intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

BÀI VIẾT 1: VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Chia sẻ: Tu Oanh05 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

105
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khái niệm Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: BÀI VIẾT 1: VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

  1. BÀI VIẾT 1: VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
  2. BÀI VIẾT 1: VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Người viết: Huỳnh Quang Dũng. Lớp Ngân hàng 4 ngày 1 I. Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng 1. Khái niệm Ngân hàng và chức năng của Ngân hàng: 1.1 Khái niệm Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân h àng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có th ể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) m à chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân h àng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân h àng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân h àng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Một ví dụ điển hình về nỗ lực của các tổ chức tài chính trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng được ghi nhận vào những năm 1980 khi rất nhiều công ty bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán lớn, bao gồm cả Merrill Lynch và Dreyfus Corporation, Prudential nh ảy vào lĩnh vực ngân hàng bằng cách thành lập cái mà họ gọi là “các ngân hàng phi ngân hàn g”. Họ nhận thức được rằng, theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng. Merrill Lynch và các tổ chức phi ngân hàng khác nhận định rằng họ có thể né tránh những quy định này và sẽ có thể cung cấp dịch vụ ngân hàng khác cho công chúng. Tuy nhiên, Cục Dự trữ liên bang (Fed), không muốn thấy sự xâm phạm vào lĩnh vực ngân hàng của các “ngân hàng giả”, đã đưa ra quyết định rằng: việc cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình cũng là một trong những hoạt động ngân hàng tiêu biểu để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Điều đó đưa Merrill Lynch và các tổ chức tương tự trở thành các ngân hàng thực thụ và phải tuân theo qui định chặt chẽ của Chính phủ. Sau đó các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán hàng đầu đã kiện lên tòa liên bang, buộc tội Fed đã vượt quá quyền hạn. Năm 1984, tòa án liên bang công nhận này và buộc Fed phải cho phép tồn tại h ình thức “các ngân hàng phi Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 1/16
  3. ngân hàng” và cho họ tham gia bảo hiểm tiền gửi liên bang. Chỉ trong vòng vài tuần sau phán quyết này, hàng tá đơn xin thành lập “ngân hàng phi ngân hàng” đã được nộp . E.F. Hutton, J.C.Penney và Sears Roebuck là những công ty cung cấp dịch vụ tài chính hàng đầu được tổ chức dưới dạng ngân hàng phi ngân hàng. Hơn thế, các công ty sở hữu ngân hàng lớn của Citicorp và Chase Manhattan cũng thành lập các “ngân hàng phi ngân hàng” của riêng họ bởi vì với loại ngân hàng này họ có thể mở rộng chi nhánh tự do qua biên giới bang. Năm 1987, Quốc hội hạn chế sự bành chướng của các “ngân hàng phi ngân hàng” bằng cách ràng buộc các công ty sở hữu ngân hàng phi ngân hàng vào những quy định tương tự như các tổ chức ngân hàng truyền thống. Cuối cùng, Quốc hội đã “bắn phát súng cuối cùng” trong việc đưa ra một định nghĩa mang tính pháp lý về ngân h àng: ngân hàng được định nghĩa như một công ty là thành viên của Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang. Đây thật là một sự thay đổi thông minh vì theo luật hiện hành của Mỹ, người ta không xác định ngân hàng trên cơ sở những hoạt động của nó m à trên cơ sở cơ quan chính phủ nào sẽ bảo hiểm cho tiền gửi của nó. Dòng nước đã bị vẩn đục. Vào năm 1991, chính quyền của tổng thống George Bush đề nghị cho phép các ngân hàng với vốn tự có thích hợp sẽ được quyền cung cấp hàng loạt những dịch vụ mới và được phép liên kết với các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán, các công ty đầu tư (các quĩ tương hỗ); cho phép công ty công nghiệp sở hữu các công ty cung cấp dịch vụ tài chính ( những công ty này có thể điều hành ngân hàng và các công ty bảo hiểm); cho phép các công ty ngân hàng đầu tư vào những ngành công nghiệp phi tài chính trên cơ sở một số điều kiện ràng buộc. Do đó, các hàng rào pháp lý có tính lịch sử ở Hoa kỳ phân tách hoạt động ngân hàng với các hoạt động kinh doanh khác – điều đã tồn tại qua nhiều thế hệ - đang bị tấn công và có thể sẽ sớm đưa đến một sự thay đổi lớn lao trong việc định nghĩa ngân hàng là gì và nó cung cấp những dịch vụ gì. Kết qủa của tất cả những thay đổi về pháp lý dẫn đến tình trạng có sự nhầm lẫn trong công chúng khi phân biệt ngân h àng với một số tổ chức tài chính khác. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục và dịch vụ tài chính đa hạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức nằng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. 1.2 Chức năng của Ngân hàng: Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các “Bách hóa tài chính” (financial department stores) và người ta bắt đầu thấy xuất hiện các khẩu hiệu quảng cáo tương tự như: Ngân hàng của bạn – Một tổ chức tài chính cung cấp đầy đủ dịch vụ (Your Bank – a full service Financial institution) (xem Sơ đồ 1 - 1) Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 2/16
  4. Sơ đồ 1 – 1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay: 1.3 Các họat động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại: Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch vụ quản lý cho công chúng, đồng thời nó cũng thực hiện nhiều vai trò khác trong nền kinh tế (xem bảng 1-1). Thành công của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức giá cạnh tranh. Vậy ngày nay xã hội đòi hỏi những dịch vụ gì từ phía các ngân hàng? 1.3.1 Các dịch vụ truyền thống của ngân hàng: Thực hiện trao đổi ngoại tệ. Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, ch ẳng hạn Franc hay Pesos và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách h àng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết thương phiếu sang cho vay Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 3/16
  5. trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất. Nhận tiền gửi. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân h àng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách h àng – một qu ỹ sinh lợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao. Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Trong thời kỳ Trung Cổ và vào những năm đầu cách mạng Công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu – Mỹ. Thông thường, ngân hàng đượccấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được. Các ngân hàng đã cam kết cho Chính phủ Mỹ vay trong thời kỳ chiến tranh. Ngân hàng Bank of North America được Quốc hội cho phép thành lập năm 1781, ngân hàng này được thành lập để tài trợ cho cuộc đấu tranh xóa bỏ sự đô hộ của nước Anh và đưa Mỹ trở thành quốc gia có chủ quyền. Cung cấp các tài khoản giao dịch. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan trong nhất được phát triển trong thời kỳ n ày là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit) – một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua h àng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khỏan tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn. Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác (trust service). Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thông th ường cho cá nhân, hộ gia đình; và ủ y thác thương mại cho các doanh nghiệp. Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 4/16
  6. Thông qua phòng Ủy thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khỏan tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là người được ủ y thác trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả, và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Trong phòng ủ y thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò như những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều n ày đòi hỏi phòng ủ y thác trả lãi hoặc cổ tức cho chứng khoán của công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán toàn bộ cho người nắm giữ chứng khoán. 1.3.2 Những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây Cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế ký này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ tăng trưởng này gần đây đã chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong khi nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất. Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ. Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân h àng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trong khi các ngân hàng có khuynh hư ớng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hường đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 5/16
  7. rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cũng cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Dịch vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đ ầu các qui định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đ ã bỏ phiếu cho phép ngân h àng quốc gia sở hữu ít nhất một số tài sản cho thuê sau khi hợp đồng thuê mua đã hết hạn. Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì bới tư cách là một người chủ thực sự của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế. Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thư ờng được thực hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà thầu, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Những ví dụ nổi bật về loại hình công ty đầu tư này là Bankers Trust Venture Capital anh Citicorp Venture,Inc Bán các dịch vụ bảo hiểm. Từ nhiều năm nay, các ngân h àng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân h àng thương mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như ôtô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh ho ặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó. Một số bang như Delawake và South Dakota đã cho phép ngân hàng cung cấp các dịch vụ bảo hiểm được quy định trên toàn quốc. Những ngân hàng hoạt động trên toàn quốc nếu được phép sẽ có thể cung cấp các dịchvụ về bảo hiểm thông qua các chi nhánh riêng biệt, những quy mô đầu tư của nó chỉ được giới hạn ở mực 10% tổng số vốn chủ sở hữu. Gần đâ y, Citicorp đã thông báo kế hoạch sáp nhập với công ty bảo hiểm Travelers tromg một số nỗ lực nhằm đ ưa ra các dịch vụ bảo hiêm đa dạng hơn. Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủ y thác ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 6/16
  8. Ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí (được biết như IRAS và Keogle) cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến. Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân h àng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách h àng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng mua lại một công ty môi giới đang hoạt động (ví dụ Bank of America mua Robertson Stephens Co.) hoặc thành lập các liên doanh với một công ty môi giới. Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư (investment products) đ ặc biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại h ình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai ( chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu nhập hay đạt được sự tăng giá trị vốn). Trong khi quá trình phát triển của các kế hoạch trợ cấp diễn ra khá chậm do những vụ kiện tụng bởi các đối thủ cạnh tranh chống lại sự mở rộng của ngân hàng sang lĩnh vực dịch vụ mới này thì việc cung cấp cổ phiếu trong quỹ vốn ngân hàng quản lý chiếm 15% tổng giá trị tài sản của quỹ tương hỗ trong những năm 90. Một vài ngân hàng đã tổ chức những chi nhánh đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ n ày (ví dụ: Citicorp’s Investment Services) hoặc liên doanh với các nhà kinh doanh và môi giới chứng khoán. Gần đây, hoạt động cung cấp nghiệp vụ quỹ tương hỗ của ngân hàng đã có nhiều giảm sút do mức thu nhập không còn cao như trước, do những qui định nghiêm ngắt hơn và đồng thời do sự thay đổi trong quan điểm đầu tư của công chúng. Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân hàng ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách h àng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác. Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 7/16
  9. II. Thực trạng về họat động hệ thống Ngân hàng Thương Mại Việt nam giai đoạn 2006-2008: 1. Các số liệu thống kê: Đây là giai đoạn các NHTM đẩy mạnh tiến trình cơ cấu lại toàn diện hệ thống ngân hàng để thích nghi với lộ trình cam kết mà Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về tổ chức bộ máy, tăng cường năng lực hoạt động, quản lý kinh doanh, năng lực tài chính, phân biệt chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM. Còn đối với các NHTM cổ phần đã được củng cố và phát triển theo hướng tăng cường năng lực quản lý về tài chính, đồng thời giải thể, sát nhập, hợp nhất hoặc bán lại các NHTM cổ phần yếu kém và hiệu quả kinh doanh thấp. Đối với các NHTM liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, được bảo đảm quyền kinh doanh theo các cam kết đã được ký kết và hội nhập. Tham khảo một số các thống kê cơ bản về hệ thống Ngân h àng TM tại Việt nam Bảng 1 Cơ cấu hệ thống NHTM ở Việt Nam thời kỳ 2005 – 2008 Loại hình ngân hàng 2005 2006 2007 2008 6* Ngân hàng thương mại Nhà nước 5 6 7 Ngân hàng thương mại cổ phần 37 37 36 37 Ngân hàng liên doanh 4 5 6 6 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 28 31 31 33 Tổng cộng 74 79 80 82 (Nguồn: Báo cáo của NHNN) Bảng 2 Dư nợ cho vay của hệ thống NHTM ở Việt Nam đối với nền kinh tế thời kỳ 2006 - 2008 2006 2007 2008 Năm GDP (tỷ đồng) 839.200 974.200 1.144.000 Dư nợ cho vay (tỷ đông) 732.023 992.013 1.124.723 Tốc độ tăng trưởng (%) 22,8 25,2 53,7 (Nguồn: Báo cáo của NHNN) Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 8/16
  10. Bảng 3 Thị phần các NHTM ở Việt Nam thời kỳ 2006 - 2008 2006 2007 2008 A/ Tổng thị phần tiền gửi (%) 1. NHTM Nhà nước 72,2 68,4 65,1 2. NHTM Cổ phần 19,5 23,7 25,3 3. Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và liên doanh 8,3 7,9 9,6 B/ Tổng thị phần tín dụng (%) 1. NHTM Nhà nước 62,1 57,4 49,2 2. NHTM Cổ phần 27,5 35,6 35,7 3. Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và liên doanh 10,4 7,0 13,1 (Nguồn: Báo cáo của NHNN) Bảng 4 Tốc độ tăng tín dụng (CRED) và huy động vốn (DEPO) của hệ thống NHTM ở Việt Nam thời kỳ 2006 - 2008 2006 2007 2008 Năm Tốc độ tăng huy động vốn (%) 40,21 30,68 27,14 Tốc độ tăng tín dụng (%) 53,70 25,44 22,03 2. Đánh giá hoạt động của Ngành Ngân hàng trong giai đ ọan 2006-2008 Đánh giá về họat động ngân hàng trong giai đọan 2006-2008: Ngoài những yếu kém cơ bản từ trước đến giờ vẫn còn chậm được giải quyết như vấn đề về Vốn tự có thấp, trình độ cán bộ Ngân hàng còn chưa theo kịp được với sự biến hóa của cơ chế thị trường. Công nghệ Ngân hàng lạc hậu. Năng lực cạnh tranh còn yếu. Cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém. Dịch vụ ngân hàng đơn điệu đã được nói tới nhiều. Thì trong bài viết này phân tích thêm một số điều đáng chú ý phát sinh trong giai đọan 2006-2008. Về mặt yếu kém xảy ra rõ nét nhất trong 2 năm 2006-2007: Khả năng dự báo yếu kém. Có lúc bỏ quên nhiều chức năng điều tiết vĩ mô - của Ngân hàng Nhà nước khiến cho đất nước bị rơi vào tình trạng lạm phát do tăng trưởng quá nóng. Vấn đề cấp phép th ành lập mới các ngân hàng tràn lan gây tình trạng giảm chất lượng trong ngành Ngân hàng, và tăng nguy cơ lạm phát do nhiều Ngân h àng tham gia thị trường sẽ đẩy mạnh cho vay. Các công cụ quản lý tiền tệ chưa được áp dụng đúng mức và đầy đủ. Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 9/16
  11. Viêc chạy theo các chỉ tiêu tăng trưởng của Chính phủ mà lãng quên vai trò - điều tiết của Ngân hàng Trung Ương đã đưa nền kinh tế vào tình trạng phát triển nóng và lạn phát tăng cao vào cuối năm 2007. Tuy nhiên trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã thể hiện khá tốt vai trò của Ngân hàng Trung Ương. thể hiện ở công tác ngăn chặn thành công cơn sốt lạm phát : Năm 2008 là năm đầy “sóng gió” của thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng, nhưng với những bước đi vừa thận trọng, quyết liệt, vừa linh hoạt, táo bạo ngành Ngân hàng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, thách thức chưa từng có để giữ ổn định thị trường tiền tệ và bảo đảm an toàn hệ thống, đồng thời góp phần quan trọng kiềm chế thành công lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bước đầu ngăn chặn đà suy giảm kinh tế của nước ta. Tuy có thời điểm thị trường tiền tệ diễn biến không thuận lợi và cũng còn một vài ý kiến chưa đồng thuận cao với các biện pháp điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nhưng có thể thấy kết quả phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 có đóng góp quan trọng, thiết thực của ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Nhà nước nói riêng. 2.1. Sử dụng biện pháp phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc để hút tiền về từ lưu thông (Quyết định số 346/QĐ-NHNN ngày 13/2/2008). Biện pháp này tạo nhiều thuận lợi hơn cho các tổ chức tín dụng so với biện pháp tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc vì lãi suất tín phiếu cao hơn lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cùng thời điểm và đối tượng mua tín phiếu chỉ là các tổ chức tín dụng có quy mô huy động vốn lớn (số dư vốn huy động bằng VND đến ngày 31/01/2008 trên 1.000 tỷ đồng), trong đó không bao gồm Ngân h àng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, ngân h àng thương mại cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân. Từ ngày 21/10/2008, NHNN đ ã cho phép các tổ chức tín dụng thanh toán trước hạn tín phiếu NHNN bắt buộc nếu có nhu cầu. 2.2 Quy định trần lãi suất huy động VND để chấm dứt cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động giữa các tổ chức tín dụng. Biện pháp này được NHNN áp dụng từ ngày 26/2/2008 đến ngày 15/5/2008. Đây là biện pháp hành chính cần thiết và kịp thời nhằm lập lại trật tự và giữ ổn định thị trường tiền tệ, được Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam rất ủng hộ. Đồng thời, NHNN hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản thông qua công cụ tái cấp vốn. 2.3. Ban hành cơ chế điều hành lãi suất cơ bản mới. Sau 6 năm thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận, kể từ ngày 19/5/2008, NHNN đã thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với Luật NHNN và Bộ luật Dân sự, trong đó các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 10/16
  12. VND đối với khách hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Với cơ chế này, lãi suất cơ bản đã trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ hữu hiệu của NHNN và thu hút sự quan tâm đặc biệt không chỉ của các tổ chức tín dụng mà của cả nền kinh tế. 2.4. Lãi suất cơ bản được điều chỉnh linh hoạt chưa từng có. Trước những diễn biến nhanh, phức tạp của tình hình kinh tế trong và ngoài nước năm 2008, NHNN đ ã điều chỉnh lãi suất cơ bản tới 7 lần, trong đó có 3 lần điều chỉnh tăng (từ mức 8,25%/năm lên 8,75%, 12% và 14%/năm) nh ằm kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng dư nợ tín dụng; 4 lần điều chỉnh giảm (từ 14%/năm xuống 13%, 12%, 11% và 8,5%/năm) nhằm nới lỏng từng bước chính sách tiền tệ, góp phần ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Với sự điều chỉnh n ày, mức ấn định lãi suất cho vay tối đa của các TCTD đối với khách hàng đã giảm từ mức 21%/năm xuống 12,75%/năm; mặt bằng lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng hiện nay thấp hơn so với cuối năm 2007. 2.5. Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tín phiếu NHNN bắt buộc phát huy tác dụng đắc lực trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Để hỗ trợ tăng trưởng hợp lý trong bối cảnh kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu, NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc (từ 7,8% lên 13%/năm kể từ ngày 1/7/2008) và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc (từ 1,2% lên 3,6%/năm kể từ ngày 1/9/2008, lên 5%/năm kể từ ngày 01/10/2008 và lên 10%/năm kể từ ngày 21/10/2008) nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng điều chỉnh giảm lãi suất cho vay thấp hơn mức ấn định lãi suất kinh doanh tối đa. Đến thời điểm hiện nay, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc là 9%/năm và lãi suất tín phiếu NHNN bắt buộc là 4,5%/năm. 2.6. Biên độ ấn định tỷ giá mua – bán đồng Đôla Mỹ của các tổ chức tín dụng được nới rộng tới 3 lần trong năm. Để tạo sự chủ động, linh hoạt hơn cho các tổ chức tín dụng trong ấn định lãi suất kinh doanh trước diễn biến cung cầu ngoại tệ có nhiều biến động phức tạp, khó lường, trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần nới rộng biên độ ấn định tỷ giá mua – bán đồng Đôla Mỹ của các tổ chức tín dụng từ mức ±0,75% lên ±1%, ±2% và ±3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Đây là tần suất nới rộng chưa từng có từ trước tới nay. 2.7. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng 2 lần được điều chỉnh tăng với mức độ lớn. Trước tình trạng nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2008 tăng cao làm ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô, cùng với các biện pháp can thiệp khác, ngày 10/6/2008, NHNN đã điều chỉnh tăng 2% tỷ giá b ình quân liên ngân hàng (từ 16.139VND/USD lên 16.461VND/USD). Biện pháp này đã tạo ra mặt bằng tỷ giá mới, góp phần khuyến khích xuất phần và hạn chế hiệu quả nhập siêu. Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 11/16
  13. Cũng với mục đích đó, ngày 25/12/2008, NHNN đ ã điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 3% (lên m ức 16.989VND/USD) nhằm tạo ra mặt bằng tỷ giá mới cho năm 2009, góp phần hỗ trợ xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu, đảm bảo sự bền vững của cán cân thanh toán quốc tế và hạn chế tâm lý kỳ vọng tỷ giá tăng cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh. 2.8. Yêu cầu các tổ chức tín dụng quy định cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo quyết định xét duyệt hồ sơ đề nghị vay vốn. Đây là một bước đi quan trọng nhằm tạo sự b ình đẳng và minh bạch hơn trong quan hệ tín dụng giữa TCTD và khách hàng, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh và ngăn chặn suy giảm kinh tế. Cùng với việc quy định cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo quyết định xét duyệt hồ s ơ đề nghị vay vốn của khách hàng, các TCTD phải nêu rõ căn cứ từ chối và thông báo bằng văn bản cho khách hàng trong trường hợp từ chối cho vay và đồng gửi NHNN chi nhánh trên địa bàn. 2.9. Thiết lập đường dây nóng tại 4 đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước. Trước những diễn biến phức tạp của thị trường tiền tệ, tín dụng, ngoại hối trong thời gian qua, từ ngày 1/7/2008, NHNN đã thiết lập đường dây nóng tại 4 đơn vị thuộc NHNN trên địa bàn Thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh để nắm bắt, xử lý kịp thời phản ánh, kiến nghị liên quan đến hoạt động ngân h àng của doanh nghiệp, người dân. Trong 2 tháng đầu thiết lập, đường dây nóng của NHNN đã tiếp nhận lượng thông tin phản ánh rất lớn (hơn 2.000 phản ánh). Những thông tin này đã được NHNN kiểm tra, xử lý kịp thời, trong đó đ ã yêu cầu tổ chức tín dụng kiểm điểm, kỷ luật, cách chức một số chức danh lãnh đạo và cán bộ, nhân viên có sai phạm. Biện pháp này đã góp phần quan trọng duy trì ổn định thị trường tiền tệ, ngân hàng, củng cố lòng tin của doanh nghiệp, người dân đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam và được dư luận trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao. Kênh thông tin này không ch ỉ có ích cho Ngân hàng Nhà nước trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành mà còn giúp người dân hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn chủ trương, chính sách và các quy định về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. 2.10. Củng cố vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố. Năm 2008, vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố được củng cố và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nhất là tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Biện pháp này đã giúp NHNN nắm bắt sát hơn, kịp thời hơn tình hình thực tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong phạm vi cả nước, từ đó có những biện pháp ứng phó, xử lý hiệu quả hơn, đặc biệt là trong những thời điểm thị trường có những diễn biến phức tạp, khó lường. Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 12/16
  14. 3. Nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm của ngành Ngân hàng trong thời gian tới: Dự báo kinh tế thế giới năm 2009 tăng trưởng khoảng 2,2%, thấp hơn năm 2008 (3,7%); nhiều nước phát triển đang trong tình trạng suy thoái, các nước mới nổi và đang phát triển suy giảm hoặc tăng trưởng ở mức thấp. Giá cả nguyên, nhiên vật liệu cơ bản và hàng hoá tiêu dùng có xu hư ớng giảm. Tiết kiệm, đầu tư và khối lượng vốn luân chuyển ở các nền kinh tế suy giảm hoặc tăng trưởng với mức độ thấp so với các năm trước. Tình hình này tác động tiêu cực đối với cán cân thanh toán quốc tế, cân đối ngân sách nhà nước và tăng trưởng kinh tế của nước ta. Trước những khó khăn chung của nền kinh tế, nhiệm vụ đặt ra cho ng ành Ngân hàng trong năm 2009 rất nặng nề. Căn cứ Nghị quyết Quốc hội tại Kỳ họp thứ tư Quốc hội Khoá XII và các Nghị quyết của Chính phủ, Ngân h àng Nhà nước xác định định hướng và 9 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2009 như sau: 3.1. Định hướng: Hoàn thiện một bước cơ bản thể chế pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển ngành ngân hàng và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân h àng. Tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt và chủ động trong điều hành nhằm kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng đối với nền kinh tế, sử dụng hiệu quả công cụ lãi suất và tỷ giá, đảm bảo phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô và các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế. Phát triển vững chắc và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Tăng cường vai trò quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội về dịch vụ, tiện ích ngân hàng. 3.2. Nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm : (1). Xây dựng, hoàn thiện dự án Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng để trình Quốc hội Khóa XII cho ý kiến vào Kỳ họp thứ 6. Nghiên cứu, chỉnh sửa, hoàn thiện các quy định về ngoại hối, phân loại nợ, về bảo đảm an toàn... phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế ở Việt Nam. Xây dựng chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông dân và nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Ban chấp h ành Trung ương Đảng lần thứ 7, Khoá X. (2). Sử dụng đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ nhằm phát huy hiệu lực, hiệu quả các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ. Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 13/16
  15. - Điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất và các công cụ khác nhằm hỗ trợ các ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh khoản cao và an toàn hệ thống. - Điều hành tỉ giá linh hoạt theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, có biện pháp can thiệp kịp thời để ổn định thị trường ngoại hối. - Theo dõi, phân tích, đánh giá và dự báo sát hơn diễn biến kinh tế - tiền tệ trong nước và thế giới để đưa ra các giải pháp phù hợp trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm đạt được các mục tiêu tiền tệ - tín dụng do Quốc hội và Chính phủ đề ra. Tập trung nâng cao năng lực dự báo để phục vụ tốt cho điều h ành chính sách tiền tệ. - Tăng cường phối hợp với các bộ ngành liên quan để kết hợp chặt chẽ giữa điều hành chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm phát v à ngăn chặn suy giảm kinh tế. (3). Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng. Thực hiện tăng trưởng tín dụng phù hợp với mức độ kiểm soát lạm phát. - Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho các dự án có hiệu quả thuộc lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, phát triển nông nghiệp, nông thôn, mở rộng cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Thực hiện các biện pháp đẩy mạnh huy động vốn nhằm khai thác tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ phát triển kinh tế. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ đối với hộ nông dân bị thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. (4). Tiếp tục triển khai mạnh mẽ việc đổi mới công tác thanh tra, giám sát ngân hàng. Kết hợp chặt chẽ giữa công tác giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Triển khai thanh tra, giám sát một cách thống nhất, có trọng tâm, trọng điểm đối với các tổ chức tín dụng. Xử lý kiên quyết, kịp thời các sai phạm phát hiện qua thanh tra. Từng bước áp dụng Sổ tay thanh tra trên cơ sở rủi ro để tiến hành tranh tra đối với các tổ chức tín dụng. - Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng, ban hành các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động thanh tra, giám sát ngân h àng. - Ổn định bộ máy tổ chức Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng. Tăng cư ờng số lượng, chất lượng cán bộ làm công tác thanh tra, giám sát ngân hàng. Th ực hiện có hiệu quả việc phân công cán bộ thanh tra theo dõi và chịu trách nhiệm an toàn của từng chi nhánh, đơn vị tổ chức tín dụng trên địa bàn. (5). Phát triển vững chắc và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn hệ thống. Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 14/16
  16. - Xem xét thận trọng việc thành lập mới ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Nâng cao vai trò qu ản lý, giám sát của Ngân h àng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng phi ngân h àng và các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng có hoạt động ngân hàng. - Giám sát chặt chẽ việc chấp hành quy định về bảo đảm khả năng thanh toán và các tỷ lệ an toàn khác của tổ chức tín dụng. - Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá các ngân h àng thương mại nhà nước theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. - Nâng cao quản trị ngân hàng thương mại, trong đó trọng tâm là quản trị rủi ro nhằm đạt hệ số an toàn vốn và các chuẩn mực an toàn tiến dần tới chuẩn mực quốc tế; Củng cố và hoàn thiện bộ máy kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ; Nâng cao hiệu quả quản trị nguồn ngân lực; Phát triển hệ thống thông tin quản trị ngân h àng; Tăng cường nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới, đa dạng hoá dịch vụ ngân h àng và tăng cường quản lý quan hệ khách hàng; Chú trọng phát triển thương hiệu ngân hàng; Xây dựng kế hoạch tài chính hợp lý vừa đảm bảo sự phát triển, vừa chia sẻ khó khăn chung của nền kinh tế. - Tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân. Tập trung xử lý dứt điểm các tồn tại ở những quỹ tín dụng nhân dân hoạt động yếu kém để ho àn thành công tác củng cố, chấn chỉnh hoạt động quỹ tín dụng nhân dân theo tinh thần Chỉ thị 57/CT-TW của Bộ Chính trị. Kiện toàn tổ chức và hoạt động của Hiệp hội quỹ tín dụng nhân dân. (6). Tiếp tục triển khai các Đề án th ành phần thuộc Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2020, trong đó việc triển khai giai đoạn II Chỉ thị 20/2007/CT-TTg ngày 24/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước chỉ thực hiện ở những địa phương có đủ điều kiện và phải đảm bảo phù hợp với khả năng cung ứng dịch vụ của các tổ chức tín dụng tại địa phương. - Tập trung hoàn thành Dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn II. Triển khai các tiểu dự án thành phần Dự án Hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hoá ngân hàng đảm bảo đúng tiến độ đề ra. (7). Tăng cường hợp tác quốc tế với Ngân h àng Trung ương các nước, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm thu hút các nguồn tài chính và tận dụng sự trợ giúp kỹ thuật về công nghệ, kỹ năng quản lý tiên tiến. - Tiếp tục triển khai thực hiện lộ trình mở cửa các dịch vụ ngân hàng theo cam kết với WTO, các cam kết song phương và đa phương khác. - Chuẩn bị và thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ Chủ tọa Hội đồng Thống đốc IMF/WB nhiệm kỳ 2009; chuẩn bị các nội dung cần thiết cho việc đảm nhiệm vai trò Chủ toạ Hội nghị Thống đốc và Phó Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN năm 2010. Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 15/16
  17. (8). Thực hiện tốt công tác in, đúc tiền, tổ chức điều ho à kịp thời lượng tiền mặt trong lưu thông nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế cả về giá trị và cơ cấu mệnh giá, chất lượng đồng tiền trong lưu thông. (9). Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các mặt hoạt động của ngành Ngân hàng, trong đó chủ động tuyên truyền, thông tin về các cơ chế, chính sách tiền tệ, tín dụng, các biện pháp bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Tài liệu tham khảo: - Lý thuyết Ngân hàng Thương mại. - Các bài viết trên Website của Ngân hàng Nhà nước. Các vấn đề NHTM Việt nam/ Huỳnh Quang Dũng trang 16/16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2