intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bàn thêm về nguồn gốc đình làng

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

54
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đình làng là một thiết chế văn hóa, tín ngưỡng có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân người Việt trong lịch sử cũng như đương đại. Bởi vậy, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về đình qua nhiều phương diện,trong đó có việc truy nguyên nguồn gốc đình làng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bàn thêm về nguồn gốc đình làng

BÀN THÊM VỀ NGUỒN GỐC ĐÌNH LÀNG<br /> KIỀU THU HOẠCH<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Đình làng là một thiết chế văn hóa, tín ngưỡng có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của<br /> cộng đồng cư dân người Việt trong lịch sử cũng như đương đại. Bởi vậy, đã xuất hiện nhiều công trình<br /> nghiên cứu về đình qua nhiều phương diện, trong đó có việc truy nguyên nguồn gốc đình làng. Lâu nay,<br /> cũng đã có một số tác giả bàn về nguồn gốc đình làng, song ý kiến còn khác nhau, và hầu hết các tác<br /> giả đều chưa đưa ra được những cứ liệu đáng tin cậy về mặt lịch sử cũng như về mặt khoa học. Thông<br /> qua nghiên cứu một số tài liệu từ điển học, công trình nghiên cứu về đình làng và tư liệu văn bia cũng<br /> như một số tư liệu thành văn khác, chúng tôi muốn bàn thêm để làm rõ hơn về vấn đề nguồn gốc đình<br /> làng qua việc tiếp cận, lý giải từ điển học và ngôn ngữ học; tiếp cận đình từ góc nhìn chức năng; tìm<br /> niên đại xuất hiện của đình.<br /> Từ khóa: Đình làng, chức năng, nguồn gốc<br /> Abstract<br /> The village hall is a cultural and religious institution that plays an important role in the cultural life<br /> of the Vietnamese community in history as well as in contemporary life. Therefore, there have been<br /> many studies on the village hall on many aspects, including the trace of the origin of the village hall.<br /> There have been some authors discussing the origins of the village hall for a long time, but the opinions<br /> differ, and most authors have failed to provide reliable historical and scientific aspect. Through the<br /> study of a number of dictionaries, village hall studies and epistemological documents as well as some<br /> other written texts, we would like to discuss further to clarify the issue of the origin of the village hall<br /> through access, interpretation of language and linguistics; approaching village hall from a functional<br /> perspective; finding age of the village hall.<br /> Keyword: village hall, function, origin<br /> <br /> 1. Về vấn đề chức năng của đình làng<br /> <br /> T<br /> <br /> heo tìm hiểu của chúng tôi, người<br /> nói đến đình làng sớm nhất và sơ bộ<br /> định nghĩa về chức năng cơ bản của<br /> ngôi đình có lẽ là Cha/ Linh mục Alexandre De<br /> Rhodes trong cuốn Từ điển Annam - Lusitan - La<br /> Tinh (Thường gọi Từđiển Việt - Bồ La) tên đầy đủ<br /> theo nguyên văn là Dictionarium Annamiticum<br /> Lusitanum et Latinum, Roma, 1651. (Hiện có<br /> bản phiên dịch của nhóm Thanh Lãng, Hoàng<br /> <br /> Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, do Nxb. Khoa học<br /> xã hội xuất bản năm 1991). Ở mục từ Đình,<br /> được ghi như sau:<br /> - Đình: Nhà, nơi cộng đồng hội họp để bàn<br /> định công việc.<br /> - Đình hát: Nhà, nơi ca hát để tôn kính quỷ<br /> thần.<br /> Điều thú vị là mục từ đình hát trong Từ điển<br /> A. De Rhodes lại trùng hợp hoàn toàn với từ<br /> <br /> KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT<br /> <br /> Ảnh 1. Cổng vào Kháp đình ở làng Vạn Vĩ - Nguồn ảnh: Tác giả<br /> <br /> Ảnh 2. Bên trong Kháp đình làng Vạn Vĩ - Nguồn ảnh: Tác giả<br /> <br /> thờ thần Trấn Hải đại vương và<br /> Hưng Đạo đại vương... Hai gian tả<br /> hữu khá rộng có thể chứa vài trăm<br /> người trong thôn làng tới ngồi ăn<br /> uống, ca hát trong các dịp lễ tiết.<br /> Theo các nhà nghiên cứu folklore<br /> Trung Quốc thì kháp đình có nhiều<br /> chức năng, như thờ thần, vui chơi<br /> diễn xướng văn nghệ trong ngày lễ<br /> hội, ăn uống việc làng, và là nơi hội<br /> họp cộng đồng. Giới nghiên cứu<br /> ngôn ngữ Trung Quốc cho biết,<br /> chữ kháp là ghi theo âm của người<br /> Kinh, gồm hai ý nghĩa: Một là hát<br /> xướng, nên có thể dịch kháp đình<br /> là ca đình (đình hát). Hai là ăn, nên<br /> có thể dịch là hương ẩm đình<br /> (đình ăn uống) (18, tr.3-10). Về<br /> chữ kháp đình (đình hát), theo<br /> chúng tôi được biết, thì từ kháp<br /> hoàn toàn tương đồng với từ khắp<br /> trong tiếng Thái, có nghĩa là hát<br /> (19, tr.271). Do vậy, rất có thể từ<br /> kháp của tộc người Kinh với từ<br /> khắp của người Thái là có cùng<br /> một nguồn gốc.<br /> Qua hai cứ liệu như vừa dẫn,<br /> cho thấy hai chức năng cơ bản<br /> của đình làng, đó là ngôi nhà để<br /> <br /> đình hát mà tộc người Kinh ở Trung Quốc gọi<br /> là kháp đình (哈亭). Tộc người Kinh, tức là tộc<br /> người Việt, di cư sang Trung Quốc vào năm Lê<br /> Hồng Thuận1 thứ 3, tương đương niên hiệu<br /> Minh Vũ Tông, Chính Đức thứ 6, tức năm 1511<br /> (theo bản hương ước do nhóm di dân mang<br /> theo). Hiện nay họ là một trong số 55 dân tộc<br /> thiểu số Trung Quốc, đang sống ở 3 làng Vu<br /> Đầu, Vạn Vĩ, Sơn Tâm trong vùng các bán đảo<br /> ven biển thuộc tỉnh Quảng Tây.<br /> Về phong tục, khi mới sang Trung Quốc, họ<br /> dựng kháp đình bằng tre gỗ mái tranh để làm<br /> nơi thờ thần, về sau kháp đình mới được xây<br /> bằng gạch ngói, trên bờ nóc có đắp hình“song<br /> <br /> long hý châu”(đôi rồng giỡn ngọc). Trong đình<br /> <br /> KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT<br /> <br /> thờ thần, đồng thời cũng là ngôi nhà chung<br /> để hội họp cộng đồng. Đó là hai cứ liệu về<br /> mặt từ điển học và ngôn ngữ học lịch sử rất<br /> đáng tin cậy và có cơ sở khoa học chắc chắn.<br /> Sau đây, chúng ta xem xét tiếp hai tài<br /> liệu nghiên cứu đều tiếp cận ngôi đình từ<br /> góc nhìn chức năng.<br /> Tác giả Nguyễn Văn Khoan có công trình<br /> viết bằng tiếng Pháp Essai sur le đình et le<br /> culte du génie tutélaire des villages au<br /> Tonkin (Khảo luận về ngôi đình và việc thờ<br /> thần thành hoàng của các làng xã ở Bắc Kỳ)<br /> BEFEO, 1930. Học giả Pháp Louis Bezacier<br /> trong L’art Vietnamien, Paris, 1955, đánh<br /> giá cao công<br /> <br /> KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT<br /> <br /> trình của Nguyễn Văn Khoan, cho rằng đây là<br /> một công trình nghiên cứu súc tích, có thể xếp<br /> đình vào kiến trúc dân dụng và cả kiến trúc tôn<br /> giáo cũng được. Nó ăn vào kiến trúc dân dụng<br /> với tính cách là ngôi nhà công cộng, nơi các<br /> kỳ hào hội họp khi làng có hội hè hay để bàn<br /> công việc của làng xã. Ở Chương III của công<br /> trình, nói tới bàn thờ của một hay nhiều vị thần<br /> thành hoàng của làng. (13, tr. 18).<br /> Còn ông Nguyễn Văn Huyên trong công trình<br /> Contribution à l`étude d`un génie tutélaire<br /> annamite Lý Phục Man (Góp phần vào việc<br /> nghiên cứu một vị thần thành hoàng An Nam,<br /> Lý Phục Man), BEFEO, 1938, đã theo lời của một<br /> vài chức sắc địa phương cung cấp cho ông, nói<br /> rằng: Ngày xưa đình là nơi vua ngự khi đi tuần<br /> du trong nước. Ở mỗi tỉnh lỵ có một hành cung,<br /> nơi ngự giá của nhà vua khi tuần du qua. Các<br /> làng nằm trên đường mà xa giá nhà vua thường<br /> đi qua, cũng dựng lên những tòa nhà có công<br /> dụng như hành cung... Điều này còn cắt nghĩa<br /> được tại sao ngày nay, ở một số ngôi đình ta lại<br /> thấy mặt trước trên gian giữa có một bức hoành<br /> phi sơn son thiếp vàng ghi bốn chữ “Thánh cung<br /> vạn tuế” 2.<br /> Sau khi trích dẫn, ông L. Bezacier phản biện<br /> rằng: Cách giải thích này khó đứng vững được, vì<br /> rằng hầu hết nếu không phải là tất cả các làng<br /> đều có đình, kể cả những làng nằm ở xa mọi con<br /> đường mà xa giá nhà vua có thể đi qua. Hơn nữa,<br /> cách xây dựng của đình khác hẳn cách cấu trúc<br /> của hành cung, không thể dùng làm nơi nghỉ<br /> ngơi như hành cung được (20, tr.18).<br /> Ông L. Bezacier ghi nhận đình là một trong<br /> những kiến trúc có ý nghĩa nhất ở Bắc Kỳ, ở đấy<br /> người ta thấy nghệ thuật kiến trúc cũng như<br /> nghệ thuật trang trí khu nhà thể hiện phong phú<br /> nhất. Ông cũng cho rằng nguồn gốc của đình<br /> chưa được biết rõ lắm. (20, tr.19)<br /> Chúng tôi hoàn toàn chia sẻ với nhận định<br /> của ông L. Bezacier, bởi nếu chỉ tìm biết chức<br /> năng của ngôi đình thì cũng chưa thể biết được<br /> cội nguồn lịch sử của nó. Điều quan trọng ở đây<br /> là phải biết được niên đại xuất hiện của<br /> <br /> đình làng trong lịch sử. Nhân đây chúng tôi cũng<br /> xin lưu ý một điều, đó là một số tác giả thường<br /> coi đình trạm như là tiền thân của đình làng. Đó<br /> là quan niệm hoàn toàn sai lầm, thiếu cơ sở<br /> khoa học. Đình trạm là nơi cho khách đi đường<br /> nghỉ chân và tiễn đưa nhau, vốn là kiến trúc của<br /> Trung Quốc.<br /> Bề ngoài mười dặm trường đình<br /> Vương ông gánh tiệc tiễn hành đưa theo<br /> Bản Kiều của Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim hiệu<br /> khảo chú thích rằng: Theo Hán thư, đường đi<br /> bên Tàu cứ năm dặm có một đoản đình, mười<br /> dặm có một trường đình3. Chúng tôi tra từ điển<br /> Từ nguyên thì chữ đình ( 亭 ) có hai nghĩa cơ<br /> bản: một là nơi dừng chân ăn nghỉ của khách<br /> đi đường, hai là ngôi nhà có nóc nhưng không<br /> có tường bao quanh. Còn Hán Việt từ điển cửa<br /> Đào Duy Anh thì giải nghĩa đình là cái nhà nhỏ,<br /> cái nhà trạm cho người đi đường nghỉ.<br /> Đình trạm của Trung Quốc du nhập vào Việt<br /> Nam từ bao giờ, chúng tôi chưa tìm được cứ<br /> liệu. Chỉ biết về mặt văn bản lịch sử, thì đời Trần<br /> đã có ghi chép. Theo Đại Việt sử kỷ toàn thư,<br /> “Thượng hoàng (Trần Thừa) xuống chiếu rằng,<br /> trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải<br /> đắp tượng Phật để thờ. Trước đây, tục nước ta<br /> vì nóng bức, nên làm nhiều đình cho người đi<br /> đường nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là<br /> đình trạm. Thượng hoàng khi còn hàn vi từng<br /> nghỉ ở một đình trạm, gặp một nhà sư bảo rằng:<br /> Người trẻ tuổi này ngày sau sẽ đại quý. Nói xong<br /> thì không thấy nhà sư đâu nữa. Đến nay lấy<br /> được thiên hạ mới có lệnh này”. Sử thần Ngô Sĩ<br /> Liên bình luận:“Đó là mầm đầu tiên của sự sùng<br /> Phật”. (4, tr.11)<br /> Theo tìm hiểu của chúng tôi, thì từ thời<br /> Trần đến thời Lê - Nguyễn, đình trạm vẫn tiếp<br /> tục là nơi nghỉ ngơi của người đi đường. Sách<br /> Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác, viết năm Lê<br /> Cảnh Hưng 43 (1782) từng nhắc đến nhiều tên<br /> đình trạm trên đường tới Thượng Kinh4. Sách<br /> Hồi kinh nhật ký (Ký hiệu VNv216, kho sách<br /> Viện Nghiên cứu Hán Nôm) của Lý Văn Phức,<br /> soạn Minh Mệnh 10 (1829) bằng chữ Nôm, thể<br /> <br /> KIẾN TRÚC - MỸ THUẬT<br /> <br /> song thất lục bát, kể lại cuộc hành trình từ Hà<br /> Nội vào kinh đô Huế thời Nguyễn, qua 36 trạm<br /> dịch trên đường thiên lý. Ví dụ: Khởi trình tới<br /> trạm Hà Mai/ Có ai vì tặng một lời Giang Nam;<br /> Huyện Thanh Trì có làng Thịnh Liệt/ Nghe cá rô<br /> đầm Sét rằng tươi.... Như vậy, rõ ràng là trạm<br /> dịch (từ đình trạm) vẫn tồn tại suốt chiều dài<br /> lịch sử theo chức năng của nó mà không hề<br /> biến thành đình làng.<br /> Ở Trung Quốc, ngoài danh từ đình trạm, còn<br /> có danh từ hương đình (乡亭). Bộ từ điển Từ<br /> nguyên, 1993, giải nghĩa:“Trúc ư hương gian<br /> đích công xá” - nghĩa là ngôi nhà chung xây dựng<br /> ở trong làng, dẫn ví dụ trong sách Liệt tiên<br /> truyện, quyển Thượng, có nói đến hương đình<br /> trong Truyện An Kỳ Sinh, đời Tần Thủy Hoàng và<br /> sách Luận hành của Vương Sung (27 97) đời Hán cũng có nói đến hương đình.<br /> Đương nhiên, mặc dù cả tên gọi và thực thể<br /> hương đình Trung Quốc đã có từ thời Tần - Hán,<br /> song vẫn chưa có cơ sở để cho rằng đình làng<br /> Việt Nam là bắt nguồn từ hương đình Trung<br /> Quốc. Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với ghi<br /> nhận của ông L. Bezacier, rằng chỗ khác biệt của<br /> đình làng Việt Nam là ở cái kiến trúc trên sàn<br /> cột của nó: “Thật vậy, đáng chú ý ở chỗ nó là<br /> loại nghệ thuật Việt Nam duy nhất xây dựng<br /> trên sàn cột. Chúng tôi chưa hề thấy một sự vi<br /> phạm nhỏ nào đôi với nguyên tắc ấy. Ở Trung<br /> Quốc, lối xây dựng này không có, ít ra theo chỗ<br /> chúng tôi được biết” (20, tr.19).<br /> 2. Về vấn đề niên đại của đình làng<br /> Truy tìm nguồn gốc đình làng, như trên<br /> chúng tôi đã đề cập, là ngoài chức năng của<br /> đình còn phải biết được niên đại xuất hiện của<br /> đình. Truy tìm theo hướng này, qua văn bia Hà<br /> Nội, hiện còn thấy tấm bia“Thanh Hà ngọc phả<br /> bi ký” nói về vị thần được thờ tại đình Thanh Hà<br /> là Trần Lựu, tướng đời Trần chống giặc Nguyên<br /> Mông tại Vũ Ninh, sau khi thắng trận về mở tiệc<br /> khao quân ở thôn Thanh Hà rồi hóa, được dân<br /> lập đình thờ (2, tr.27). Đình Thanh Hà vốn có sáu<br /> tấm bia, Tuyển tập văn bia Hà Nội chỉ chọn một<br /> văn bia ghi thần tích thần thành<br /> <br /> hoàng được thờ tại đình để dịch, như vừa nêu.<br /> Thần tích trong “Thanh Hà ngọc phả bi ký” ghi<br /> rõ niên đại sao chép là ngày 6 tháng 3 niên hiệu<br /> Thuận Thiên thứ 3 (1430) thời Lê Lợi. Còn nhóm<br /> tác giả Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Duy Hinh căn<br /> cứ vào một tấm bia khác trong đình Thanh Hà,<br /> đã cho biết “bia ghi rõ đình được khởi dựng<br /> năm Thuận Thiên thứ 6 (1433)” (14, tr.73). Một<br /> thông tin vô cùng quý báu đó là những điều tra<br /> sâu sát, kỹ càng về quá trình kiến trúc ngôi đình<br /> Thanh Hà của một nhà “Hà Nội học” tầm cỡ, tác<br /> giả Nguyễn Văn Uẩn trong công trình đồ sộ Hà<br /> Nội nửa đầu thế kỷ XX. Theo tác giả, đình Thanh<br /> Hà nguyên gần cửa ô Quan Chưởng, năm Đinh<br /> Sửu, Gia Long 16 (1817), khi sửa cửa Ô và mở<br /> rộng đường phố, đình được di dời đến số 77<br /> phố Hàng Chiếu, song cổng chính của ngôi đình<br /> lại quay sang phố Ngõ Gạch, số 10. Năm Mậu<br /> Dần, Gia Long 17 (1818), đình mới chỉ dựng sơ<br /> sài bằng tre gỗ, đến năm Nhâm Ngọ, Minh<br /> Mệnh thứ 3 (1822), đình mới được xây lại bằng<br /> gạch kiên cố. Đây là những điều được tác giả kể<br /> lại theo văn bia do Bùi Tú Linh soạn năm 1855, Tự<br /> Đức 8 (16, tr.183). Chúng tôi đã đến thăm lại<br /> đình Thanh Hà tại số 10 Ngõ Gạch, quận Hoàn<br /> Kiếm, Hà Nội, được biết đình đã được xếp hạng<br /> di tích lịch sử văn hóa ngày 21 tháng 1 năm<br /> 1989. Về kiến trúc, đình vẫn có bộ mái cong và<br /> trên bờ nóc có đắp nổi đôi rồng chầu mặt trời.<br /> Chỉ có điều bốn chữ Hán trên cổng ra vào không<br /> ghi là đình, mà lại ghi “Thanh Hà linh từ” (Đền<br /> thiêng Thanh Hà). Dù sao, đây cũng là ngôi đình<br /> có niên đại sớm nhất từ thời Lê mà chúng ta<br /> được biết. Ngoài tư liệu văn bia, còn một sử liệu<br /> rất đáng tin cậy, đó là sự kiện được chép trong<br /> Lê triều thông sử thường gọi là Đại Việt thôngsử<br /> của nhà bác học Lê Quý Đôn như sau: “Năm<br /> Nhâm Ngọ, niên hiệu Quang Thiêu 7 (1522) đời<br /> Lê Chiêu Tông, nhà vua chạy lánh ra phía tây<br /> Thăng Long, đóng ở đình làng Nhân Mục Cựu”<br /> (5, tr.131) 5.<br /> Hai cứ liệu vừa dẫn đều cho biết niên đại<br /> tuyệt đối, tuy nhiên, để xác định cụ thể và chắc<br /> chắn hơn, chúng ta cần phải tiếp cận vấn đề từ<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2