intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Cải cách hành chính

Chia sẻ: Quangvinhhsphg Quangvinhhsphg | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

466
lượt xem
103
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cải cách hành chính là những thay đổi được thiết kế có chủ định nhằm cải tiến một cách cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của bộ máy Nhà nước: Lập kế hoạch, định thể chế, tổ chức, công tác cán bộ, tài chính chỉ huy phối hợp; Kiểm tra; thông tin và đánh giá. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này mời các bạn tham khảo "Bài tiểu luận: Cải cách hành chính".

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Cải cách hành chính

  1.   MỤC LỤC STT NỘI DUNG TRANG 1. Mục lục 1 2. LÒI  MỞ ĐÀU 2 3. Phần I. Sự cần thiết  Cải cách hành chính 4 1.Bối cảnh, yêu cầu của việc cải cách hành chính 4 2. Đường lối chủ chương của Đảng  4 3. Mối liên hệ  cải cách hành chính với công cuộc cải  5 cách khác Phần II. THỰC TRẠNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH 7 I. Những nguyên tắc cơ bản và mục tiêu của CCHC 7 1. Những nguyên tắc cơ bản 7 2. Mục tiêu của CCHC 7 II. Nội dung của CCHC 8 8 1. Cải cách hành chính trong giai đoạn đầu 9 2. Chương trình CCHC tổng thể giai đoạn 2001 ­  2010 10 2.1. Nội dung cải cách 10 2.2 Năm giải pháp thực hiện 11 2.3 Bảy chương trình hành động 11 3. Kết quả bước đầu và hạn chế 11 3.1 Cải cách thể chế hành chính 13 3.2 Tổ chức bộ máy hành chính. 15 3.3 Đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ  16 3.4 Cải cách tài chính công 17 3.5 Ứng dụng CNTT vào cải cách hành chính 18  4. Trọng tâm công tác CCHC trong thời gian tới 4. KẾT LUẬN 22 1
  2.   LỜI MỞ ĐẦU T rong thời kỳ hội nhập phát triển kinh tế hiện nay công cuộc cải cách hành  chính là một trong những nhiệm vụ  cấp thiết để  thực hiện mục tiêu xây  dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh, chuyên nghiêp lấy   nhân dân làm gốc.  Hành chính học là khoa học lấy quản lý hành chính làm đối tượng nghiên   cứu chính, nghiên cứu các quy luật quản lý hiệu quả  những công việc xã hội  của các tổ chức hành chính nhà nước. Trong đó thì cải cách hành chính là nhiệm  vụ trong tâm để phát triển kinh tế xã hội. Nghiên cứu đề tài Cải cách hành chính  giúp em sẽ  hiểu thêm về nền hành chính và thực trạng của việc Cải cách hành   chính nước ta hiện nay. Cải cách hành chính là những thay đổi được thiết kế có chủ định nhằm cải  tiến một cách cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của bộ máy Nhà nước:  Lập kế  hoạch, định thể  chế, tổ  chức, công tác cán bộ, tài chính chỉ  huy phối   hợp; Kiểm tra; thông tin và đánh giá. Theo nghĩa rộng thực chất của cải cách hành chính là cải cách bộ máy hành   chính Nhà nước, chức văng và phương  thức quản lý của nền hành chính, chế  độ  công vụ  phân chia quyền lực hành pháp giữa trung  ương và địa phương,   những nguyên tắc chính trọng yếu, và phương thức hoạt động của nền hành   chính phục vụ  tốt nhất đời sống nhân dân và sự  phát triển kinh tế­ xã hội của  đất nước Theo nghĩa hẹp cải cách hành chính là một quá trình thay đổi nhằm nâng   cao hiệu lực và hiệu quả  hành chính, cải tiến tổ  chức, chế độ  và phương pháp  hành chính cũ, xây dựng chế  độ  và phương thức hành chính mới trong lĩnh vực  quẩn lý của bộ máy hành chính Nhà nước. 2
  3.   Căn cứ  vào Nghị  quyết hội nghị  lần thứ VIII của BCH Trung  ương Đảng  Cộng sản Việt Nam, cải cách hành chính  ở  nước ta được hiểu là: “ Trọng tâm  của công cuộc tiếp tục xây dựng và kiện toàn Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt Nam”, bao gồm những thay đổi có chủ  định nhằm hoàn thiện: Thể  chế  của nền hành chính; cơ  cấu tổ chức và cơ  chế  vận hành của bộ  máy hành   chính các cấp; và đội ngũ cán bộ  công chức hành chính để  nâng cao hiệu lực,  năng lực và hiệu quả hoạt động của nền hành chính công phục vụ nhân dân. 3
  4.   Phần II SỰ CẦN THIẾT CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH 1.Bối cảnh, yêu cầu của việc Cải cách hành chính Việt Nam những năm đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất  quan trọng, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách,  ổn định và phát triển kinh tế  ­  xã hội, giữ vững và tăng cường chính trị, đưa đất nước cơ bản ra khỏi tình trạng   khủng hoảng. Theo Ngân hàng Thế  giới (WORLD BANK) thì tăng trưởng hàng  năm (GDP) của nước ta trong giai đoạn đổi mới tăng bình quân 8.2 % (1991 –  1995). Việt Nam đã  phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, mở rộng sự hợp tác  nhiều mặt với các nước, nhất là trong khu vực và các nước công nghiệp phát  triển. Đầu tư  trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ    phát triển chính thức  (ODA)   liên tục tăng cao qua từng năm. Song song với cải cách kinh tế, Việt   Nam đã thực hiện có kết quả  một số đổi mới quan trọng trong hệ  thống chính  trị, tiến hành cải cách một bước nền hành chính quốc gia, tiếp tục xây dựng Nhà   nước XHCN Việt Nam. Quá trình phát triển này có sự  đóng góp không nhỏ  của nền hành chính  quốc gia tuy nhiên đã tỏ  ra còn nhiều mặt non yếu, chưa thích hợp với những  thay đổi nhanh chóng do kinh tế  thị  trường gây ra. Bộ  máy nhà nước còn quá  cồng kềnh , hiệu quả hoạt động chưa cao, nặng về quan liêu, cửa quyền, năng  lực, phẩm chất cả một bộ phận công chức chưa tương xứng với những yêu cầu   đó... 2. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về Cải cách hành chính Quan điểm của Ðảng về  cải cách nền hành chính nhà nước đã được thể  hiện nhất quán trong các văn kiện Ðại hội đại biểu Ðảng toàn quốc lần thứ VI,   VII, VIII, IX và trong các Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương 2 và 8 (khóa  VII), 3 và 7 (khóa VIII), 6 và 9 (khóa IX). Ðó là quá trình tìm tòi sáng tạo, đổi  mới nhận thức liên tục, thống nhất được khởi đầu từ  Ðại hội VI năm 1986 để  4
  5.   hình thành các quan niệm và nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành  chính (CCHC) cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương,   giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn.   Hội nghị  lần thứ  8 tháng 01 năm 1995 của Ban Chấp hành Trung  ương   Đảng đã ra Nghị quyết: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước CH XHCN   Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”. Điều này được cụ thể hoá trong một loạt các văn bản quy phạm pháp luật   của nhà nước như  Nghị Quyết số 38­CP ngày 04 tháng 05 năm 1994 của Chính  phủ; Quyết định số  136/2001/QĐ – TTg ngày  17 tháng 9 năm 2001 của Thủ  tướng Chính phủ  về  việc phê duyệt chương trình CCHC nhà nước giai đoạn  2001­2010. Quyết định số  181/2003/QĐ – TTg ngày 04 tháng 9 năm 2003 của Thủ  tướng Chính phủ  về  việc ban hành Quy chế  thực hiện “một cửa” tại cơ  quan   hành chính nhà nước ở địa phương; ........ 3. Mối liên hệ của cải cách hành chính và công cuộc cải cách khác Cải cách hành chính không có mục đích tự thân mà là nhằm mục đích phục  vụ, thúc đẩy sự  phát triển  ổn định và năng động của toàn xã hội, chủ  yếu là   triển khai thực hiện mục tiêu cơ  bản là: Phát triển nền kinh tế  quốc dân theo  định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cải cách kinh tế là cải cách thể chế kinh tế thực chất của cải cách kinh tế  là cải cách thể chế quản lý kinh tế của Chính phủ. Đây cũng là một trong những   nội dung của cải cách hành chính. Cải cách hành chính là khâu mấu chốt, đảm bảo sự thành công của cải cách  kinh tế  luôn gắn liền với những thành tựu trong cải cách kinh tế, đổi mới hệ  thống chính trị, cải cách pháp luật và tư pháp 5
  6.   Cải cách hành chính trước hết là cải cách thể  chế  của nền hành chính, có  mối liên hệ  mật thiết phụ  thuộc lẫn nhau với cải cách pháp luật và tư  pháp.   Những thay đổi trong cải cách hành chính cần phải được đảm bảo thực hiện  bằng hệ  thống pháp luật và nền tư  pháp, chỉ  có cải cách pháp luật mới tạo cơ  sở pháp lý cho cải cách hành chính thành công Cải cách hành chính cũng chính là thể  chế  hoạt động của Nhà nước nói  chung và trực tiếp là Chính phủ­ một bộ phận cấu thành quan trọng của thể chế  chính trị. Cải cách hành chính là một trong những bước đi góp phần làm đổi mới   hệ  thống chính trị  nhưng vẫn phục tùng, phục vụ  hệ  thống chính trị, và giữ  vững ổn định chính trị. 6
  7.   Phần II THỰC TRẠNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH I. Những nguyên tắc cơ bản và mục tiêu của Cải cách hành chính 1. Những nguyên tắc cơ  bản   Xây dựng nền hành chính dân chủ  xã hội chủ  nghĩa phục vụ  đắc lực cho   nhân dân và giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội theo pháp luật.  Cải cách hành chình nhà nước là bộ phận trọng yếu của việc xây dựng Nhà  nước pháp quyền Việt Nam, gắn với đổi mới và chỉnh đốn đảng. Cải cách hành  chính gắn liền với cải cách cơ quan quyền lực, cơ quan tư pháp. Cải cách hành chính phải phục vụ đắc lực và thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc  đổi mới, phát triển nền kinh tế  hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ  chế thị trường và theo định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại   hoá đất nước. Mọi chủ  trương cải cách nền hành chính nhà nước đều phải xuất phát từ  yêu cầu của cuộc sống, sát với điều kiện thực tế, giữ vững và phát huy truyền   thống dân tộc, đồng thời vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm của nền hành  chính hiện đại thế giới. Cải cách hnàh chính nhằm xây dựng một nền hành chính dựa trên nguyên  tắc tập trung dân chủ, nằm trong tổng thể hệ thống chính trị, trong đó nhân dân  làm chủ thông qua Nhà nước. 2 Mục tiêu của cải cách hành chính Xây dựng một nền hành chính trong sạch vững mạnh, có đủ  năng lực, sử  dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và công  việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ  7
  8.   đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong   xã hội.  “ Một nền hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh, chuyên nghiệp,   hiện đại hoá, hoạt  động có hiệu lực, hiệu quả  theo nguyên tắc của Nhà nước   pháp quyền Xã hội chủ  nghĩa dưới sự  lãnh đạo của Đảng”  và đảm bảo xây   dựng một “đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp  ứng yêu   cầu   của   công   cuộc   xây   dựng,   phát   triển   đất   nước”  (Quyết   định   số  136/2001/QĐ­TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc  ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 ­2010).  II. Nội dung của Cải cách hành chính 1. Cải cách hành chính trong giai đoạn đầu Thành phố Hồ Chí Minh với nhiều điều kiện thuận lợi về chủ quan, khách  quan đã và đang có những lợi thế phát triển so với nhiều địa phương khác trong  cả  nước. Thành phố  là một trung tâm lớn về  kinh tế, khoa học kỹ  thuật, giáo   dục, văn hóa... là đầu mối giao thông cả về đường thủy, đường bộ, đường hàng   không, có vị trí thuận lợi về  giao lưu quốc tế. Trong quá trình phát triển, thành   phố Hồ Chí Minh luôn được sự quan tâm của các cơ quan trung ương và các cấp  lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Từ  năm 1982, Nghị quyết 01 NQ/TƯ của Bộ Chính   trị xác định thành phố Hồ Chí Minh có vị trí quan trọng sau thủ đô Hà Nội.   Mặc dù có sự  quan tâm như  vậy nhưng hình như  tiềm năng, thế  mạnh,   tinh thần năng động, sáng tạo của thành phố vẫn chưa được khai thác tốt nhất?  Nhận ra điều đó, để đưa chủ trương cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước   vào cuộc sống, thành phố  Hồ  Chí Minh là địa phương đầu tiên trong cả  nước   thực hiện thí điểm cải cách hành chính  ở  lĩnh vực thủ  tục hành chính theo mô   hình "một cửa, một dấu", thành phố  Hồ  Chí Minh nhận thức trách nhiệm quan   trọng của mình trong cải cách kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia.  8
  9.   Cơ  chế  "một cửa" được hình thành trong quá trình thực hiện mục tiêu cải  cách thủ  tục hành chính, nhằm thay thế  cho cơ  chế  "nhiều cửa" trong quan hệ  giải quyết thủ tục hành chính giữa các cơ quan công quyền với người dân và các   tổ chức chính trị ­ xã hội ; giữa các cơ quan công quyền với nhau. Mục tiêu của   cơ  chế  "một cửa" là đơn giản hóa các thủ  tục hành chính ; giảm bớt phiền hà,  sách nhiễu của các cơ  quan công quyền cũng như  các cán bộ, công chức được   ủy quyền ; bảo đảm công khai, rõ ràng, thông suốt quy trình giải quyết các thủ  tục hành chính ; tiết kiệm công sức và chi phí, tăng cường sự giám sát của người   dân đối với các cơ quan công quyền, công chức.  Cơ  chế  "một cửa, một dấu" là bước khởi đầu nhằm chấn chỉnh lại hoạt   động quản lý nhà nước trên địa bàn quận, huyện lâu nay đã trở nên cồng kềnh,  nặng nề, kém hiệu quả, đặc biệt là trong lĩnh vực thủ  tục hành chính. Nguyên   tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền cấp quận, huyện sẽ thay đổi  trên cơ  sở  phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và hoạt động sự  nghiệp,   tiến tới cơ  cấu lại tổ  chức bộ  máy của UBND cấp quận, huyện phù hợp với   phương thức hoạt động mới, làm điểm tựa cho những bước cải cách tiếp theo. 2. Chương trình cải cách tổng thể giai đoạn 2001 ­2010 2.1 Nội dung cải cách Cải cách thể chế ­Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền   kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa, thể  chế  về  tổ  chức và hoạt   động của hệ thống hành chính nhà nước.  ­ Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật  ­ Bảo đảm việc tổ  chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ  quan nhà   nước, của cán bộ, công chức.   ­ Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính 9
  10.   Cải cách tổ chức bộ máy hành chính  ­ Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ  quan ngang   bộ, cơ  quan thuộc Chính phủ  và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp  với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.   ­ Từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các bộ, cơ  quan  ngang bộ, cơ  quan thuộc Chính phủ  và chính quyền địa phương đảm nhận để  khắc phục những chống chéo, trùng lắp về  chức năng, nhiệm vụ. Chuyển cho  các tổ  chức xã hội, tổ  chức phi Chính phủ  hoặc doanh nghiệp làm những công  việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp   thực hiện. Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ­ Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức  ­ Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ  ­ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức  ­ Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức  Cải cách tài chính công   ­ Đổi mới cơ chế  phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính   thống nhất của hệ  thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ  đạo của ngân sách  Trung  ương; đồng thời phát huy tính chủ  động, năng động, sáng tạo và trách  nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.  ­ Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân  các cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ  động xử  lý các công  việc  ở  địa phương; quyền quyết định của các bộ, sở, ban, ngành về  phân bổ  ngân sách cho các đơn vị  trực thuộc; quyền chủ  động của các đơn vị  sử  dụng   ngân sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách. 10
  11.   2.2 Năm giải pháp thực hiện ­ Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành.   ­ Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị.    ­ Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ từ Trung ương tới địa phương.     ­ Bố trí đủ nguồn tài chính và nhân lực.     ­ Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền. 2.3 Bảy chương trình hành động ­ Chương trình 1: “Đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất   lượng văn bản quy phạm pháp luật” do Bộ  Tư  pháp và Văn phòng Chính phủ  chủ trì.  ­ Chương trình 2: “Nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ  cấu tổ  chức của các cơ  quan trong hệ  thống hành chính nhà nước” giai đoạn I (2003­ 2005) do Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ chủ trì.   ­ Chương trình 3: “Chương trình tinh giản biên chế” do Bộ Nội vụ chủ trì   ­ Chương trình 4: “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công  chức nhà nước giai đoạn I (2003­2005)” do Bộ Nội vụ chủ trì.  ­ Chương trình 5: “Chương trình cải cách tiền lương” do Bộ  Nội vụ  chủ  trì.  ­ Chương trình 6: “Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan  hành chính, đơn vị sự nghiệp công” do Bộ Tài chính chủ trì.  3. Kết quả bước đầu và hạn chế 3.1 Cải cách thể chế hành chính Cải cách thể  chế  được xác định là một trong những trọng tâm của CCHC   nhà nước và đã đạt được kết quả  tương đối thành công về  xây dựng và điều  11
  12.   chỉnh thể chế quản lý hành chính nhà nước trong điều kiện chuyển sang cơ chế  kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Ðã ban hành  nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, tạo hành lang pháp lý cho sự phát  triển kinh tế ­ xã hội và tổ chức hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành   chính nhà nước các cấp. Trong đó, đã sửa đổi một số  điều của Hiến pháp năm  1992, ban hành mới Luật Doanh nghiệp, Luật Ðầu tư, Luật Thương mại, Luật   Ngân sách nhà nước, Luật Ðất đai (sửa đổi) và một số  luật chuyên ngành khác  để tạo thể chế  kinh tế; đồng thời ban hành Luật Tổ  chức Chính phủ, Luật Tổ  chức HÐND và UBND, và xác lập thể chế vận hành của bộ máy Chính phủ, quy   định lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ  cấu tổ  chức của tất cả  các bộ,   ngành T.Ư để tạo đồng bộ về thể chế hành chí Cải cách thủ tục hành chính được tập trung thực hiện theo hướng đơn giản  hóa, công khai, minh bạch và đã đem lại những kết quả  tích cực. Ðã triển khai  có kết quả  quy định thực hiện  ở  các cấp hành chính cơ  chế  "một cửa" theo   Quyết định 181/2003/QЭTTg nhằm tạo thuận lợi trong giải quyết các công   việc của dân, thay đổi mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, doanh nghiệp,  tổ  chức và các nhà đầu tư  theo hướng phục vụ, tạo sự  liên thông giữa các cơ  quan chức năng trong việc giải quyết các thủ tục hành chính và điều chỉnh chế  độ làm việc, mối quan hệ công tác giữa các cơ quan hành chính nhà nước, được   nhân dân và doanh nghiệp đánh giá cao (tính đến 31­12­2005). 100% cấp tỉnh,  98% cấp huyện và 78% cấp xã đã tổ chức triển khai cơ chế "một cửa". Cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính gắn với việc thực hiện cơ chế   “một cửa” đã được triển khai mạnh trong giai đoạn I và thu được những kết   quả bước đầu tích cực. Đây là một trong những lĩnh vực được Chính phủ, Thủ   tướng Chính phủ  đặc biệt quan tâm chỉ  đạo trong cả  quá trình cải cách. Kết   quả sau 5 năm triển khai cho thấy, thủ tục hành chính trên hầu hết các lĩnh vực   đều đã được rà soát, sửa đổi, ban hành mới theo hướng đơn giản hoá, thuận   tiện cho người dân. Đặc biệt, thủ tục hành chính trên những lĩnh vực bức xúc,  12
  13.   liên quan trực tiếp tới người dân và doanh nghiệp như  đất đai, xây dựng, hộ  tịch, hộ khẩu, đầu tư, đăng ký doanh nghiệp, hải quan, thuế, kho bạc, xuất nhập   khẩu v.v… đã được rà soát nhiều lần, loại bỏ  những thủ  tục hành chính phức   tạp,  gây  phiền  hà,  bước   đầu  tạo  lập  lại  niềm  tin  của  người   dân  và  doanh  nghiệp vào hoạt động phục vụ của các cơ quan công quyền (Trích Báo cáo Tổng   kết việc thực hiện giai đoạn I (2001­2005) Chương trình tổng thể  cải cách hành chính   nhà nước  giai đoạn 2001­2010 và phương hướng, nhiệm vụ  cải cách hành chính giai   đoạn II (2006­2010) của Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính Chính phủ). Về  cơ  bản, qua việc đổi mới cách thức, quy trình giải quyết các thủ  tục   hành chính đã có tác dụng trực tiếp làm giảm bớt phiền hà, chi phí, tiêu cực và   thu được kết quả tích cực, được công dân, doanh nghiệp, dư luận xã hội đồng  tình  ủng hộ. Ðã có bước chuyển biến tích cực trong việc xác lập và tạo một  hành lang pháp lý để  thúc đẩy việc thực hiện xã hội hóa các hoạt động sự  nghiệp dịch vụ  công trong lĩnh vực giáo dục ­ đào tạo, y tế, khoa học ­ công  nghệ, vệ sinh ­ môi trường, văn hóa, thể thao. Qua đó, có tác dụng huy động các   nguồn lực trong xã hội và nâng cao hiệu quả  hoạt động của cả  khu vực sự  nghiệp dịch vụ công lập và ngoài công lập. Năm 2005 là năm thứ  3 liên tiếp, Việt Nam được đánh giá như  một điểm  sáng về nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, là một trong nhóm 10 quốc gia   có tốc độ cải cách nhanh nhất thế giới. Bên cạnh những kết quả và tiến bộ đã đạt được, vấn đề  cải cách thể chế  trong những năm qua vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập. Một số thể chế  cơ  bản còn chậm được xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện. Thủ  tục hành chính cho   dù được cải cách từ  nhiều năm nay, nhưng nhìn chung vẫn phức tạp, phiền hà   cho người dân, doanh nghiệp. Vẫn còn tồn tại khá phổ  biến xu hướng cơ  quan  hành chính giành thuận lợi về  cho mình, đẩy khó khăn về  cho người dân gánh   chịu trong giải quyết công việc của dân, doanh nghiệp.  3.2 Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước 13
  14.   Các cơ  quan trong hệ  thống hành chính nhà nước, từ  Chính phủ, các bộ,   UBND các cấp được điều chỉnh về chức năng phù hợp việc chuyển sang cơ chế  kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hướng cơ bản của sự điều chỉnh là Chính  phủ, các bộ  tập trung vào thực hiện chức năng quản lý nhà nước vĩ mô trong  phạm vi cả  nước đối với mọi lĩnh vực đời sống xã hội; dành nhiều thời gian,  nguồn lực vào việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xây dựng và ban  hành cơ  chế  chính sách; thanh tra, kiểm tra việc tổ  chức thực hiện. Ngày càng   phân định rõ hơn chức năng của Chính phủ, các bộ, ngành T.Ư  và của UBND  mỗi cấp trên địa bàn.   Ðã thực hiện sự  phân công, khắc phục dần sự  chồng chéo chức năng,  nhiệm vụ  giữa các cơ  quan cùng cấp theo nguyên tắc mỗi việc chỉ  do một cơ  quan phụ  trách; làm rõ trách nhiệm của tổ  chức và cá nhân người đứng đầu.   Trên cơ  sở  đó có chuyển đổi cách thức thực hiện chức năng quản lý nhà nước  và điều chỉnh lại phạm vi, đối tượng quản lý giữa các cơ  quan hành chính nhà  nước từ  T.Ư  đến địa phương. Có nhiều tích cực trong việc chỉ  đạo thực hiện  tách quản lý hành chính nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý  hoạt động sự nghiệp dịch vụ công. Qua đó, điều chỉnh lại chức năng của các cơ  quan hành chính nhà nước với việc thực hiện cải cách doanh nghiệp và chuyển   các tổ  chức sự  nghiệp dịch vụ công sang áp dụng cơ  chế  tự  chủ, tự  chịu trách  nhiệm, có hiệu quả cao. Cùng với điều chỉnh chức năng, đã từng bước thực hiện phân cấp quản lý  hành chính giữa T.Ư và địa phương, quy định rõ thẩm quyền cho từng cấp. Trên cơ  sở  định rõ chức năng để  sắp xếp, điều chỉnh, thay đổi cơ  cấu tổ  chức bộ  máy của Chính phủ  theo nguyên tắc tổ  chức bộ  quản lý đa ngành, đa  lĩnh vực trong phạm vi cả nước, nhưng có bước đi phù hợp năng lực, trình độ  lãnh đạo, quản lý của cán bộ, công chức và phương tiện, điều kiện quản lý; đã  bảo đảm yêu cầu thực hiện cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy vừa có sự thay đổi  14
  15.   và tinh gọn đầu mối, vừa tránh xáo trộn không cần thiết để có kế thừa, ổn định,   phát triển và sự phù hợp khách quan tình hình thực tế.  Các bộ, cơ  quan ngang bộ  đã được giảm xuống còn 26 và tiếp tục giảm  xuống còn 22 cơ  quan vào năm 2007. Các cơ  quan thuộc Chính phủ  từ  25 cơ  quan (năm 1994) nay còn 13 cơ quan (năm 2005), giảm 12 cơ  quan và hiện nay  chỉ còn một số cơ quan. Tất cả các bộ được tổ chức lại theo mô hình quản lý đa   ngành, đa lĩnh vực trong những năm CCHC vừa qua đều phát huy được vai trò,   tác dụng tích cực; thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ  quản lý nhà nước  đối với các ngành, lĩnh vực được giao trong phạm vi cả nước, bao quát được các   thành phần kinh tế hoạt động trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà  nước. Trong kiện toàn tổ chức của UBND các cấp, đã giảm bớt đáng kể số lượng   đầu mối các cơ  quan chuyên môn cấp tỉnh và cấp huyện so với trước thời kỳ  thực hiện CCHC. Ở cấp tỉnh, các sở và tương đương đã thu gọn từ gần 30 đầu   mối xuống còn 20 ­ 22 đầu mối; cấp huyện từ 16 ­ 17 đầu mối giảm xuống còn   10 ­ 12 đầu mối. Về cơ bản đã định hình được số cơ quan chuyên môn thuộc cơ  cấu tổ  chức "cứng" và một số  cơ  quan thuộc cơ  cấu tổ  chức "mềm" theo tiêu   chí đặc thù của từng địa phương. Việc cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ đã theo hướng thống  nhất quản lý vĩ mô trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa,  xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong cả  nước bằng hệ  thống pháp  luật, chính sách, quy hoạch, kế  hoạch và các công cụ  quản lý vĩ mô khác một   cách đồng bộ, đã đem lại kết quả, hiệu quả hơn trong điều kiện có nhiều diễn  biến phức tạp, khó khăn, trở ngại mới phát sinh trong nước và quốc tế. 3.3 Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức 20 năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) nước ta có sự phát triển cả  về số lượng và chất lượng. Năm 1986, số lượng CBCC hành chính, sự nghiệp là  15
  16.   1,2 triệu người thì năm 2005 khoảng 1,5 triệu người. Những cải cách vừa qua  tập trung nhiều vào nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cả  về  phẩm chất và  năng lực với kỹ năng hành chính mới, đáp ứng yêu cầu chuyển từ nhà nước "cai  trị" sang nhà nước "phục vụ", đội ngũ CBCC là công bộc của dân; tích cực thay   đổi phương thức quản lý CBCC theo yêu cầu CCHC. Ðã có bước chuyển trong quản lý, sử dụng CBCC với các nội dung cơ bản   là: Với Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003, tiếp tục có sự  phân   biệt rõ hơn đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ  thống chính trị  nước ta: cán bộ  qua bầu cử, công chức hành chính, viên chức sự  nghiệp, cán bộ  giữ  chức vụ  lãnh đạo trong doanh nghiệp nhà nước, cán bộ  chuyên trách và công chức cấp   xã. Hiện nay, Quốc hội đang thảo luận Dự  thảo Luật Cán bộ  công chức và sẽ  sớm được thông qua góp phần tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh hơn nữa trong   tổ chức bộ máy nhà nước. + Xây dựng và áp dụng chức danh, tiêu chuẩn các loại CBCC trong bộ máy   hành chính, các tổ  chức sự  nghiệp. Tiến hành phân cấp quản lý biên chế  hành   chính, biên chế  sự  nghiệp nhà nước và thực hiện cơ  chế  quản lý mới đối với   biên chế sự nghiệp, thực hiện cơ chế hợp đồng đối với biên chế  sự  nghiệp để  tạo quyền tự  chủ  về  nguồn nhân lực và thay đổi cơ  cấu công chức, viên chức  cho các đơn vị sự nghiệp. + Ðổi mới công tác tuyển dụng CBCC chuyển từ  phương thức xét tuyển   sang phương thức thi tuyển, để  lấy người có trình độ  vào làm việc trong cơ  quan quản lý nhà nước, đồng thời chú ý đến các vùng sâu, vùng xa, đối với đội  ngũ cán bộ, giáo viên đã có những vận dụng phù hợp trong tuyển dụng, kết hợp   thi tuyển và xét tuyển. Áp dụng chế độ thi tuyển lãnh đạo như thành phố Đã Nẵng đã làm với một   số chức danh. 16
  17.   +   Ðổi   mới   công   tác   quản   lý   CBCC   và   thực   hiện   việc   đánh   giá   CBCC  thường kỳ  vào cuối năm. Ban hành các chính sách, thể  chế  về  bổ  nhiệm, bổ  nhiệm lại, luân chuyển CBCC. Thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị về  đánh giá, bổ  nhiệm, bổ  nhiệm lại có thời hạn và luân chuyển cán bộ  lãnh đạo  quản lý đã được cụ thể hóa tại Quyết định số 27/2003/QЭTTg của Thủ tướng   Chính phủ để thi hành thống nhất trong cả nước; đã phân cấp thẩm quyền, trách  nhiệm quản lý cán bộ, công chức nhà nước; từng bước tách rõ công chức hành   chính công quyền với viên chức sự nghiệp. ­ Ði đôi với việc sắp xếp tổ chức, thực hiện tinh giản biên chế, tiến hành  rà soát, phân loại CBCC, thay đổi cơ  cấu và nâng cao chất lượng của đội ngũ   CBCC trước yêu cầu nhiệm vụ mới. ­ Thực hiện một số  cải cách về  tiền lương để  tạo động lực cho CBCC  nâng cao hiệu quả  làm việc và phù hợp tăng trưởng kinh tế. So với tháng 12­ 1993, đến nay sau 10 năm mức lương tối thiểu đã được điều chỉnh tăng thêm  141,7%. 3.4 Cải cách tài chính công  Việc cải cách trên lĩnh vực tài chính công được triển khai tích cực nhằm  đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị  sự  nghiệp, từng bước tạo cơ chế tài chính thích hợp đối với mỗi loại cơ  quan,   coi đó như là yếu tố thúc đẩy cải cách thể chế và cải cách tổ chức bộ máy hành   chính.    Phân cấp quản lý tài chính công theo Luật Ngân sách nhà nước định rõ  thẩm quyền về  ngân sách của bốn cấp chính quyền (T.Ư, tỉnh, huyện và xã),  tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện cải cách tài chính công theo yêu cầu mới.  Chính phủ cũng ban hành một loạt các cơ chế tài chính như Quyết định số  192/2001/QĐ­TTg ngày 17 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng về việc mở rộng   thí điểm khoán biên chế  và kinh phí quản lý   đối với cơ  quan hành chính nhà   17
  18.   nước; trong đó, một số cơ chế tài chính tạo bước đột phá trong quản lý các đơn   vị sự  nghiệp có thu, cơ  chế  khoán biên chế  và kinh phí quản lý hành chính cho  các cơ  quan hành chính nhà nước, cơ  chế  đấu thầu, cơ  chế  hợp đồng một số  loại công việc trong cơ quan nhà nước cho khu vực tư nhân thực hiện.  Tác dụng của những cơ chế tài chính có tính cải cách này đã dẫn đến thay  đổi cơ  bản mối quan hệ  giữa cơ  quan quản lý nhà nước đối với đơn vị  sự  nghiệp, từng bước xóa bỏ tình trạng "hành chính hóa" các hoạt động sự nghiệp.  Nhiều bộ, cơ  quan T.Ư  và địa phương tích cực chỉ  đạo, triển khai thực hiện   việc giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu và mở rộng thí  điểm khoán biên chế và kinh phí hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà   nước. Qua việc áp dụng cơ chế khoán này, và kinh phí hoạt động đã có tác dụng  không chỉ về mặt tài chính và giảm áp lực tăng biên chế, mà còn tự tạo ra được  những định mức biên chế hợp lý cho mỗi loại cơ quan. 3.5 Ứng dụng công nghệ thông tin vào Cải cách hành chính Ngoài ra Chính phủ  còn áp dụng Hệ  thống quản lý chất lượng (theo ISO:   9000­2001) bước đầu đã được nghiên cứu ứng dụng trong hoạt động của các cơ  quan hành chính. Tính đến nay đã có khoảng 150 cơ  quan hành chính xây dựng   và triển khai hệ thống này, trong đó có khoảng 30 cơ quan được cấp giấy chứng   nhận đạt tiêu chuẩn. Điều quan trọng qua áp dụng hệ  thống là tạo lập một  phương pháp làm việc khoa học, xác định rõ công việc cần làm, chủ  thể  thực   hiện.(Báo Nhân dân).  Bước đầu hình thành hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ, bao gồm   Trung tâm tích hợp dữ  liệu của các bộ, các tỉnh, mạng cục bộ  (LAN) của mỗi  cơ quan thuộc cơ cấu bên trong của các bộ, các tỉnh, mạng diện rộng liên kết hệ  thống tin học của bộ, tỉnh. Hệ thống thông tin điện tử  đã bắt đầu đưa vào vận   hành các dịch vụ cơ bản như thư điện tử, các phần mềm ứng dụng tin học hoá  18
  19.   quản lý nhà nước. Cổng thông tin điện tử Chính phủ đã được xây dựng và đưa vào hoạt động;  đang tiến hành thử nghiệm tin học hoá quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử  dụng đất, quyền sở hữu nhà ở tại thành phố  Hải Phòng, Đằ  Nẵng; tin học hoá   quy trình cấp giấy phép xây dựng tại Hải Dương, Đà Nẵng, thành phố  Hồ  Chí  Minh; tin học hoá cấp đăng ký kinh doanh tại Thừa Thiên Huế, Hà Tây, Cần   Thơ v.v… Xác định Chính phủ điện tử là nền tảng của công cuộc cải cách. Chính phủ tăng cường làm việc qua môi trường mạng trong năm 2008, tiến  hành họp giao ban định kỳ  thông qua Cổng điện tử, chuyển giao các văn bản  giấy tờ qua mạng thay vì phương pháp truyền thống. Chính phủ  phấn đấu đến  năm 2010, bỏ thói quen dùng công văn, tài liệu giấy. Ngày 20 tháng 02 năm 2008 Cổng Thông tin hành chính phục vụ  24h/24h   thông qua đầu số  điện thoại 19001715 do tổ  chức ActionAid Việt Nam tài trợ  với sự thực hiện của Bộ Nội vụ và Tập đoàn Markcom. Cổng thông tin đã cập   nhật hơn 91 thủ tục hành chính với ba loại tiếng Kinh, Thái, Mông 4. Trọng tâm cải cách hành chính thời gian tới   Tuy đã đạt được những kết quả  quan trọng, nhưng so với yêu cầu của  công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế ­ xã hội và chủ động hội nhập quốc tế thì  CCHC còn chậm, hiệu quả thấp.  CCHC ở nước ta đang được triển khai cùng với một loạt các cuộc cải cách   khác, đó là đổi mới từng bước hệ thống chính trị, cải cách lập pháp, cải cách tư  pháp, cải cách kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, v.v. Nhiều vấn đề vốn   thuộc CCHC nhưng tự  thân CCHC không thể  giải quyết được, mà phải đặt  trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị để xem xét, giải quyết. Chính sự chưa  đồng bộ của CCHC với các cuộc cải cách khác là một trong những nguyên nhân  làm cho CCHC chậm, hiệu quả thấp. 19
  20.   Mặc dù mấy năm gần đây đã có những chuyển biến tích cực trong sự  chỉ  đạo của Chính phủ, nhưng nhìn chung chưa có được sự chỉ đạo kiên quyết, tập   trung của Chính phủ, Thủ  tướng Chính phủ  đối với toàn bộ  quá trình CCHC   trong phạm vi cả nước. Chưa tạo được động lực cho CCHC, trong đó có vấn đề  chế  độ, chính sách cho đội ngũ CBCC. Chế  độ  tiền lương vẫn chưa được cải  cách cơ  bản theo yêu cầu của Nghị  quyết T.Ư 7 khóa VIII, chưa bảo đảm đời  sống của CBCC và gia đình họ. Ðiều này tác động không nhỏ  đến động cơ  và   thái độ làm việc, đến những biểu hiện tiêu cực như không an tâm làm việc, móc   ngoặc, trục lợi, nhũng nhiễu trong một bộ phận CBCC.Z Trên cơ sở  kiên trì thực hiện mục tiêu và nội dung của Chương trình tổng  thể  CCHC nhà  nước  giai đoạn 2001 ­ 2010, trọng điểm các nhiệm vụ  và giải  pháp đẩy mạnh CCHC năm năm tới là: 1. Chính phủ, các bộ, UBND các cấp thực hiện vai trò chức năng quản lý  nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kiên quyết thực hiện   việc chuyển giao mạnh các chức năng, nội dung công việc không thuộc chức   năng của hệ thống hành chính cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ, tổ  chức sự  nghiệp dịch vụ  công, tổ  chức doanh nghiệp, tư  nhân đảm nhiệm ngày  càng nhiều hơn theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa. 2. Ðể  xây dựng và làm cho bộ  máy nhà nước trong sạch, vững mạnh cần   gắn chặt CCHC với chống tham nhũng bằng các biện pháp mạnh mẽ  và quyết   liệt. Tập trung xóa bỏ  căn bản cơ chế "xin ­ cho" đối với các lĩnh vực, các cấp   hành chính để  loại bỏ  tiêu cực, sách nhiễu, tham nhũng sinh ra từ  cơ  chế  này.  Tiếp tục xóa bỏ triệt để hơn "cơ chế chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước"   bằng cách cải cách cả  các cơ  quan hành chính, cơ  quan chủ  quản và cải cách   doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở tách hẳn giữa quản lý hành chính nhà nước   với quản lý sản xuất ­ kinh doanh, tiến hành cổ  phần hóa mạnh doanh nghiệp   nhà nước và công ty hóa doanh nghiệp nhà nước để hoạt động theo Luật Doanh  nghiệp. Ðây là giải pháp căn bản nhất để  loại bỏ  cơ  chế  chủ  quản và cơ  quan  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2