phát   triển   hiện   nay   của   đất   nước.       Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào  đó, quan hệ  bóc lột chưa thể  bị  xóa bỏ  ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo  điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng  thấy rõ, chừng nào quan hệ  bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và   thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận  sự   hiện   diện   của   nó.        Hai là, trong thực tế  nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ  cứng về  mức độ  bóc lột trong việc hoạch định các chủ  trương chính sách, cũng  như có thái độ  phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế  và không thể  thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả  hiện nay là quan  hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách  của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể  chế  hóa thành luật và các bộ  luật thì   chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật  làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành  vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn  vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn  minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột  được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải  kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống  thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự  công bằng trong phân phối thông qua Nhà  nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ,  đây là một hướng tiếp cận vấn đề  bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận  thức giáo điều, phi biện chứng về  quan hệ  bóc lột, cũng như  việc vận dụng nó  trong một giai đoạn lịch sử  cụ  thể  của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động  lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.       Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao   động lẫn giới chủ  sử  dụng lao động bằng luật và bằng các chế  tài thật cụ  thể  mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về  lợi ích   trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử  các mâu thuẫn ấy   như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp  
  11. thiết hiện nay, thể  hiện trong bản chất của chế   độ  mới. Bảo vệ  được những   quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên   trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan  hệ  bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ  bản  nhất cho cả  quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế  thị  trường định  hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.       Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã giúp cho chúng  ta thấy rằng. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tạo ra tiềm lục to lớn, đủ  khả năng xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân, và thực hiện   dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập  tổ  quốc. Đó là quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ, đòi hỏi mọi người phỉa có  hoài bão lớn, quyết tâm cao, chấp nhận những khó khan thách thức và hy  sinh cần   thiết để  vĩnh viễn đưa dân tộc ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Đó là điều toàn  thể nhân dân Việt Nam mong đợi và đang cố gắng. Câu 2: Từ nội dung học thuyết giá trị thặng dư hãy trả lời: a. Quan điểm sau đây có đúng không ? Tại sao ? “Chỉ có phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới tạo ra giá trị thặng dư” b. Tại sao có thể  khẳng định:  “Quá trình tích lũy tư  bản cũng chính là quá  trình biến quyền sở  hữu tư  liệu sản xuất của người sản xuất hàng hóa thành  quyền chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất” c. Quan điểm sau có đúng không? Tại sao? Cho thí dụ. “ Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ  hiện đại, áp dụng vào quá trình sản  xuất tư bản chủ nghĩa, đã khắc phục được tình trạng các nhà tư bản bóc lột công  nhân làm thuê”. Bài làm a.       Quan điểm: “Chỉ có phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới tạo ra giá  trị thặng dư”. Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa   tư bản vì theo kinh tế chính trị C. Mác nó quy định bản chất của nền sản xuất tư  bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bản. Không có  
  12. sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản. Theo C.Mác, chế tạo ra   giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của  phương thức sản xuất tư bản chủ  nghĩa.  Ở đâu có sản xuất giá trị  thặng dư thì  ở  đó có chủ  nghĩa tư  bản, ngược   lại,  ở  đâu có chủ  nghĩa tư  bản thì  ở  đó có sản xuất giá trị  thặng dư. Lênin gọi   quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.       Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực   thường xuyên của nền sản xuất tư  bản chủ  nghĩa, là nhân tố  đảm bảo sự  tồn  tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản đồng thời nó làm cho  mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc b.    Có thể khẳng định; “ Quyền sở hữu tư liệu sản xuất của người sản xuất hàng  hóa thành quyền chiếm hữu tư nhân”. Bởi trong sản xuất hàng hóa giản đơn, sự  trao đổi giữa nhưng người sản xuất hàng hóa theo nguyên tắc ngang về giá về cơ  bản không dẫn tới người này chiếm đoạt không công của người kia. Trái lại, nền  sản xuất tư  bản chủ  nghĩa dẫn đến kết quả  là nhà tư  bản chẳng những chiếm   đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn là người sở  hữu hợp pháp lao  động không công đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị. c.       Quan điểm: “ Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ hiện đại, áp dụng  vào quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, đã khắc phục được tình trạng các nhà  tư bản bóc lột công nhân làm thuê”. Đây là quan điểm đúng. Các nhà tư bản luôn  tìm mọi cách để sản xuất ngày càng nhiều giá trị  thặng dư  nên ra sức áp dụng   tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Điền này khiến cho năng suất lao  động này càng tăng, sản phẩm đạt chất lượng cao, không những vậy nó giải  phóng sức lao động của con người.
  13.     Thí dụ: Trong ngành dệt may, trước đây sản xuất thô sơ nên năng suất thấp.  Năm 1764 người thợ máy Giêm Ha ­gri ­vơ sáng chế máy kéo sợi Gien ­ni nâng   cao năng suất gấp 8 lần. Song máy Gien ­ ni cho ra sợi nhỏ nhưng không bền.   Năm 1785 Ét mơn Các ­rai chế tạo thành công máy dệt chạy bằng sức nước, làm  tăng năng suất tới 40 lần so với dệt tay. Ngày nay, con người đã phát minh ra  máy dệt chạy bằng điện tăng năng suất lên gấp nhiều lần. Một công nhân có  thể  cùng lúc điều khiển, quản lý được nhiều máy dệt, công việc trở  nên nhàn  hạ, nhờ  vậy các nhà tư  bản giảm được tiền thuê nhân công, nhưng sản phẩm   lại tăng lên nhiều lần. Tài liệu tham khảo trong bài viết       “Giáo trình Những nguyên lý cơ  bản của chủ  nghĩa Mác – Lenin” nhà xuất  bản chính trị quốc gia.          http://text.123doc.org/document/1138359­phuong­phap­san­xuat­gia­tri­thang­ du­va­su­van­dung­vao­cong­cuoc­cong­nghiep­hoa­hien­dai­hoa­cua­nuoc­ta­ hien­nay.htm https://www.youtube.com/watch?v=c4U6PJBIc9A
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2