intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận và xác định mối quan hệ giữa bản thân với gia đình, nhà trường, xã hội

Chia sẻ: Kim Nguyen | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:10

2.412
lượt xem
96
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để tìm hiểu một cách rõ ràng hơn về mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất cũng như áp dụng vào cuộc sống, mời các bạn cùng tham khảo nội dung đề tài "Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận và xác định mối quan hệ giữa bản thân với gia đình, nhà trường, xã hội". Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận và xác định mối quan hệ giữa bản thân với gia đình, nhà trường, xã hội

  1. Mục lục Lời mở đầu Nội dung • I. Các khái niệm • II. Mối quan hệ biện chứng • III. Ý nghĩa phương pháp luận • IV. Liên hệ giữa bản thân với gia đình, nhà trường, xã hội Kết luận. Tài liệu tham khảo: • Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác ­ Lê nin, Bộ giáo dục và  Đào tạo, nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2014 • Wikipedia “Cái chung và cái riêng” •   LỜI MỞ ĐẦU Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của tri thức, đòi hỏi mỗi con người phải  được đào tạo trình độ học vấn, năng lực; tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý  thức lao động, ý thức cộng đồng, bảo vệ tài nguyên, môi trường… để đáp ứng yêu cầu  của sự  biến đổi khoa hoc công nghệ  cũng như  sự  biến đổi ngày càng nhanh của xã  hội. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước  ta với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiện nay,  con người và nguồn nhân lực được coi là yếu tố  quan trọng hàng đầu, quyết định sự  phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Chúng ta phải khẳng định rằng  con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế  xã hội. Đồng thời   những con người ấy phải có tri thức, có đạo đức.
  2. Đặt mỗi cá nhân vào mối quan hệ  giữa gia đình, nhà trường và xã hội ta lại   càng thấy tầm quan trọng giữa mối liên hệ  chung – riêng. Theo quan điểm triết học   Mác – Lê nin: “Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian nhất   định và khi nó mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái không lặp lại.Cái   chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất đi thì những cái chung  tồn tại ở cái riêng ấy sẽ không mất đi, mà nó vẫn còn tồn tại ở nhiều cái riêng khác.” Để  tìm hiểu một cách rõ ràng hơn về  mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng,  cái chung và cái đơn nhất cũng như áp dụng vào cuộc sống nhóm 7 chúng em chon đề  tài “ Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Từ đó rút ra ý nghĩa   phương pháp luận và xác định mối quan hệ giữa bản thân với gia đình, nhà trường, xã  hội.”   NỘI DUNG I. Các khái niệm. Thế  giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các sự  vật,   hiện tượng rất khác nhau về  màu sắc, trạng thái, tính chất, hình dáng, kích thước,…   nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc điểm, thuộc tính chung  giống nhau. + Cái riêng là phạm trù triết học dung dể chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá   trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Ví dụ: ngôi nhà, cái bàn, hiện tượng ô nhiễm môi trường, quá trình nghiên cứu  thị trường của một công ti. Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong các cấu trúc sự vật   khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một   phạm trù triết học dung để  chỉ  những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ  tồn tại  ở  một kết cấu vật chất nhất định và không lặp lại  ở  kết cấu vật chất khác. Tính cách  của một người, vân tay, nền văn hóa của một dân tộc,… là những cái đơn nhất. Như  vậy, cái đơn nhất không phải là một sự  vật, một hiện tượng đơn lẻ  mà nó tồn tại   trong cái riêng. Nó chỉ là đặc trưng của cái riêng. + Cái chung là phạm trù triết học dùng để  chỉ  những thuộc tính chung không  những có  ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật,  hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Ví dụ :  Cái chung của người Việt Nam là có một lòng lồng nàn yêu nước, tinh   thần đoàn kết dân tộc, sẵn sàng hi sinh tất cả  để  bảo vệ nền độc lập của nước nhà.  Cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của công nhân làm thuê.
  3. + Cái đơn nhất là một phạm trù triết học chỉ  những mặt, những thuộc tính…  chỉ có ở một sự vật mà không lặp lại ở sự vật khác. Ví dụ: Đều là cây nhưng sao mỗi loại cây lại có những đặc điểm khác nhau.  Chẳng hạn đều là hoa hồng nhưng tại sao hồng nhung lại có mùi hương quyến rũ, hoa  hồng vàng lại nhẹ  nhàng, hồng xanh kiêu sa. Đó chính là đặc điểm riêng – “cái đơn   nhất” của nó. *) Phân biệt giữa cái chung bản chất và cái chung không bản chất: + Cái chung không bản chất  là cái chung thường do sự ngẫu hợp mà có. Chẳng hạn cái chung bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật là   vật chất luôn vận động. Như  vậy, tính lặp lại là đặc trưng của của cái chung. Tính  chất này cho thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình vật  chất khác nhau. Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ qua lại, gắn liền với   nhau. Ví dụ :  Cuộc cách mạng là cái chung, đó là sự thay đổi từ cái này sang cái khác   tiến bộ  hơn. Nhưng trong các cuộc cách mạng thì có nhiều loại (cách mạng tư  sản,   cách mạng dân tộc dân chủ),đó là những cái riêng. + Còn cái chung bản chất lại là cái chung giống nhau của rất nhiều sự vật hiện   tượng mang tính cơ bản là đặc trưng để nhận dạng một sự vật hiện tượng nào đó. Ví dụ: Cái chung của các loại cây là quá trình quang hợp, hô hấp, trao đổi chất   với môi trường xung quanh. Nếu một cái cây nào mà không có những đặc điểm đấy   sao con gọi là cây nữa. Hay như   ở  con người cái chung bản chất chính là tình cảm,  mối quan hệ với gia đình, xã hội. II. Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng : Những nhà nghiên cứu triết học Mác­Lenin đề  cập đến có hai quan điểm trái  ngược nhau về mối quan hệ giữa "cái riêng" và "cái chung", đó là phái duy thực và phát   duy danh. Triết học Mác­Lenin cho rằng, cả quan niệm của phái duy thực và phái duy  danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng,   phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối liên  hệ khăng khít giữa chúng. Phái duy thực Phái duy thực là trường phái triết học có ý kiến về  mối quan hệ  giữa "cái  chung" và "cái riêng", theo phái này thì "cái riêng" chỉ  tồn tại tạm thời, thoáng qua,  không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ  có "cái chung" mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự  độc lập với ý thức của con người. "Cái chung" không phụ  thuộc vào "cái riêng", mà   còn sinh ra "cái riêng". Cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những  cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do cái chung sinh ra. Ví dụ: Con người là một khái niệm chung và chỉ  có khái niệm con người mới   tồn tại mãi mãi, còn những con người cụ  thể  là khái niệm tạm thời vì những con 
  4. người cụ thể (cá nhân) này có thể mất đi (chết đi) Phái duy danh Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung là những   tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan  điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm. Những khái niệm  cụ  thể  đôi khi không có ý nghĩa gì trong cuộc sống của con người, chỉ  là những từ  trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm hiểu. Ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật   và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu   tranh giữa các quan điểm triết học nữa. Ví dụ: Không thể  nhận thấy, nắm bắt một "con người" chung chung mà "con   người" chỉ  có thể  được nhận thấy, nắm bắt qua những con người thực thể  cụ  thể,   thông qua các cá nhân cụ thể. Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa và  con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học. Cả hai quan điểm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã   tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ  nhận cái chung hoặc   ngược lại. Họ không thấy được sự tồn tại khách quan và mối liên hệ  khăng khít giữa   chúng.  Phép biện chứng duy vật  của Triết học Marx­Lenin cho rằng cái riêng, cái  chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ  hữu cơ  với   nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình   riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để chỉ những mặt, những thuộc  tính chung không những có  ở  một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại   trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng: “Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ  tồn tại  trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái chung. Bất cứ  cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của cái riêng.   Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất   cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung” _Lê­nin_ Cụ thể là: Thứ  nhất, cái chung chỉ  tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu  hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái  riêng.  Chẳng hạn, không có sinh viên nói chung nào tồn tại bên cạnh sinh viên ngành  kinh tế đầu tư, sinh viên ngành kinh tế phát triển… nào cũng phải đến trường học tập,   nghiên cứu, thi cử theo nội quy nhà trường. Những đặc tính chung này lặp lại ở những  
  5. sinh viên riêng lẻ và được phản ánh trong khái niệm “sinh viên”.  Hay như  quy luật bóc lột giá trị  thặng dư  của nhà tư  bản là một cái chung,   không thế  thì không phải là nhà tư  bản, nhưng quy luật đó được thể  hiện ra ngoài  dưới những biểu hiện của các nhà tư  bản (cái riêng). Rõ ràng, cái chung tồn tại thực  sự nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng để biểu thị  sự tồn  tại của mình. Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có   cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.   Ví dụ, mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể  tồn tại   ngoài mối liên hệ  với xã hội và tự  nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự  tác động  của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con  người.  Một ví dụ  khác, nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc với tất cả những đặc   điểm phong phú của nó là một cái riêng. Nhưng nền kinh tế nào cũng bị  chi phối bởi  quy luật cung cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển của lực   lượng sản xuất, đó là cái chung. Như  vậy, sự  vật hiện tượng nào cũng bao hàm cái   chung. Thứ  ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ  phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngoài những   đặc điểm chung, cái riêng còn có đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng, vì cái  chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại nhiều   cái riêng cùng loại.  Do vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng  tồn tại và phát triển cảu cái riêng. Cái riêng là sự  kết hợp giữa cái chung và cái đơn   nhất. Cái chung chỉ  giữ  phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự  vật, còn cái  riêng là cái toàn bộ  vì nó là tập thể  sống động, trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng   thời cả cái chung và cái đơn nhất.  Nhờ thế, giữa những cái riêng luôn có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua lại  lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, sự “va chạm” giữa những cái riêng vừa làm cho những  sự  vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự  vật tách xa bởi cái đơn nhất.  Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện…  Ví dụ, người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các  nước trên thế  giới là có tư  hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống  ở  nông thôn… Còn  đặc điểm riêng là chịu  ảnh hưởng của văn hóa làng xã, của các tập quán lâu đời của  dân tộc, của điều kiện tự  nhiên, của đất nước, nên rất cần cù lao động, có khả  năng   chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống. Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể  chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình   phát triển của sự  vật. Sở  dĩ như  vậy vì trong hiện thực cái mới không bao giờ  xuất   hiện đầy đủ  ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về  sau theo quy  luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ trở thành cái chung, cái phổ biến.
  6.  Ngược lại, cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ  biến nhưng về  sau do không  phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở  thành cái đơn nhất. Như  vậy sự  chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện cái mới ra đời thay thế cái cũ.   Đồng thời sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái   cũ, cái lỗi thời bị phủ định, bị thay thế bằng cái mới.  Ví dụ, sự  thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự  thay đổi của   môi trường diễn ra bằng cách ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể riêng biệt.  Do phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì  ở  nhiều thế  hệ  và  trở  thành phổ  biến của nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện   mới sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương đối.  Có những đặc điểm xét trong nhóm sự  vật này là cái đơn nhất nhưng xét trong nhóm   sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ: quy luật cung cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường nhưng trong  toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó chỉ là cái đơn nhất, đặc trưng cho nền   kinh tế thị trường, nhưng trong toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử, nó chỉ là cái   đơn nhất, đặc trưng cho nền kinh tế thị trường mà không thể  là đặc điểm chung cho   mọi hình thức khác như kinh tế tự cung tự cấp. Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong những điều kiện nhất   định, cái đơn nhất có thể  biến thành cái chung và ngược lại, cái chung có thể  biến   thành cái đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn có thể  và cần phải tạo điều kiện  thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và cái chung bất lợi   trở thành cái đơn nhất. Nói chung việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng không hề  đơn giản, Lênin đã cho rằng: “Con người bị  rối lên chính là  ở  trong phép biện chứng của cái riêng và cái  chung” _ Lê­nin _ III. Ý nghĩa phương pháp luận. Từ  việc phát hiện mối quan hệ  biện chứng giữa cái chung và cái riêng, Triết   học Mác­Lênin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan hệ này để ứng   dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là: • Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật,   hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người   bên ngoài cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để  biểu thị sự tồn tại của mình.
  7. • Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức phải   nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để  cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những  nguyên  lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt   động một cách mò mẫm, mù quáng. • Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định "cái đơn   nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến thành   "cái đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện  thuận lợi để  "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái chung" và "cái  chung" bất lợi trở thành "cái đơn nhất". Trong Bút ký Triết học, Lênin viết: “Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết vấn đề chung,  thì kẻ  đó, trên mỗi bước đi, sẽ  không sao tránh khỏi những vấp váp những vấn đề  chung một cách không tự  giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề  đó trong từng   trường hợp riêng có nghĩa là đưa ra những chính sách của mình đến chỗ  có những sự  giao động tồi tệ nhất và mất đi hẵn tính nguyên tắc.” IV. Mối quan hệ giữa bản thân với gia đình, nhà trường và xã hội *) Quan hệ giữa bản thân và gia đình. Trong bất kỳ một mối quan hệ nào cũng đều chứa đựng những nét chung và nét   riêng biệt vậy nên trước tiên em đi xét về mối quan hệ giữa bản thân và gia đình: Gia đình là tổ ấm là nơi chở che là bến bờ vững chắc cho mỗi cá nhân, mỗi con  người. Ngoài ra, nơi đây  còn là một tổ hợp của các chỉnh thể  có các mối liên hệ  với   nhau như  vợ­chồng, cha mẹ­con, cháu –ông,bà... họ sống hạnh phúc, đầm ấm và chan  hòa.Ở đó  tình thương được tồn tại, được vun đắp và gieo trồng trong mỗi con người.   Còn bản thân  là một cái  riêng mang những đặc tính riêng biệt về tính cách, học vấn,  nhận thức, cách giao tiếp,....   cái riêng này tạo nên sự  khác biệt cho mỗi thành viên   trong gia đình. Cụ thể hóa một chút ta thấy  mỗi con người sinh ra đểu có họ  tên, ngày tháng   năm sinh, có các  đặc điểm nhận dạng dấu vân tay,vân tai... đặc điểm di truyền như  ADN, tính cách: nhu mì, hiền lành... tất cả  những đăc điểm đó tạo nên sự  khác biệt   giữa các thành viên với nhau cũng như  giữa những con ngưới với con người trong một   xã hội. Còn đối với gia đình, khi ta nhắc đến 2 từ đó thôi thì ta cũng có thể hình dung   ra được những đặc điểm chung nhất   để  tạo nên một gia đình đó là mỗi thành viên   trong gia đình đó có mối liên hệ  với nhau về mặt huyết thống hay có mối liên hệ  vể  mặt luật pháp: ông, bà, cha,me, con ,anh chị em... Tất cả  họ cùng sống trong một mái  nhà   cùng   lao   động,   cùng   sinh   hoạt,   cùng   xây   đắp   nên   một   gia   đình   hoàn   chỉnh  hơn. Và gia đình là nơi dưỡng dục về  thể  chất, tinh thần, hình thành nhân cách cho   mỗi con người trong xã hội. 
  8. Từ  trường học đầu tiên này, mỗi cá nhân được những người thầy thân yêu là   cha mẹ, ông bà giáo dục kiến thức, kỹ năng sống để  có thể  thích ứng, hòa nhập vào  đời sống cộng đồng như cách ứng xử giữa các thành viên gia đình (cha mẹ thương yêu   chân thành, tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông bà vừa yêu quý, vừa nghiêm khắc và  bao dung với con cháu), giữa gia đình với họ  hàng, với láng giềng, với cộng đồng   (trọng nhân nghĩa, làm điều thiện, sống chan hòa, ghét thói gian tham, điều giả  dối),  qua đó giúp con cháu tiếp thu một cách tự  nhiên, nhẹ  nhàng những bài học cuộc đời  nhưng lại tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách.  Trong gia đình, người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan, truyền   lại cho con cháu vốn sống, cách  ứng xử  đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu kính, vâng lời  cha mẹ, vợ  chồng quan tâm chia sẻ  vui buồn cực nhọc với nhau…Ở  đó, mỗi người  cảm nhận được sự  gần gũi, thân thương: từ  khoảng sân, mái nhà, chiếc giường, …  đến những quan hệ họ hàng thân thiết. Từ đó khi đi phân tích mối quan hệ giữa bản thân với gia đình ta nên nghĩ ngay   đến sự   tác động qua lại giữa chúng. Bản thân  là một cái riêng, chứa những cái riêng  góp phần vào cái chung­ “gia đình” để tạo nên cái riêng biệt cho cái chung đó. Và cũng   từ những cái chung căn bản đó chúng ta gần gũi, gắn kết, có tinh thần trách nhiệm hơn   đối với gia đình tuy nhiên không hề đánh mất đi cái riêng, sở trường của bản thân bởi   chính mái ấm đó đã tạo điều kiện cho cái riêng phát triển mạnh mẽ hơn, do được   đáp  ứng chăm sóc  đầy đủ các nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần.  *) Quan hệ giữa bản thân với nhà trường. Đối với triết học Mác –Lênin, mối quan hệ  giữa mối chúng ta­ sinh viên với  nhà trường là một mối quan hệ gắn bó mật thiết, liên hệ với nhau. Xét trong nền gíao   dục nước nhà, nhà trường là một cái riêng. Mỗi nhà trường đều có chung những đặc   điểm  như đều có tên trường, có đội ngũ giáo viên, học sinh, sinh viên, có thiết bị dụng   cụ  phục vụ học tập, có nội quy, quy định của nhà trường… đó chính là cái chung mà  mỗi nhà trường đều có. Tên cụ  thể  mỗi trường, mỗi sinh viên, học sinh hay mỗi   phương pháp dạy học riêng của trường… là các cái đơn nhất, là đặc trưng của một  trường mà không trường nào có cả. Cái đơn nhất của mỗi trường tạo nên cái riêng  biệt, đặ  trưng của trưng của trường đó, đặc điểm để  phân biệt giữa các trường với   nhau.  Nhà trường và mỗi bản thân chúng ta đều tồn tại một cách khách quan, trong đó  sinh viên tồn tại trong nhà trường, thể hiện năng lực nhận thức của bản thân qua các   phương pháp học tập khác nhau. Ta có thể  thấy được nhà trường là cái toàn bộ, còn  giáo viên, sinh viên,..là một bộ  phận  khẳng định và thể  hiện nhà trường, nó sâu sắc  bản chất hơn nhà trường. Trong nhà trường mỗi sinh viên là một cái riêng, mỗi sinh  viên lại có một phương pháp học tập khác nhau tạo nên cái đơn nhất cho nhà trường .  nhưng khi phương pháp học tập đó có hiệu quả  cao và được chia sẻ  rộng rãi cho  nhiều người, điều đó sẽ tạo nên cái chung giữa các sinh viên. Từ  đó ta thấy được cái   đơn nhất đã chuyển hóa thành cái chung trong điều kiện nhất định  Áp dụng cái chung­ cái riêng của triết học Mác­ Leenin vào phương pháp quản   lí sinh viên, học sinh của mỗi nhà trường: Mỗi nhà trường đều chọn cho mình những 
  9. giáo viên, học sinh, sinh viên ưu tú, đủ điều kiện mà nhà trường đặt ra, có năng lực và  khả  năng tạo được nét riêng cho nhà trường. Trong quá trình dạy và học, mỗi giáo  viên, mỗi sinh viên phải chọn cho mình phương pháp dạy và học tối ưu hiệu quả nhất  để có thể phát huy hết tiềm năng của bản thân mình. Khi phương pháp đó là hữu ích,   nó được chia sẻ, áp dụng rộng rãi cho tất cả mọi người, từ đó giúp cho mọi người đi   đúng hướng việc học tập trở nên dễ dàng và đạt hiệu quả cao hơn. Qua quá trình học  tập một bộ phận học sinh, sinh viên chưa đạt kết quả cao, không đủ điều kiện để  dự  thi thì phải được đào tạo lại, đến khi đủ điều kiện và đạt được kết quả tốt hơn. Mặt   khác một bộ phận học sinh, sinh viên có phương pháp học tập tốt hơn đạt kết quả cao   trong học tập và được nhà trường khen thưởng qua các mức khác nhau như: xuất sắc,   tiên tiến…hay xếp loại: giỏi, khá, trung bình, yếu… Về các hoạt động cho sinh viên, nhà trường luôn vận động, khuyến khích sinh   viên tham gia các hoạt động tình nguyện, vui chơi lành mạnh và hạn chế  những hoạt  động vô bổ, không làh mạnh diễn ra trong nhà trường, đồng thời đặt ra những quy  định yêu cầu học sinh, sinh viên, cán bộ giáo viên phải tuân theo. Xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu những chủ nhân tương lai của đất nước­  mỗi sinh viên phải không ngừng ngày càng nâng cao trình độ, kiến thức của mình,  hoàn thiện bản thân. Mỗi sinh viên cần năng động, sáng tạo, không ngừng tìm tòi  nghiên cứu để tìm ra, nghiên cứu ra những cái hay cái mới có ích cho bản thân, cho xã   hội và cho đất nước. Không chỉ vậy nhà trường cũng phải tạo điều kiện tốt nhất cho  sinh viên học tập đạt kết quả tốt nhất, phải không ngừng thay đổi cái lỗi thời, lạc hậu   bằng cái mới, hiện đại hơn, tiên tiến hơn nhằm tạo ra một thế hệ tương lai tốt nhất   cho đất nước. *) Mối quan hệ giữa bản thân với xã hội. Xét về  mối quan hệ giữa bản thân với xã hội, ta thấy cái riêng là cá nhân, cái   chung là xã hội. Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân là một chỉnh   thể  đơn nhất gồm một hệ  thống những  đặc điểm cụ  thể  không lặp lại, khác với  những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ… Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành, những cá nhân này sống và hoạt  động trong nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện lịch sử quy định.  Trong quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân biểu hiện   ra với tư cách như sau: • Cá nhân là phương thức tồn tại của loài “người”. Không có con người  nói chung, loài người tồn tại độc lập. • Cá nhân là cá thể  riêng rẽ, là phần tử  tạo thành cộng đồng xã hội, là   một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách. • Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó với nhau, chuyển hóa  lẫn nhau giữa cái chung và cái riêng. Mác cho rằng: “Chỉ  có trong tập thể  mới có   những phương tiện làm cho mỗi cá nhân có khả năng phát triển toàn diện những năng  
  10. khiếu của mình… chỉ có trong tập thể mới có tự do cá nhân.” Mỗi cá nhân trong một tập thể phải biết phát huy điểm mạnh của mình, biến  cái đơn nhất có lợi thành cái chung, biến cái chung bất lợi thành cái đơn nhất. Khi làm   bất cứ  một vấn đề  gì cũng phải xem xét giải quyết vấn đề  sao cho hợp lý nhất. Có   như thế thì con đường đến thành công của bạn sẽ ngắn đi rất nhiều đấy. V. KẾT LUẬN  Cái riêng là phạm trù triết học dùng để  chỉ  một sự  vật, một hiện tượng, một   quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Cái chung là một phạm trù triết   học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp   lại ở nhiều cái riêng. Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại.  Giữa cái riêng và cái chung luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Cái chung   tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn tại của mình; còn cái   riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung. Với vai trò là một cái riêng, mỗi một  cá nhân hãy biết hòa mình với cộng đồng, cống hiến hết mình cho gia đình, nhà trường   và xã hội. Áp dụng một cách nhuần nhuyễn, hợp lý triết học vào cuộc sống, công việc   để mang lại một hiệu quả tốt nhất. Tất cả là bởi vì: “Học phải đi đôi với hành, giáo   dục phải gắn liền với thực tiễn.” 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2