
Bài tiểu luận: Quá trình lưu thông của vàng
lượt xem 92
download

Vàng được lựa chọn bởi sự tinh khiết, không bị biến đổi theo thời gian, dễ dàng phân biệt, thẩm định nhờ màu đặc trưng, độ dẻo, âm thanh khi va chạm, khối lượng riêng lớn; vàng là một
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài tiểu luận: Quá trình lưu thông của vàng
- Vàng được lựa chọn bởi sự tinh khiết, không bị biến đổi theo thời gian, dễ dàng phân biệt, thẩm định nhờ màu đặc trưng, độ dẻo, âm thanh khi va chạm, khối lượng riêng lớn; vàng là một vật phẩm mà các nhà buôn lựa chọn làm thước đo giá trị - nó đã được chọn từ xa xưa là một dạng tiền và vật cất trữ của cải. Đã có rất nhiều vật phẩm được sử dụng làm tiền, bao gồm cả những thứ tưởng như không thể như vỏ ốc, lá cây thuốc lá. Những thuộc tính cần phải có để một dạng vật chất trở thành dạng cơ bản của tiền là Dễ phân biệt • Bền vững • Ổn định vể lượng sẵn có • Giá trị nội tại không bị biến động. • Vàng đáp ứng tất cả các yêu cầu trên và có thể nói rằng nó là dạng vật chất duy nhất trên thế giới đáp ứng được. Lượng vàng mà con người có được không thay đổi đột biến trong nhiều thế kỷ; lượng vàng bổ sung nhờ khai mỏ là nhỏ và dự tính được. Phần lớn vàng được tàng cất trong kho, quỹ, két ở dạng “chức năng” của nó là vật lưu trữ giá trị. Nhu cầu vàng cho mục đích khác chỉ là trang sức, răng giả và đồ điện tử mà thôi. Việc sử dụng vàng làm đồ trang sức và các vật trang trí khác có thể coi là cùng chức năng lưu trữ giá trị bởi thuộc tính thẩm mĩ của nó. Hai ứng dụng còn lại chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với lượng vàng được tàng trữ dưới dạng thỏi, nén; bên cạnh đó, nhu cầu vàng trong lĩnh vực nha khoa đang giảm xuống nhờ việc sử dụng các vật liệu trông giống răng thật. Ngoài vàng ra, bất kỳ vật phẩm nào khác đều có thể biến đổi giá trị khi cung và cầu thay đổi. Quá trình đi đến chọn vàng làm tiền, trong các xã hội, khác nhau theo thời gian và địa điểm. Tuy vậy các nhà sử học tin rằng, giá trị cao của vàng nhờ đẹp, tinh khiết, không bị ăn mòn, luôn ổn định, và dễ nhận ra đã đưa nó trở thành vật bảo toàn giá trị và thước đo giá trị của các dạng hàng hóa, vật chất khác. Ở thành Babylon cổ đại, giạ lúa mì (36 lít) đã được sử dụng làm đơn vị tính toán với khối lượng vàng tương ứng được sử dụng làm vật mang giá trị. Những hệ thống tiền tệ cổ xưa dựa trên lương thực sử dụng vàng để biểu hiện giá trị. Nghiệp vụ ngân hàng (banking) bắt đầu xuất hiện khi vàng ký gửi tại ngân hàng có thể được chuyển từ một tài khoản sang tài khoản khác trực tiếp hoặc cho vay lấy lãi suất. Khối lượng riêng lớn của vàng (19,3 g/cm³) có nghĩa là những thủ đoạn pha vàng với các kim loại khác để có thêm khối lượng đều bị dễ dàng phát hiện (câu chuyện “Eureka” nổi tiếng của nhà bác học Ác-si-mét). Có một số kim loại nặng hơn vàng. Trong số các kim loại tương đối phổ biến thì chỉ có osmium (22,6 g/cm³), iridium (22,4 g/cm³), bạch kim (21,45 g/cm³), volfram (19,35 g/cm³) là nặng hơn vàng. Thế nhưng chúng đều đắt hơn vàng còn volfram thì giá gần bằng vàng. Hợp kim của vàng và volfram thì khó chế tạo và không hiệu quả.
- Khi được sử dụng thay mặt vàng trong hệ thống tiền tệ, chức năng của tiền giấy là nhằm giảm nguy hiểm có thể xảy ra khi vận chuyển vàng, giảm khả năng làm xấu những đồng xu vàng và tránh việc rút dần phương tiện thanh toán ra khỏi lưu thông như đầu cơ hay hao mòn. Sự xuất hiện tiền giấy ban đầu chỉ thuần túy bởi sự thiếu tin cậy khi vận chuyển vàng, đặc biệt là những rủi ro trên những hành trình dài; bên cạnh đó còn bởi các nước muốn sự giao thương phải đặt dưới sự kiểm soát của họ. Tiền tệ được đảm bảo bằng kim loại quý đôi khi được gọi là tiền biểu hiện. Và giấy bạc được phát hành theo cách này gọi là chứng chỉ tiền tệ, một cách gọi để phân biệt nó với các dạng khác của tiền giấy. Trên thực tế, trong phần lớn lịch sử xã hội loài người, bạc mới là phương tiện lưu thông chủ yếu và là kim loại quan trọng đóng vai trò tiền tệ. Vàng được sử dụng là vật mang giá trị cao nhất, và là phương tiện thanh toán chỉ khi cần phải gọn nhẹ như việc thanh toán cho quân đội. Trong một số thời điểm, vàng thay thế bạc trong vai trò đơn vị cơ sở cho thương mại quốc tế, đó là thời kỳ hoàng kim của đạo Hồi (năm 662 đến 1258), thời kỳ đỉnh cao của các thành quốc buôn bán Italia trong thời Phục hưng, và đáng kể nhất là trong thế kỷ 19. Vàng duy trì vai trò là kim loại của kế toán lưu trữ tiền tệ cho đến khi hệ thống tiền tệ Bretton Woods sụp đổ năm 1971. Cho đến nay, nó vẫn là đối tượng dự trữ quan trọng ở các ngân hàng trung ương và chính phủ, là phương tiện duy trì khả năng thanh khoản và thực hiện chức năng bảo toàn giá trị. Tổng lượng vàng mà con người đã khai thác cho đến nay thật ít một cách kinh ngạc – khoảng 125 ngàn tấn. Nếu toàn bộ số vàng đó được xếp ở một chỗ thì chỉ một nhà thi đấu bóng rổ đủ chứa toàn bộ (cao 9 m, rộng 18 m, dài 36 m). Giá vàng hiện nay khoảng US$640 một ounce tức là khoảng 20.000 đôla Mỹ một kg, giá trị toàn bộ dự trữ vàng của thế giới là chừng 2,5 nghìn tỷ đôla Mỹ. Con số này còn ít hơn lượng tiền mặt lưu thông tại Mỹ. Do đó, nếu người ta muốn quay lại bản vị vàng thì hoặc là vàng phải lên giá rất nhiều (vài chục đến vài trăm lần) hoặc chỉ đảm bảo một phần nhỏ giá trị tổng số tiền mặt lưu hành. Vàng với vai trò dự trữ ngày nay Trong thập niện 1990, nước Nga bán hết phần lớn lượng dự trữ vàng từ thời Liên Xô, trong khi đó, một số quốc gia khác tích trữ vàng để chuẩn bị cho Liên minh tiền tệ và Kinh tế Châu Âu. Chỉ còn đồng Franc của Thụy Sĩ là đồng tiền chuyển đổi ra vàng. Tuy nhiên, dự trữ vàng với lượng đáng kể tại nhiều nước là một công cụ bảo vệ đồng tiền của họ và tránh ràng buộc vào đồng đôla Mỹ, thực tế này hình thành lượng dự trữ khổng lồ tiền thanh khoản cao. Đồng đôla yếu có xu hướng được bù lại bởi giá vàng mạnh lên. Vàng vẫn là tài sản tài chính cơ bản của gần như tất cả các ngân hàng trung ương bên cạnh ngoại tệ và trái phiếu chính phủ. Nó cũng được tích trữ tại các ngân hàng trung ương như là một biện pháp đề phòng .... Ước tính, 25% toàn bộ lượng vàng có trên mặt đất được cất giữ tại quỹ của các ngân hàng trung ương.
- Tiền xu vàng và vàng thỏi được mua bán rộng rãi tại các thị trường có tính thanh khoản cao, và do đó vẫn là hình thức cất giữ tài sản cá nhân. Cho dù một số tổ chức, cá nhân phát hành tiền ví dụ tiền kỹ thuật số quy ra vàng, thì chúng vẫn phải được bảo đảm bằng dự trữ vàng của họ. Năm 1999, để bảo vệ vai trò cất trữ giá trị của vàng, Ngân hàng trung ương Châu Âu đã ký “thỏa thuận Washington”, tuyên bổ rằng họ không cho phép vay nợ vàng để đầu cơ và họ cũng không tham gia vào thị trường vàng với vai trò là người bán, trừ khi các giao dịch đó đã ký kết trước thời điểm ký thỏa thuận trên. Những năm cuối của Thời kỳ khủng hoảng giá hàng hóa (1980-2000) cũng đã ảnh hưởng đến vàng, giá vàng đã tăng vượt mức giá được giao dịch trong vòng 20 năm. Thực tế này dẫn đến hậu quả là các tổ chức quản lý tiền tệ lại sử dụng vàng để giữ vững giá trị đồng tiền của họ, dẫu vậy, không có nghĩa là quay trở lại bản vị vàng. Trên thực tế ngày nay thì ngược lại, vàng càng đắt đỏ thì bản vị vàng càng khó thực hiện Giá vàng tăng ảnh hưởng tới lãi suất tiền gửi? Những biến động của thị trường vàng cuối năm đã ảnh hưởng tới giá trị đồng tiền, gây ra tâm lý bất an cho những người gởi tiền tại ngân hàng. Mặc khác, tình trạng “đô la hóa” thị trường tiền tệ cũng khiến cho những người giữ tiền VN lo ngại. Giá vàng lên cơn sốt có ảnh hưởng tới lãi suất tiền gửi hay không? Ngày 13/12, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Đức Thúy có cuộc trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề này. Giá vàng thời điểm gần đây liên tục biến động theo hướng tăng giá. Ông có thể đánh giá tác động của sự biến động này đối với thị trường trong nước? Sự biến động của loại hàng hóa đặc biệt này nhất định có tác động tới thị trường. Ví dụ, thị trường bất động sản, tác động tới xu hướng của người dân trong việc nắm giữ tài sản dự trữ của mình, do đó sẽ ảnh hưởng tới luồng tiền vốn huy động bằng VND, USD hay vàng.
- Tuy nhiên, theo tôi tác động của giá vàng hiện không lớn như những năm trước khi vàng còn được coi là giá trị của đồng tiền. Cho nên đa số người dân bình thường không bị ảnh hưởng bởi giá vàng; giá cả các mặt hàng tiêu dùng bình thường cũng không bị ảnh hưởng. Vậy giá vàng biến động có ảnh hướng tới việc tăng lãi suất tiền gửi hiện nay? Theo tôi là không. Bởi ngay ở mức cao hiện nay, giá vàng trong nước vẫn thấp hơn thị trường quốc tế. Không phải VND đang mất giá mà các ngân hàng phải nâng lãi suất, thậm chí VNĐ còn hơi cao giá. Vấn đề huy động vốn vào các tổ chức tín dụng nếu gặp khó khăn và không đáp ứng được nhu cầu lại là chuyện khác và phải tính đến lãi suất hợp lý hơn để huy động được vốn. Vì sao Nhà nước vẫn khống chế chặt chẽ biên độ giao dịch của tỉ giá hối đoái giữa VNĐ với ngoại tệ đã tạo sự chênh lệch giữa tỉ giá chính thức với tỉ giá thực tế? Đứng về mặt quản lý Nhà nước, vẫn luôn có sự chênh lệch giữa tỉ giá chính thức với tỉ giá thực tế. Vấn đề là ít nhất tìm ra được khoảng rộng đủ linh hoạt để người mua, người bán tìm đến nhau dễ dàng. Chúng ta đang đứng trước thực tế, nếu nới lỏng hơn nữa những kiểm soát về tỉ giá chính thức thì còn phải quan tâm đến những biến động khác trong khi nền kinh tế chưa thực sự ổn định vững chắc, nhất là lạm phát. Do đó, vừa qua Ngân hàng Nhà nước mới chỉ dám nới biên độ giao dịch trong phạm vi 0,25% so với tỉ giá giao dịch ngày hôm trước. Ở các nước, họ không khống chế, biến động có thể tới 1%-2% nhưng không gây nên xáo động trong tâm tư người dân. Nhưng nếu VN tùy tiện nới lỏng, chỉ mới biến động 50 đồng (so với 15.000-16.000 đồng chưa là gì cả) nhưng sẽ lập tức có biến động. Vì vậy, hiện giờ biến động hằâng ngày ở thị trường chính thức chỉ có 5-7 đồng, còn ở bên ngoài thị trường tự do lại khác. Chính vì thế, người dân tìm đến những dịch vụ đổi tiền không chính thức để có thể được lợi hơn. Làm sao phá được ranh giới giữa hai thị trường mới là mục tiêu của sự kiểm soát. Trên cơ sở đó mới phát triển được dịch vụ thu đổi ngoại tệ. Việc sử dụng ngoại tệ một cách phổ biến là có lợi hay hại?
- Chẳng quốc gia nào lại muốn có đồng tiền thứ hai cũng được dùng như đồng tiền của mình, thậm chí có khi còn lấn lướt. Có nghĩa là anh không đủ hiệu lực trong thực thi chính sách tiền tệ. Vì thế, phải tìm cách kiểm soát và loại trừ dần. Tuy nhiên, phải có chính sách, biện pháp một cách khôn ngoan, không thể dùng sự nhiệt tình được. Lãi suất phù hợp sẽ hạn chế chuyển dịch từ VNĐ sang ngoại tệ Theo ông Lê Đức Thúy: Các tổ chức quốc tế đánh giá, tình trạng “đô la hóa” tại VN ở mức trung bình so với các nước đang phát triển.Thứ hai, việc giảm “đô la hóa” ở VN biến chuyển khá nhanh, ngoại tệ được thu hút vào ngân hàng chính là một biểu hiện của việc giảm “đô la hóa” trong nền kinh tế. Năm 1995 chỉ có khoảng 1,5 tỉ USD tiền gửi từ khu vực dân cư, hiện nay con số này khoảng 8 tỉ USD. Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Nhà nước VN xây dựng đề án chống “đô la hóa”. Chống “đô la hóa” sẽ phải là những biện pháp mang tính kinh tế: Tỉ giá hối đoái tương đối ổn định người dân sẽ ít lo sự mất giá của đồng tiền; lãi suất phải hợp lý để tránh sự chuyển dịch từ đồng tiền này sang tiền kia. TÁC ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG VÀNG NĂM 2010 ĐẾN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Posted on 24/01/2011 by Civillawinfor TS. ĐỖ THỊ THỦY – VietinBank 1. Năm của những mức giá kỷ lục trên thị trường vàng Trong những năm gần đây, giá vàng có xu hướng tăng nhanh. Năm 2010 thị trường vàng (TTV) biến động bất
- thường với những mức giá kỷ lục liên tiếp được thiết lập. Tháng 11/2010 người dân đã chứng kiến giá vàng trong nước đạt mức giá 38 triệu đồng/lượng. Từ cuối năm 2009 đến ngày 21/12/2010 giá vàng quốc tế tăng 26%, giá vàng trong nước tăng 46%. Sự biến động của TTV đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng. Bài toán vàng, lạm phát lại một lần nữa thách thức các nhà điều hành chính sách tiền tệ. Vậy những nguyên nhân nào khiến giá vàng trong nước tăng đột biến? Thứ nhất: Giá vàng Việt Nam chịu tác động của giá vàng thế giới Giá vàng thế giới đã có những bước ngảy vọt chưa từng có, lần đầu tiên trong vòng 10 năm qua, đạt cao nhất vào năm 2010, tăng gấp 5 lần. Vào trung tuần tháng 10/2010, giá vàng thế giới đã lập kỷ lục 1.379,1$/oune, tăng 22% so với đầu năm. Vàng đã trở thành tài sản đặc biệt, không chỉ các Ngân hàng trung ương (NHTW) mà các quỹ đầu tư nhỏ lẻ rất quan tâm. Giá vàng thế giới tăng do 3 nguyên nhân chính: Khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến nhà đầu tư tìm đến vàng như một chỗ trú ẩn an toàn: Nhân tố chính kích động giá vàng là lạm phát hoành hành các nền kinh tế. Trong hai năm qua, cùng với các chiến dịch kích thích tăng trưởng kinh tế, các NHTW của Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều nước khác đã tìm cách tăng chi tiêu đồng thời in thêm tiền mặt. Hàng nghìn tỷ USD được bơm vào nền kinh tế toàn cầu, khiến lạm phát gia tăng. Mặt khác, các yếu tố quốc tế đầy rủi ro sau khủng hoảng khiến vàng trở thành tài sản được ưa chuộng để tích trữ. Chiến dịch nới lỏng chính sách tiền tệ đã không thể thúc đẩy nền kinh tế và giảm thất nghiệp ở các nước như mong muốn. Thay vào đó, luồng "tiền nóng" chảy sang các nền kinh tế đang nổi, nơi chúng được đổ vào các mặt hàng giữ giá như vàng. Tại Mỹ, sự mất lòng tin vào đồng USD khiến giá trái phiếu chính phủ Mỹ giảm mạnh và lãi suất tăng vọt. Cứ 18 ngày, Mỹ lại phát hành các loại giấy tờ ghi nợ tương đương giá trị sản lượng vàng khai thác 1 năm và mỗi năm nước Mỹ vay nợ tương tương 1/3 tổng số lượng vàng hiện có trên thế giới. Tại Châu Âu, nợ xấu tại một số quốc gia có biểu hiện ngày một trầm trọng hơn, thúc đẩy nhà đầu tư tìm đến kênh đầu tư vàng… Cung yếu: Bất chấp giá vàng đang ở mức cao kỷ lục, các Công ty khai thác vàng không thể đáp ứng đủ mức cầu. Dưới góc độ kinh tế, mỗi khi cầu tăng thì cung sẽ tăng theo, qua đó giữ giá ổn định. Tuy nhiên điều này không xảy ra với vàng, đơn giản vì không có nguồn quặng mới đủ để tăng sản lượng khai thác và thay thế lượng vàng đi vào tiêu dùng. Trong năm qua, sản lượng vàng thế giới chỉ tăng được 3%, trong khi giá vàng tăng hơn 20%. Cầu bùng nổ: Bên cạnh các yếu tố cơ bản khiến giá vàng luôn theo xu thế đi lên như: nhu cầu vàng trang sức và vàng công nghiệp ngày càng tăng; tâm lý ưa chuộng vàng của một số quốc gia (điển hình là Trung Quốc và Ấn Độ), thì động thái găm giữ vàng của các nhà đầu tư, các chính phủ đã khiến nhu cầu vàng năm 2010 tăng vọt. Theo Hội đồng vàng toàn cầu, tổng giá trị đầu tư vào vàng trong quý 3/2010 tăng lên mức kỷ lục
- 9,6 tỷ USD, tăng 60% so với cùng kỳ năm 2009. Đồng thời, các nhà đầu tư và một số NHTW, chủ yếu ở Trung Đông và châu Á, cũng chuyển sang dự trữ vàng. Trong năm 2009-2010, các NHTW của Ấn Độ, Sri Lanka và Cộng hòa Mauritius mua 212 tấn, Bangladesh mua 10 tấn. Iran đã tuyên bố chuyển 45 tỷ USD dự trữ sang đồng Euro và vàng. Một số quốc gia Trung Đông khác cũng chuyển 200.000 thùng dầu thô/ngày sang vàng, tương đương 140 tấn vàng/năm (nếu tính theo tỷ giá vàng/dầu thô hiện nay). Mặc dù giá vàng lên rất cao nhưng theo tính toán của các nhà đầu tư, thị trường này vẫn còn nhiều tiềm năng. Kết quả phân tích biểu đồ chu kỳ giá vàng cho thấy, tại thời điểm ngay sau khi giá mặt hàng này chạm đỉnh, tỷ trọng cổ phiếu vàng chiếm 26% tổng giá trị cổ phiếu đầu tư toàn cầu. So với năm 2009, tỷ trọng này chỉ chiếm 0,8% – một con số không đáng kể. Do đó, các Quỹ đầu tư, đặc biệt là quỹ SPDR vẫn tiếp tục mua vàng với khối lượng lớn để canh giá cao bán ra kiếm lời. Hoạt động đầu tư vàng riêng lẻ của tư nhân cũng phát triển rất mạnh ở nhiều nước… Thứ hai: Tâm lý giữ vàng Vàng là một công cụ đầu tư, cất trữ truyền thống của người Việt Nam. Việc quy đổi tài sản theo giá trị của vàng đã trở thành thói quen lâu đời và đã được người Việt Nam lựa chọn là phương tiện đo lường, trao đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Trước những đợt biến động giá vàng trong thời gian gần đây, nhiều tổ chức và cá nhân đã đổ xô đi mua vàng. Có thể thấy vàng đã len lỏi vào định giá hàng hoá, dự trữ và dẫn đến “vàng hoá”. Trên thực tế, Việt Nam cũng nằm trong những nước nhập khẩu vàng lớn trên thế giới (Năm 2006, nhập 91 tấn vàng, năm 2007 nhập 51 tấn vàng, năm 2008 nhập 90,5 tấn vàng). Mặt khác, cùng với khủng hoảng kinh tế, lạm phát, năm 2010 việc đầu tư vào các chứng khoán và bất động sản đều hạn chế, thậm chí thua lỗ đã khiến các nhà đầu tư Việt Nam tập trung vào vàng. Theo tính toán sơ bộ, lượng vàng dự trữ (chủ yếu trong dân cư) của Việt Nam đã tăng liên tục trong nhiều năm qua và đạt mức cao nhất 1.000 tấn vào cuối năm 2009 với tổng trị giá lên tới 45 tỉ USD, bằng 50% GDP của Việt Nam cùng thời điểm và sang năm 2010 lượng vàng trong dân cũng tăng cao. Do đó, việc nhìn nhận vai trò của vàng đối với hệ thống tài chính là hết sức quan trọng. Thứ ba: Cung vàng trong nước được kiểm soát chặt chẽ Trong khi cầu vàng trong nước tăng đột biến thì cung lại rất hạn chế. Khoảng 95% lượng vàng tiêu thụ tại Việt Nam được nhập khẩu, tuy nhiên hoạt động nhập khẩu vàng được quản lý rất chặt chẽ, các doanh nghiệp kinh doanh vàng muốn nhập khẩu phải xin hạn ngạch từ NHNN. Tháng 5/2008, để làm dịu áp lực lạm phát và bình ổn nền kinh tế, NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Điều này hạn chế lượng ngoại hối dùng để nhập vàng, nhưng lại tạo ra ít nhất là ý niệm khan hiếm vàng. Khi chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới tăng cao, không được phép nhập khẩu qua đường chính thức, nhà đầu cơ đẩy mạnh mua USD để nhập lậu vàng, tạo áp lực khan hiếm đồng USD và đẩy giá USD lên cao. Thứ tư: tỷ giá hối đoái tăng cao
- Giá vàng hiện chủ yếu được yết bằng USD, do vậy khi USD bị đẩy lên cao, đến lượt nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng. Theo đó, khi giá USD tăng, giá vàng sẽ tăng tương ứng. Giá vàng tăng trong khi cầu về vàng vượt quá cung khiến nhu cầu mua USD để nhập khẩu vàng tăng, lúc này, giá vàng đã tác động ngược trở lại giá USD, tạo vòng xoáy giữa vàng, USD. 2. Tác động của giá vàng đến các yếu tố kinh tế vĩ mô và hoạt động của các Ngân hàng thương mại (NHTM) Theo báo cáo của Hội đồng Vàng thế giới, lượng vàng hiện có tại Việt Nam (lấy lượng vàng nhập khẩu trừ đi số đã xuất khẩu) khoảng 1.000 tấn, tương đương với 45 tỷ USD. Tuy con số này chưa được công nhận, nhưng chắc chắn một lượng vàng rất lớn đang được người dân nắm giữ, đang trở thành luồng vốn hoạt động không chính thức, gây sức ép không nhỏ đến chính sách tiền tệ, tăng trưởng kinh tế nói chung và hoạt động của các NHTM nói riêng. Mặt khác, giá vàng tăng cao gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của chính sách tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô trong trung hạn. Xét từ quan hệ ảnh hưởng từ trực tiếp đến gián tiếp có thể thấy tác động của giá vàng tăng như sau: - Ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động nguồn vốn của khu vực tài chính: Khi giá vàng tăng người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng thay vì gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Đồng thời vốn rút ra lại loanh quanh ở TTV và ngoại tệ dẫn đến khả năng huy động vốn của các NHTM bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. - Thị trường ngoại tệ tự do bành trướng: Tình trạng đô la hóa ở Việt Nam không chỉ biểu hiện bằng tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng mà còn là khối lượng ngoại tệ lưu hành ngoài hệ thống tài chính. Khi giá vàng tăng làm cho nhu cầu mua USD trên thị trường tự do để nhập khẩu vàng lậu lớn dẫn đến tỷ giá USD tăng, khó kiểm soát. - Nguy cơ lạm phát: Tuy chưa thống kê được quy luật cụ thể cho mối liên quan chặt chẽ giữa vàng và lạm phát. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế dẫn đến hiện tượng dùng vàng để định giá các tài sản lớn, điển hình là giá bất động sản. Khi vàng trở thành thước đo giá trị, việc vàng tăng giá kéo giá bất động sản và các loại hàng hóa khác tăng theo, gây nguy cơ lạm phát. - Thâm hụt cán cân thương mại: Khi giá vàng tăng thì nhập khẩu vàng tăng và nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu càng lớn. Với khối lượng vàng cất trữ rất lớn và gia tăng nhanh chóng những năm gần đây giải thích vì sao thâm hụt cán cân thương mại. - Ảnh hưởng đến điều hành chính sách tiền tệ: Với số liệu trên cho thấy tỉ trọng vàng trên GDP ở Việt Nam rất lớn. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến điều hành chính sách tiền tệ. Đơn cử, với tổng phương tiện thanh toán không kể vàng (M2) thì hệ số nhân tiền theo tính toán của các chuyên gia khoảng 4,8. Nhưng nếu tính gộp M2 + vàng thì hệ số này chỉ còn 2,0. Rõ ràng rằng có rất nhiều vấn đề đối với hệ thống tiền tệ đang bị chi phối bởi khối lượng vàng và TTV đang bành trướng hiện nay. Như vậy, vàng không còn là vấn đề nhỏ của các nhà kinh doanh, mà đang thực sự trở thành một lực lượng thị trường có khả năng chi phối cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân
- thanh toán, dự trữ ngoại tệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Vì vậy, việc quản lý TTV, vấn đề vàng hóa và đô la hóa cần phải được nghiên cứu toàn diện hơn để có chiến lược và chính sách hợp lý. 3. Chính sách của Chính phủ tác động đến việc bình ổn th ị trường và hoạt động kinh doanh của các NHTM Trước tình hình tăng phi mã của giá vàng trên thế giới và trong nước, trong những năm qua Chính phủ đã thực thi nhiều chính sách nhằm bình ổn tình hình thị trường. Cụ thể: Trước tiên, để hạn chế lượng ngoại hối nhập vàng, giảm bớt thâm hụt thương mại, tháng 5/2008, NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Tuy nhiên việc ngừng cấp phép chỉ là giải pháp tình thế. Trên thực tế, giải pháp này đã có những tác động ngược đến tỷ giá và lạm phát ở mức độ nhất định và cần phải có sự điều chỉnh phù hợp. Từ đó đến nay, NHNN đã một số lần phải nới lỏng hạn ngạch nhập khẩu vàng, cho phép doanh nghiệp nhập khẩu khi giá vàng trong nước tăng quá nóng. Thứ hai là đóng cửa các sàn vàng trong nước và bãi bỏ việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài của các NHTM: Trên cơ sở đánh giá hoạt động kinh doanh sàn vàng cho thấy: hoạt động này không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh và tiềm ẩn một số yếu tố có thể gây bất ổn kinh tế – xã hội, NHNN đã yêu cầu bãi bỏ kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi hình thức. Đồng thời, NHNN cũng huỷ bỏ quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài của các NHTM vì mức rủi ro của hoạt động này rất cao khi giá vàng thế giới có những biến động mạnh, lên xuống thất thường với biên độ lớn. Sau các biện phát siết chặt nguồn cung “vàng thật” và cấm kinh doanh “vàng ảo”, NHNN thực hiện hạn chế các hoạt động huy động và cho vay vàng của NHTM trong nước: Tháng 10/2010 NHNN ban hành Thông tư số 22/2010/TT-NHNN với mục tiêu hạn chế các hoạt động huy động và cho vay vàng của các tổ chức tín dụng (TCTD): chỉ cho phép các TCTD huy động vốn bằng vàng thông qua phát hành giấy tờ có giá, cho vay vốn bằng vàng để sản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng trang sức (không được cho vay để sản xuất và kinh doanh vàng miếng); TCTD không được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng thành VND và các hình thức bằng tiền khác. Với mục tiêu làm giảm sức hấp dẫn của kênh đầu tư vàng, loại bỏ dần việc vàng hóa, NHNN hy vọng Thông tư 22 sẽ khiến các NHTM bán lượng vàng đang nắm giữ, làm giảm sức nóng của thị trường. Mặt khác, cơ chế mới sẽ khắc phục rủi ro về kỳ hạn, thanh khoản và lãi suất đối với TCTD huy động và cho vay bằng vàng. Qua đó tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh vàng, ổn định thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ. Hiệu quả của Thông tư cần phải có thời gian để đánh giá, tuy nhiên sau những biện pháp can thiệp nói trên, giá vàng trong nước không còn có những biến động bất thường như thời gian trước nữa. 4. Một số đề xuất
- Trên cơ sở xem xét vấn đề vàng trong mối quan hệ biện chứng với tỷ giá và lạm phát; coi vàng là phương tiện cất trữ, lưu thông tiền tệ chứ không chỉ là hàng hóa thông thường, từ đó có giải pháp tiếp cận và xử lý vấn đề trên cơ sở dài hơi, tôn trọng quy luật khách quan của kinh tế thị trường, tập quán giữ vàng của người dân, kể cả việc xem xét thực tiễn khó khăn trong việc ngăn chặn vàng nhập lậu từ biên giới, dưới góc độ nghiên cứu, người viết có một số đề xuất sau: Thứ nhất, căn nguyên cơ bản của cơn sốt vàng là lạm phát, do đó muốn giải quyết vấn đề của vàng thì phải có biện pháp giảm lạm phát để tăng niềm tin vào đồng nội tệ, bớt đổ xô vào gom giữ vàng, ngoại tệ. Thứ hai, không nên thực hiện các biện pháp có tính chất hành chính, cắt giảm đột ngột, ngăn cấm mua bán vàng… Bởi như vậy sẽ càng làm vàng ra khỏi kênh chính thức. Thay vào đó, cần có bước trung gian để chu chuyển vàng (hút vàng vào ngân hàng). Thứ ba, cần có cơ chế để chu chuyển vàng thành VND, cần có giải pháp để huy động số vàng hiện có trong dân để không lãng phí nguồn tài chính quan trọng. NHNN nên cho phép các NHTM tái chiết khấu vàng để lấy VND. Khi đó, nhà nước sẽ thu hút được vàng trong dân, đưa lượng vàng lớn trong dân vào lưu thông, giúp chu chuyển nguồn vốn bằng vàng. Thứ tư, Nhà nước cần có chính sách quản lý TTV theo hướng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động sản xuất kinh doanh, trên tinh thần tôn trọng quy luật thị trường. Sau khi hoàn thiện các cơ chế, biện pháp phòng ngừa rủi ro thì nên tiếp tục cho phép kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài để khơi thông dòng vốn kinh doanh trong và ngoài nước và cân bằng được rủi ro của việc huy động vàng trong nước. Thứ năm, cần thành lập mô hình quản lý TTV tập trung do Nhà nước quản lý. Khi đó, Nhà nước có thể quản lý TTV hiệu quả, tránh những tác động tiêu cực, còn người dân và nhà đầu tư có thêm những kênh lựa chọn để đầu tư hay trao đổi loại hàng hóa đặc biệt này, tạo lập một thị trường giao dịch vàng tập trung giống thị trường chứng khoán hiện nay, tăng cường tính minh bạch, thông suốt của TTV; giảm tình trạng lũng đoạn và thao túng, góp phần tạo trật tự khách quan cho TTV; giảm nhu cầu nhập vàng và hạn chế xuất nhập lậu vàng./. Thông tin quan trọng tác động đến thị trường vàng và ngoại tệ 2 tháng đầu năm 2011 Đáng chú ý nhất, khả năng hoạt động kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do bị cấm tác động không nhỏ đến giá vàng trong tuần qua và trong thời gian sắp tới. Facebook • Twitter • Linkhay • Email • Print • (Bình luận(0 •
- Các tin liên quan Mốc quan trọng nhất trên thị trường vàng và ngoại tệ 2 tháng đầu năm 2011 • Xóa kinh doanh vàng miếng tự do: Băn khoăn tính khả thi • Kiều hối vượt 8 tỷ USD: Báo Tuổi Trẻ đưa tin lượng kiều hối chuyển về VN trong năm 2010 đã vượt xa con số dự báo 6 tỉ USD khi đạt trên 8 tỉ USD. Một kỷ lục mới đã được thiết lập. Theo giám đốc công ty kiều hối ngân hàng Đông Á, lượng kiều hối chuyển theo đường không chính thức hiện nay không đáng kể bởi chính sách nhận kiều hối VN rất thông thoáng, như: không phải đóng thuế, được nhận bằng ngoại tệ hay tiền đồng tùy khách hàng chọn… Một nguyên nhân khác góp phần làm tăng kiều hối là lãi suất huy động USD của các ngân hàng trong nước hiện ở mức 5%/năm, cao hơn lãi suất USD ở nước ngoài. Kiều hối về nước tăng góp phần giảm căng thẳng nguồn cung USD trong nước. Ngân hàng Nhà nước cho phép nhập khẩu vàng đến cuối tháng 2/2011: Nhiều công ty và ngân hàng cho biết chiều 07/01 đã nhận được quyết định cho phép nhập khẩu vàng từ Ngân hàng Nhà nước với thời hạn đến cuối tháng 02/2011. Ngày 12/01, các công ty vàng cho biết số vàng được cấp phép nhập lần này sẽ được gia công bán ra thị trường. Các ngân hàng chạy đua nâng lãi suất huy động USD: Đến ngày 17/01, theo ghi nhận của báo Thanh Niên và Báo Đất Việt, Ngân hàng Nam Việt (Navibank) nâng lãi suất USD lên tới 6,24%/năm áp dụng cho kỳ hạn 12 tháng; các kỳ hạn 6 - 9 tháng lên cao nhất 6,14% tùy vào số lượng tiền gửi. Trước đó, Ngân hàng Việt Nam Thương Tín (VietBank) chính thức dẫn đầu thị trường với việc đưa lãi suất lên mức 6%/năm cho kỳ hạn 12 tháng. Hàng loạt kỳ hạn gửi tiền USD khác tại VietBank cũng được ngân hàng này nâng lãi suất lên mức 5,4-5,9%/năm. Mức lãi suất huy động USD phổ biến của các ngân hàng có vốn điều lệ khoảng 3.000 tỉ đồng như NH TMCP Phương Tây, Đại Á, Việt Á... từ 5% - 5,5%/năm. Đây là mức lãi suất huy động USD ở một số ngân hàng quy mô nhỏ và vừa, còn những ngân hàng thương mại lớn như NH TMCP lớn như Á Châu (ACB), Xuất nhập khẩu (Eximbank)... mức lãi suất huy động USD ngấp nghé ở gần mức 5%/năm. Ngày 23/01, lãi suất huy động USD tại SCB lên tới 6,3%/năm. Sau đó cuộc đua nâng lãi suất USD giảm nhiệt, một số ngân hàng (NH) đã âm thầm giảm lãi suất huy động USD xuống mức 5%/năm. NH Vietbank hạ lãi suất huy động USD xuống còn 5,5%/năm, giảm 0,7%/năm so với mức đỉnh trong tháng 1. Cập nhật lãi suất huy động USD tại một số ngân hàng: Theo khảo sát của CafeF, ở thời điểm ngày 28/02/2011, lãi suất tiền gửi bằng đồng USD tại một số ngân hàng thương mại như sau:
- Ngân hàng Vietcombank: Lãi suất tiền gửi đồng USD phổ biến từ mức 5% (thời hạn 1 tháng) lên mức 5,5% (thời hạn 12 tháng). Ngân hàng Sacombank: Lãi suất tiền gửi đồng USD từ mức 4,920% (thời hạn 5 và 6 tháng) lên đến 5,320% (thời hạn 2 tháng). Ngân hàng BIDV: Lãi suất tiền gửi đồng USD từ mức 4,5% (kỳ hạn 3 đến 6 tháng) và 4,7% áp dụng với kỳ hạn từ 12 tháng trở lên (áp dụng với địa bàn Hà Nội). Ngân hàng Techcombank: đối với chương trình tiết kiệm thường, lãi suất huy động USD từ mức 3,95% (thời hạn 1 tháng) lên mức 4,8% (thời hạn 12 tháng). Ngân hàng VIB: lãi suất dao động từ 3,1% (thời hạn 2 tháng) lên 3,65% (thời hạn 12 tháng). Ngân hàng VPBank: lãi suất dao động từ 3,92% (thời hạn 1 tháng, số tiền gửi dưới 5 nghìn USD) lên mức cao nhất là 5% (áp dụng cho thời hạn 36 tháng, lĩnh lãi cuối kỳ, từ 100 nghìn USD trở lên). Hoạt động vay cầm cố vàng sôi động: Theo Báo Đất Việt, ngày 20/01/2011, tại thành phố Hồ Chí Minh, hoạt động vay cầm cố vàng trở nên sôi động. Khảo sát tại nhiều tiệm vàng khu vực Tân Phú, Phú Nhuận, Tân Bình, Gò Vấp (TP HCM), không hiếm trường hợp đến cầm cố vàng để có một khoản vốn nho nhỏ cuối năm, lãi suất từ 3% đến 4,5%/tháng. Ông Nguyễn Trung Anh, Phó Tổng Giám đốc Công ty vàng Vina, cho rằng, với giá vàng như hiện tại, nhiều doanh nghiệp kinh doanh vàng coi “cầm vàng” là doanh số thu nhập chính. “Không phải doanh nghiệp kinh doanh vàng nào cũng cạnh tranh được trong chế tác nữ trang, bán vàng miếng. Vì thế, nhiều doanh nghiệp hiện nay “sống” nhờ cầm cố vàng”, ông Trung Anh cho biết. Ngân hàng Nhà nước công bố thay đổi tỷ giá bình quân liên ngân hàng: Ngày 11/02/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố thay đổi tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 18.932 đồng/USD lên 20.693 đồng/USD (mức tăng 9,3%). Đồng thời thu hẹp biên độ giao dịch từ +_3% xuống +_1% áp dụng từ ngày 11/2/2011. Tỷ giá trần áp dụng tại các NHTM kể từ ngày 11/02/2011 là 20.900 đồng/USD, tăng 1.400 đồng/USD so với ngày 10/02/2011. Việc tăng tỷ giá đã tác động mạnh đến thị trường vàng sau đó, giá vàng tăng 130 nghìn đồng/lượng lên 35,98 triệu đồng/lượng (chiều bán) sau khi lên vượt 36 triệu đồng/lượng trong ngày giao dịch. Sau đó đạt đỉnh 38,5 triệu đồng/lượng vào ngày 19/2/2011. Mở sàn giao dịch vàng bị phạt đến 500 triệu đồng: Theo dự thảo nghị định xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, Việc mua
- bán ngoại tệ không đúng tỉ giá quy định, thu phí giao dịch không đúng quy định có thể bị phạt đến 75 triệu đồng, gấp 25 lần mức phạt hiện nay (là 3 triệu đồng). Mở sàn giao dịch vàng bị phạt với mức nặng nhất, đến 500 triệu đồng. Việc mua bán ngoại tệ không đúng tỉ giá quy định, thu phí giao dịch không đúng quy định có thể bị phạt đến 75 triệu đồng, gấp 25 lần mức phạt hiện nay (là 3 triệu đồng). Cũng theo dự thảo trên, điểm giao dịch ngoại tệ không niêm yết công khai tỉ giá bị phạt đến 6 triệu đồng (hiện là 500.000 đồng). Hành vi niêm yết giá, báo giá, định giá, ký kết hợp đồng, giao dịch bằng ngoại tệ bị phạt đến 45 triệu đồng (hiện là 12 triệu đồng). Việc chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài và vào Việt Nam không đúng quy định cũng bị phạt đến 75 triệu đồng (hiện là 12 triệu đồng). (theo Báo Pháp luật) Cấm kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do: Ngày 24/02, Ngân hàng Nhà nước công bố 7 biện pháp ổn định thị trường tiền tệ năm 2011. Mục tiêu thứ 5 đưa ra dự thảo về quản lý thị trường vàng: - Theo dõi và dự báo sát tình hình biến động giá vàng Quốc tế, cung cầu trong nước để điều hành hoạt động xuất nhập khẩu vàng một cách hợp lý, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động đầu cơ, găm giữ, thao túng thị trường. - Trong quý II/2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý và kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới. Giá vàng, dầu giảm có phải tín hiệu đáng mừng? Với đại đa số mọi người dân đều vui mừng khi giá dầu hạ, kéo giá vàng gi ảm theo. Điều này sẽ góp phần kéo giá cả hàng hóa giảm, làm lạm phát giảm, áp lực lên cuộc sống của người dân cũng giảm đi. Tuy nhiên việc giá dầu h ạ trong lúc nền kinh tế phát triển ổn định thì đây thật sự là một tin m ừng vì ng ười dân s ẽ đẩy mạnh tiêu dùng hơn nhưng với tình hình kinh tế toàn c ầu còn nhi ều khó khăn thì vấn đề này còn phải xem xét lại. Bởi vì việc giá hàng hóa đi xu ống chứng tỏ kinh tế thế giới cũng đi xuống, là dấu hiệu tiêu cực c ủa nhu cầu tiêu dùng đồng nghĩa với các chính sách điều hành ngày càng th ắt ch ặt. Khi giá hàng hóa giảm cũng làm các nhà sản xuất thiếu động lực để sản xu ất và phát triển sản phẩm. Ngoài ra việc giá dầu giảm mạnh liên tục sẽ không loại tr ừ vi ệc OPEC sắp tới sẽ giảm lượng cung ra thị trường để ngăn chặn việc giá dầu ti ếp tục đi xuống. Bởi vì một khi giá dầu đã thiết lập mặt bằng giá m ới vi ệc giá xuống quá nhiều sẽ làm ảnh hưởng lợi nhuận của các quốc gia này. Đồng USD tăng giá mạnh lần này không phản ánh tình hình kinh t ế M ỹ m ạnh lên mà là do các đồng tiền khác yếu đi. Điều này thể hi ện qua vi ệc hàng lo ạt s ố liệu kinh tế của các nền kinh tế mạnh như EU, Úc, Nhật, Canada không kh ả quan. Trong bài phát biểu trong cuộc họp báo gần đây, Ch ủ t ịch Ngân hàng TW
- Châu âu ECB ngài Trichet thừa nhận nhiều khó khăn mà nền kinh t ế Châu âu vẫn đang phải đối mặt cộng thêm lạm phát vẫn ở mức cao nên ECB vẫn ch ưa thể tăng lãi suất góp phần khống chế lạm phát. Tình hình kinh t ế t ại M ỹ cũng không khá hơn khi danh sách thua lỗ của các doanh nghi ệp ngày càng dài h ơn, tỷ lệ thất nghiệp, trợ cấp thất nghiệp vẫn tăng cao, chính phủ Mỹ vẫn ph ải kéo dài thời gian cho các khoản vay thế chấp, TTCK Mỹ tuy có tăng đi ểm nh ẹ nh ưng các chỉ số vẫn còn ở mức thấp như chỉ số Dow Jones vẫn chưa thoát khỏi ngưỡng 11.000 sau khi có lúc đạt 14.000. Mặc dù vẫn có m ột s ố thông tin kh ả quan như tín dụng tiêu dùng tăng, dự trữ dầu thô đ ầu tháng 8 tăng (nh ưng d ự trữ xăng lại giảm rất mạnh, có thể lý giải do công suất nhà máy giảm), ch ỉ s ố sản xuất có chiều hướng tăng .. . Ngoài ra việc Ủy ban điều hành thị trường mở của FED (FOMC : Federal Open Market Committee ) trong cuộc họp lãi suất gần nhất vẫn tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản ở mức 2% và ngài Ben Bernanke Chủ tịch FED cảnh báo nguy cơ đi xuống của nền kinh t ế Mỹ vẫn còn, th ị trường tài chính tiếp tục căng thẳng. Như vậy có thể thấy việc đồng USD tăng mạnh, vàng, dầu giảm thê thảm t ừ nửa cuối tháng 7 đến nay mang nặng yếu tố đầu cơ, khi đồng loạt nhi ều nhà đầu tư bán vàng, dầu ra đẩy giá đồng USD tăng vọt. Trong đó việc ECB trong tháng 8 bán ra 1,5 tấn vàng (theo hiệp ước bán vàng), Qu ỹ giao d ịch vàng hoán đổi lớn nhất thế giới SPDR Gold Shares trong ngày 5/8 bán ra 15,32 tấn vàng (trước đó Quỹ này cũng đã có một số động thái bán ra) kéo theo s ự bán ra ồ ạt của các nhà đầu tư khác. Và nếu dõi theo lịch sử, ta nhận thấy mỗi khi vàng, dầu giảm giá mạnh thì đó là dấu hiệu cho một đợt tăng giá k ỷ l ục khác. B ởi v ậy các doanh nghiệp, nhà đầu tư vẫn hết sức cảnh giác tránh t ối đa tâm lý ch ủ quan và những chính sách kinh tế vĩ mô vẫn phải tiếp t ục bám sát th ị tr ường. Vàng và các yếu tố ảnh hưởng Trong hoàn cảnh TTCK Việt Nam không còn rơi vào thời điểm “mua là thắng” như hồi cuối năm 2006 thì sự biến động liên tục, mạnh mẽ của thị trường vàng tạo ra khả năng sinh lời cao đã thu hút nhiều NĐT chuyển dịch nguồn vốn của mình từ TTCK sang đầu tư vàng. Tuy có không ít sự tương quan giữa 2 thị trường này nhưng vẫn còn nhiều điểm khác biệt, do đó một số NĐT cảm thấy ngỡ ngàng khi mới làm quen với thị trường vàng. Trước hết, vàng là một loại hàng hóa, do đó dao động giá của vàng phải được xem xét dựa trên các yếu tố tác động của cung và cầu. Nguồn cung vàng trên thế giới đến từ các quốc gia có trữ lượng vàng lớn và sản lượng xuất khẩu có tầm ảnh hưởng đến thị trường như Nam Phi, Mỹ, Canada, Nga, Úc...
- Xét về nhu cầu vàng thì phải thấy rằng, toàn thế giới đều muốn có thứ kim loại này và tùy vào mục đích sử dụng mà có những nhu cầu khác nhau: phục vụ cho hoạt động chế tác trang sức, tích lũy, đầu tư, thanh toán… Tùy vào từng thời điểm mà nhu cầu tăng cao trong những thời kỳ khác nhau và đôi khi xảy ra cùng lúc, do đó tác động mạnh đến cầu vàng trong cùng thời điểm. Hiện nay, USD được xem là đồng tiền mang tính thanh toán toàn cầu, do đó theo thông lệ, các loại hàng hóa hay ngoại tệ khi giao dịch trên thế giới thường được định giá theo USD và vàng cũng không ngoại lệ. Chính vì vậy, bất cứ tác động nào ảnh hưởng đến giá trị đồng USD thì cũng tác động trực tiếp đến biến động giá cả của vàng. Khi xem xét giá trị đồng USD, người ta thường đánh giá thông qua nền kinh tế Mỹ và những yếu tố chính được xem là “chỉ báo” phản ánh sức mạnh hay suy yếu của nền kinh tế Mỹ, đó là tình trạng thị trường nhà ở, thị trường lao động, thị trường tín dụng và thị trường vốn. Ngoài ra, một chỉ báo không thể không kể đến khi đánh giá giá trị đồng USD, đó là quyết định về lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Bất kỳ quyết định nào ảnh hưởng đến việc tăng hay giảm, giữ nguyên lãi suất của Mỹ do FED công bố qua các kỳ họp của Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) đều tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến giá trị đồng USD. Dù quyết định tăng/giảm lãi suất của FED với mục đích kích thích hay kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế hay nhằm giải quyết các vấn đề khác thì trong ngắn hạn hay tức thời, quyết định tăng/giảm lãi suất của Mỹ cũng sẽ làm tăng/giảm giá trị của đồng USD do trong ngắn hạn hay tức thời, giá trị của đồng USD được nâng lên/hạ xuống so với các ngoại tệ khác trong mối tương quan so sánh. Khi giá trị của đồng USD dao động, giá trị các loại hàng hóa được định giá bằng USD cũng dao động tức thời theo quyết định của FED. Ví dụ, trước khi FED cắt giảm lãi suất cơ bản, 1 ounce vàng có giá là 800 USD nhưng khi FED cắt giảm lãi suất thì vàng “vô tình” bị định giá thấp do USD mất giá nên thị trường sẽ tự động điều chỉnh bằng cách nâng giá vàng lên, trong trường hợp này 1 ounce vàng sẽ có giá là 810 USD.
- Sự tương quan trong biến động giá cả giữa các loại hàng hóa trên thị trường là điều không tránh khỏi, nhất là các loại hàng hóa cùng được định giá bằng một loại tiền tệ, trong đó vàng và dầu là 2 loại hàng hóa có mối quan hệ chặt chẽ về giá. Khu vực khai thác và xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới được biết đến là vùng Trung Đông và các nước khu vực này thường dự trữ tài sản dưới dạng vàng, do đó chính nguồn cung dầu mỏ và nguồn cầu về vàng của khu vực Trung Đông quá lớn, ảnh hưởng đến giá cả 2 loại hàng hóa này nên nhiều NĐT thường nhìn vào diễn biến giá dầu trong hiện tại và diễn biến được dự đoán trong tương lai của dầu để từ đó dự đoán cho xu hướng dao động của vàng. Tuy nhiên, cần có sự phân biệt rằng, vàng và dầu là 2 loại hàng hóa khác nhau, dĩ nhiên sẽ chịu những tác động khác nhau khi biến động giá cả. Nếu sự biến động của dầu được đánh giá là đến từ tác động của đồng USD thì dao động giá dầu phần lớn sẽ diễn biến tương quan với biến động của vàng. Nhưng nếu yếu tố tác động khiến cho dầu dao động không đến từ đồng USD, mà vì lý do khác thì khó có thể nói rằng, diễn biến của vàng rồi cũng diễn ra theo chiều hướng như vậy. Dù vậy, sự tăng hay giảm giá dầu đều có tác động ít nhiều đến nền kinh tế Mỹ vì Mỹ là nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới và thật là thảm họa cho nền kinh tế Mỹ nếu một ngày nào đó không đủ lượng dầu đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ thì các hoạt động kinh tế, sản xuất… đều có khả năng ngưng trệ. Tuy nhiên, cần phân tích những tác động của biến động giá dầu đến nền kinh tế Mỹ, qua đó tác động trở lại giá trị đồng USD thì mới dự đoán được diễn biến dao động giá vàng. Mặc dù các vấn đề thể hiện trên đây không thể bao quát hết toàn bộ những yếu tố gây ảnh hưởng đến biến động thị trường nhưng những yếu tố này được đánh giá có tầm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp một cách mạnh mẽ đến giá vàng. Một khi có được tầm nhìn tổng quan về các yếu tố tác động này thì NĐT mới làm quen với thị trường vàng sẽ có được nhận định chính xác hơn trước những thông tin được công bố hàng ngày trên thị trường.
- 'Nhiều hệ lụy khi giá vàng tăng cao' Giá vàng trồi sụt rất thất thường tác động như thế nào đến tỷ giá và nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam? Dưới đây là phân tích của ông Trần Trọng Quốc Khanh, Giám đốc Trung tâm Vàng Ngân hàng Á Châu - ACB. Trong những năm vừa qua, giá vàng thế giới tăng khoảng 20-25%/năm. Sự tăng giá bền vững của vàng thế giới là một trong những nguyên nhân chính khiến giá vàng trong nước tăng theo. Đến giữa tháng 10/2010, giá vàng thế giới đã tăng 25% vượt qua sự kỳ vọng của nhiều nhà đầu tư dù năm 2010 chưa kết thúc. (Nguồn: www.kitco.com) Vàng tăng giá do nhiều nguyên nhân chi phối. Trước hết, nền kinh tế thế giới chưa thực sự hồi phục, cụ thể nền kinh tế Mỹ được xem là đầu tàu kinh tế thế giới chưa thoát khỏi sự suy yếu. Các nhà đầu tư tỏ ra mất niềm tin vào tiền giấy, cụ thể là đôla Mỹ, nên tìm nơi trú ẩn an toàn vào vàng. Ngoài ra, ngày 3/11 tới, Mỹ có thể sẽ thực thi vòng hai chính sách nới lỏng định lượng với tổng trị giá kế hoạch cả gói ước tính một nghìn tỷ USD. Khối lượng cung tiền khổng lồ này sẽ tiếp tục hỗ trợ giá vàng trong ngắn hạn.
- Song song đó, kế hoạch bán vàng giai đoạn 3 cho thời kỳ 5 năm từ 2009 đến 2014, các ngân hàng trung ương châu Âu chỉ mới bán 6,2 tấn vàng cho năm thứ nhất của giai đoạn này. Và đến nay họ đã tạm ngưng bán vàng, làm giảm thiểu một nguồn cung đáng kể cho thị trường kim loại quý. Trong khi một số ngân hàng trung ương khác lại bắt đầu quan tâm Thạc sĩ Trần Trọng Quốc Khanh. đến việc gia tăng dự trữ vàng thay vì dự trữ USD, chẳng hạn như Nga, Ấn Độ và đặc biệt là Trung Quốc. Quý 1/2009, Trung Quốc chỉ giữ 600 tấn vàng. Sang quý 2, quốc gia này đã mua thêm 454 tấn, đưa tỷ lệ dự trữ tăng mạnh đến 1.054 tấn. Sự tăng giá bền vững của vàng thế giới là một trong những nguyên nhân chính khiến giá vàng trong nước tăng theo và hiện xác lập mặt bằng giá khá cao. Các yếu tố trên cho thấy về hình thức vàng đã tăng giá, nhưng về bản chất chính là sự mất giá của USD. Và những biến động của giá vàng sẽ gây ra một số tác động cụ thể đối với tỷ giá và nền kinh tế. Tác động của vàng đối với tỷ giá Trong giai đoạn 5 năm 2006-2010, tỷ giá ngoại tệ USD so với đồng Việt Nam (VND) được điều chỉnh linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ của thị trường và tình hình kinh tế vĩ mô (Xem Bảng thống kê điều chỉnh tỷ giá đính kèm). Sự điều chỉnh tỷ giá USD/VND xuất phát từ nhiều yếu tố kinh tế cơ bản khác nhau, chủ yếu là do (i) cán cân thương mại mất cân đối, (ii) giải pháp kỹ thuật hạn chế nhập siêu, và (iii) chính sách khuyến khích xuất khẩu. Tính từ năm 2008 đến nay, bình quân mỗi năm tỷ giá được điều chỉnh tăng khoảng 5%. Bảng thống kê điều chỉnh tỷ giá USD/VND trong giai đoạn 2006-2010 Điều chỉnh Tỷ lệ Stt Ngày Ghi chú biên độ điều và/hoặc chỉnh tỷ giá bình chung
- cuộc quân Tăng biên độ giao dịch 1 31/12/2006 0,50% 0,25% Tăng biên độ giao dịch 2 24/12/2007 0,75% 0,25% Tăng biên độ giao dịch 3 10/03/2008 1% 0,25% Tăng biên độ giao dịch 4 27/06/2008 2% 1,00% Tăng biên độ giao dịch 5 11/07/2008 3% 1,00% Giữ nguyên biên độ giao dịch, 16.494 lên 6 25/12/2008 3,00% 16.989, 3% tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng Tăng biên độ giao dịch 7 24/03/2009 5% 2,00% Giảm biên độ giao dịch, 17.034 è tăng tỷ giá bình quân liên 8 26/11/2009 3,44% 17.961, 3% ngân hàng Giữ nguyên biên độ giao dịch, 17.961è 9 11/02/2010 3,24% 18.544, 3% tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng Vàng không được xem là một thước đo hoặc một loại hàng hóa chủ lực trong chính sách điều tiết hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và điều hành chính sách vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên, khi vàng tăng giá mạnh, những hệ quả của sự tăng giá đó vẫn gây ra những tác động vừa trực tiếp, vừa gián tiếp đối với tỷ giá USD/VND như trong những năm vừa qua. Khi giá vàng tăng với mức tăng trung bình từ 20-25%/năm, các nhà đầu tư trên thị trường tài chính không thể không chú ý đến vàng, nhất là khi những loại tài sản khác như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, bất động sản v.v… chưa mang lại hiệu quả sinh lợi như mong đợi. Nói cách khác, nhà đầu tư sẽ có xu hướng chuyển dịch một phần vốn vào vàng để vừa đa dạng hóa danh mục đầu tư, vừa hướng tới mục tiêu sinh lợi kỳ vọng. Kể từ tháng 06/2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tạm thời không cấp hạn mức (quota) nhập khẩu vàng cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng và các ngân hàng thương mại như trước đó, trừ trường hợp nhập khẩu can thiệp thị trường.
- Có thể nói cung cầu vàng trong nước không còn liên thông với thế giới nữa. Vì nguồn cung vàng trong nước bị gián đoạn, bị thắt cổ chai và thiếu tính liên tục tại một số thời điểm nhất định do cái “van” nhập khẩu đang tạm khóa, nên chỉ cần nhà đầu tư muốn mua vàng, giá vàng trong nước sẽ tăng lên. Khi lực cầu không được đáp ứng đầy đủ, giá vàng trong nước sẽ tăng mạnh và nhanh hơn ở thế “lệch pha trên” so với giá vàng thế giới với mức chênh lệch giá có khi lên đến hơn 1 triệu đồng/lượng vàng như đã từng xảy ra. - Trường hợp không cho phép nhập khẩu vàng chính thức Ở tình huống mất cân đối cung cầu này, nếu không cho phép nhập khẩu chính thức và nếu mức chênh lệch giá quá hấp dẫn, sẽ có một khối lượng nhập khẩu vàng “không chính thức” vào Việt Nam qua các đường biên giới giáp ranh với Campuchia, Lào và Trung Quốc để giải tỏa “cơn khát” vàng trong nước. Để “nhập” được số vàng này, một số đầu mối phải tích cực thu gom USD trên thị trường tự do để thanh toán số vàng nhập khẩu đó, tạo sức cầu và sự khan hiếm “cục bộ” đối với tiền mặt USD. Giá USD ở thị trường tự do tăng sẽ gây tác động tâm lý làm cho một bộ phận người dân và các doanh nghiệp đang có USD lại càng muốn găm giữ ngoại tệ này, không bán cho các ngân hàng. Do không mua đủ số ngoại tệ cần thiết từ các cá nhân và doanh nghiệp, các ngân hàng không thể giải quyết bán đủ số USD cho các đơn vị có nhu cầu thanh toán ngoại tệ hợp pháp, vừa gây chậm trễ trong thanh toán quốc tế, vừa gây căng thẳng cho thị trường ngoại tệ. Do tình trạng thâm hụt mậu dịch bị mất cân đối trong một thời gian dài (Xem Bảng tóm tắt mức thâm hụt mậu dịch đính kèm) và do giá vàng vẫn tiếp tục tăng chưa có điểm dừng, thực tế cho thấy trong một số tình huống NHNN phải điều chỉnh tỷ giá chính thức theo “tín hiệu đón đầu” của tỷ giá tự do, khi mà người cần ngoại tệ và người có ngoại tệ đã xác lập trước một mức tỷ giá kỳ vọng mới. Đây là tình huống tỷ giá USD/VND tăng trong bối cảnh không cho nhập khẩu vàng chính thức. Bảng tóm tắt mức thâm hụt mậu dịch trong giai đoạn 2006-2010 Kim ngạch Kim ngạch Thâm hụt Tăng/giảm xuất khẩu nhập khẩu mậu dịch so với Năm (tỷ USD) (tỷ USD) (tỷ USD) năm trước 2006 39,6 44,41 -4,81

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Phân tích triển vọng dự toán báo cáo tài chính
17 p |
361 |
61
-
Đề tài: Đánh giá hiện trạng khai thác & quản lý tài nguyên trên lưu vực sông đồng nai đoạn chảy qua TP.Biên Hòa & đề xuất các biện pháp khắc phục
23 p |
293 |
47
-
Tiểu luận: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thiêu khử lưu huỳnh quặng niken Bản Phúc trong lò bằng và lò quay
10 p |
270 |
41
-
Bài tập nhóm: Phân tích dòng tiền
59 p |
227 |
35
-
Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động tại Cty hữu nghị - 4
10 p |
125 |
32
-
Bài tiểu luận: Quá trình lắng
42 p |
182 |
15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Văn hóa học: Làn sóng văn hóa Hàn Quốc trong thanh niên ở thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang hiện nay
26 p |
161 |
15
-
Luận văn Thạc sĩ Công nghệ thông tin: Dự án quản lý nội dung cho trang báo điện tử
64 p |
52 |
14
-
Khóa luận tốt nghiệp Tài chính: Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Sản xuất Lợi Đông
115 p |
69 |
11
-
Báo cáo tóm tắt Đề tài khoa học và công nghệ cấp Trường: Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài giảng môn học sửa chữa và bảo trì máy tính kết hợp nền tảng web và điện toán đám mây
65 p |
62 |
10
-
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học kết hợp mô hình mô phỏng – tối ưu – trí tuệ nhân tạo trong vận hành hệ thống hồ chứa đa mục tiêu, áp dụng cho lưu vực sông Ba
148 p |
35 |
7
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật xây dựng:
69 p |
30 |
6
-
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Ứng dụng phương pháp tính toán động lực học lưu chất (CFD) trong tối ưu hóa hình dạng mũi tàu quả lê
158 p |
38 |
6
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Dưới vi phân suy rộng và điều kiện cần cho nghiệm hữu hiệu của bài toán tối ưu đa mục tiêu
40 p |
29 |
5
-
Luận văn Thạc sĩ Công nghệ Thông tin: Phát triển ứng dụng sử dụng kiến trúc công nghệ MVC cho bài toán dự báo dòng tiền doanh nghiệp
84 p |
40 |
5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Hóa học: Dạy học chủ đề tích hợp nội dung thực tiễn với kiến thức hóa học chương Oxi – Lưu huỳnh lớp 10 nhằm nâng cao kết quả học tập của học sinh
36 p |
35 |
3
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Hóa học: Tuyển chọn, xây dựng và sử dụng các thí nghiệm hóa học, bài tập thực nghiệm để tạo hứng thú và rèn luyện tư duy cho học sinh qua dạy học phần phi kim, Hóa học 10 nâng cao
31 p |
21 |
3


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
