Xã hội học số 4(120), 2012 23<br />
<br />
<br />
BÀN VỀ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN XÃ HỘI<br />
VÀ QUẢN LÝ SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM1<br />
<br />
VŨ MẠNH LỢI*<br />
<br />
Mô hình phát triển xã hội<br />
Thời gian gần đây, trong các tài liệu về phát triển người ta thường thấy những khái<br />
niệm về mô hình phát triển theo vùng địa lý như "mô hình Đông Á", "mô hình Đông<br />
Nam Á" (Wilkinson, Dapice, Perkins, Nguyen Xuan Thanh, Vu Thanh Tu Anh, Huynh<br />
The Du, Pincus, và Saich, 2008), hoặc các mô hình gắn với tên quốc gia đã thành công<br />
trong quá trình hiện đại hóa như "mô hình Nhật Bản", "mô hình Hàn Quốc" (Song, 1990;<br />
Soon, 1994), "mô hình Hồng Kong, Singapore" (Cohen, 2003). Những mô hình này về<br />
thực chất phản ánh góc nhìn kinh tế phát triển, nhấn mạnh những đặc trưng của kinh tế<br />
thị trường và vai trò của nhà nước trong mối quan hệ với các lực lượng thị trường.<br />
Nói đến "mô hình phát triển xã hội" ta cần phải chỉ ra được cơ cấu tổng thể của mô<br />
hình đó là gì, gồm những bộ phận trọng yếu nào, những bộ phận này có chức năng gì, và<br />
những bộ phận này có mối quan hệ với nhau để tạo thành một mô hình có tính hệ thống<br />
toàn vẹn như thế nào, có những lực lượng hay nhóm xã hội chủ yếu nào và vai trò của họ<br />
trong sự phát triển xã hội là gì. Ở đây chúng tôi chỉ bàn đến mô hình phát triển xã hội<br />
theo nghĩa hẹp, theo nghĩa các vấn đề xã hội được bàn ở đây, các vấn đề kinh tế, các vấn<br />
đề văn hóa, và các vấn đề về nhà nước là các mảng vấn đề có tính độc lập tương đối, tạo<br />
nên xã hội tổng thể theo nghĩa rộng trong tương quan với môi trường tự nhiên (Phạm<br />
Xuân Nam, 2010). Chúng tôi không đi sâu vào các yếu tố thị trường và nhà nước pháp<br />
quyền nếu những yếu tố này không trực tiếp tác động đến vấn đề xã hội được bàn.<br />
Có nhiều cách nhìn khác nhau đối với quan niệm về "mô hình phát triển xã hội".<br />
Một cách nhìn tương đối phổ biến trong thời gian gần đây là mô hình phát triển xã hội xét<br />
từ góc độ quan hệ với thị trường và nhà nước. Theo cách nhìn này, xã hội tổng thể bao<br />
gồm 3 trụ cột là "kinh tế thị trường", "nhà nước pháp quyền" và "xã hội dân sự" (Barber,<br />
1997; Đinh Công Tuấn, 2010; Huỳnh Khôi, 2006; McElwee và Ha Hoa Ly, 2006;<br />
Nguyễn Quang A, 2009; Norlund, 2007; Reimer, 2005; Trần Hữu Quang, 2010; Trần<br />
Ngọc Hiên, 2008; Vũ Văn Nhiêm, 2008; Wischermann, 2010). Một số tác giả đưa cả gia<br />
đình vào "xã hội dân sự", một số tác giả khác lại tách gia đình ra như bộ phận thứ 4 cấu<br />
thành xã hội tổng thể.<br />
Cách nhìn thứ hai cũng khá phổ biến là cách nhìn từ góc độ cách thức phân phối của<br />
cải của toàn xã hội. Khác với quan niệm kinh tế đề cao việc sản xuất ra của cải vật chất cho<br />
xã hội, cách nhìn này nhấn mạnh một mô hình phát triển xã hội phải được đặc trưng bởi cách<br />
thức mà nó phân phối của cải của toàn xã hội. Theo cách nhìn này, hệ thống an sinh xã hội và<br />
<br />
1<br />
Bài viết này là một phần của đề tài nghiên cứu "Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thế giới về phát triển và<br />
quản lý xã hội" thuộc Chương trình nghiên cứu năm 2009-2010 của Viện Xã hội học với tên gọi "Mô<br />
hình tổng quát về phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội ở nước ta hiện nay".<br />
*<br />
PGS,TS, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Xã hội học giai đoạn 2007-2012.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 24<br />
<br />
<br />
bảo trợ xã hội là cốt lõi của mô hình phát triển xã hội và việc chăm lo cho những người mà vì<br />
lý do tuổi tác (quá trẻ hoặc quá già), giới (nam hoặc nữ), sức khỏe (tàn tật, sức khỏe yếu),<br />
hoặc do thất nghiệp, thiên tai dẫn đến suy giảm mức sống là ưu tiên hàng đầu của chính sách<br />
xã hội (Le Bach Duong và Khuat Thu Hong, 2008; Nguyễn Hữu Dũng, 2008). Mô hình nhà<br />
nước phúc lợi ở các nước phương Tây (ví dụ nhà nước phúc lợi Thụy Điển) chính là thí dụ về<br />
quan niệm mô hình phát triển xã hội nhìn từ góc độ phân phối của cải của xã hội.<br />
Cách nhìn thứ 3 về mô hình phát triển xã hội là cách nhìn liệt kê các lĩnh vực quan<br />
trọng của phát triển xã hội, nội dung và vai trò của chúng đối với phát triển xã hội. Định<br />
nghĩa kiểu liệt kê đối với mô hình xã hội có lẽ là một dạng mô hình phát triển xã hội phổ<br />
biến nhất, có tính thực tiễn cao vì nó chỉ ra nhà nước và các chủ thể có liên quan khác cần<br />
làm gì, khi nào, ở đâu, và sử dụng nguồn lực gì. Cách tiếp cận liệt kê thường đưa ra<br />
những phân tích điểm yếu, điểm mạnh trong từng lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể, từ đó<br />
xây dựng chiến lược phát huy điểm mạnh, khắc phục hoặc hạn chế điểm yếu để tiếp tục<br />
phát triển. Nhìn chung các nước đều có các chiến lược phát triển xã hội quốc gia được<br />
trình bày theo hình thức liệt kê các lĩnh vực ưu tiên. Cách làm này cũng tránh được<br />
những tranh luận bất tận về ngữ nghĩa lý luận của các mô hình xã hội tổng quát kiểu như<br />
"xã hội dân sự", nhất là khi quan niệm lý luận còn chưa rõ ràng.<br />
Những lĩnh vực xã hội chính thường được liệt kê bao gồm việc làm, xóa đói giảm<br />
nghèo, giáo dục, y tế, văn hóa, phòng chống tệ nạn xã hội. Hệ thống an sinh xã hội, sự<br />
tham gia dân chủ của người dân vào các hoạt động chính trị, vào quá trình ra các quyết<br />
định quan trọng của đất nước và cộng đồng cũng thường được liệt kê trong các mô hình<br />
phát triển xã hội kiểu này, song ở cách tiếp cận liệt kê đối với mô hình phát triển xã hội,<br />
những khía cạnh này chỉ có tầm quan trọng tương đương các khía cạnh khác được liệt kê.<br />
Ta có thể thấy mô hình kiểu liệt kê này ở nhiều nước khác nhau. Năm 2010 Liên<br />
minh Châu Âu đưa ra Chiến lược cho sự tăng trưởng thông minh, bền vững, và bao gồm<br />
tất cả mọi người (European Commission, 2010), trong đó liệt kê 7 sáng kiến chính, với 4<br />
sáng kiến chủ yếu về phát triển kinh tế và 3 sáng kiến mang đậm tính chất phát triển xã<br />
hội. Ở Trung Quốc, sau hơn 20 năm cải cách thành công, năm 2006 Đảng CSTQ đưa ra ý<br />
tưởng xây dựng xã hội hài hòa Trung Quốc trong Nghị Quyết Trung ương 6 Khóa XVI.<br />
Xã hội hài hòa Trung Quốc được coi là xã hội "dân chủ pháp trị; công bằng chính nghĩa,<br />
thành thực giữ chữ tín và thương yêu nhau; tràn đầy sức sống, yên ổn có trật tự, con<br />
người chung sống hài hòa với thiên nhiên" (Hoàng Thế Anh và Nguyễn Thanh Giang,<br />
2008). Nghị quyết này cũng liệt kê 9 mục tiêu đối với việc xây dựng xã hội hài hòa Trung<br />
Quốc. Thậm chí Amartya Sen, người đoạt giải thưởng Nobel về kinh tế học năm 1998,<br />
khi đưa ra mô hình phát triển là quyền tự do, là sự mở rộng các loại tự do chính trị, kinh<br />
tế, văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, vân vân, thì về cơ bản ông cũng sử dụng cách<br />
tiếp cận liệt kê các yếu tố trọng yếu của mô hình phát triển (Sen, 2002).<br />
Cách nhìn liệt kê các lĩnh vực quan trọng của phát triển xã hội cũng chính là cách<br />
nhìn mà từ nhiều năm nay ta có thể thấy trong các văn kiện Đại hội Đảng, các Kế hoạch<br />
phát triển của nhà nước, của các tỉnh, và của nhiều công trình nghiên cứu về phát triển<br />
của các tổ chức trong nước và ngoài nước (như các công trình của UNDP hay<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 25<br />
<br />
<br />
Worldbank), và của nhiều tác giả khác (Arkadie và Mallon, 2003; Bùi Thế Cường, 2010).<br />
Thông thường, cả ba cách nhìn đối với mô hình phát triển xã hội đều được các tác<br />
giả ở các nước sử dụng, tùy thuộc vào điểm nhấn mà các tài liệu muốn chuyển tải. Trong<br />
nhiều trường hợp, các tác giả kết hợp cả ba cách nhìn này trong việc phân tích và mô tả<br />
mô hình phát triển xã hội của nước được nghiên cứu.<br />
Mô hình quản lý sự phát triển xã hội<br />
Nhìn chung, các nguyên tắc quản lý sự phát triển tốt cũng đồng thời là các nguyên<br />
tắc quản lý kinh tế tốt, và trong nhiều trường hợp quản lý sự phát triển tốt đòi hỏi đồng<br />
thời cả quản lý kinh tế tốt và quản lý xã hội tốt. Chính vì thế, trong phần này mặc dù nhấn<br />
mạnh khía cạnh quản lý sự phát triển xã hội, song nhiều điểm nêu ở đây cũng được rút ra<br />
từ các tài liệu về quản lý kinh tế tốt, và nhiều điểm nêu ở đây cũng áp dụng tốt cho quản<br />
lý kinh tế. Ở tầm lý luận về quản lý sự phát triển, dường như sự phân biệt giữa quản lý<br />
kinh tế và quản lý xã hội đã bị lu mờ.<br />
Thời gian gần đây trong các thảo luận lý luận về quản lý sự phát triển trên thế giới<br />
người ta nói nhiều đến "quản trị tốt" ("good governance"). Cũng như nhiều thuật ngữ mới<br />
xuất hiện gần đây, khái niệm "quản trị tốt" cũng được hiểu với ý nghĩa rất khác nhau, từ<br />
cách hiểu theo nghĩa hẹp để ám chỉ quản lý hành chính công, đến cách hiểu theo nghĩa<br />
rộng bao gồm một diện rộng các mối quan hệ vượt ra ngoài khuôn khổ quản lý hành<br />
chính công như các mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, giữa nhà nước và công dân,<br />
giữa nhà nước và xã hội dân sự hay khu vực tư nhân, giữa các nhà chính trị được dân bầu<br />
và các công chức/viên chức nhà nước, giữa chính quyền địa phương và người dân ở nông<br />
thôn và đô thị, giữa khu vực lập pháp và hành pháp, và giữa nhà nước và các thể chế<br />
quốc tế (Agere, 2000).<br />
Trong công trình Quản trị tốt ("Good Governance") của Cơ quan Phát triển Quốc tế<br />
Úc (AusAID) công bố năm 2000, "quản trị tốt" được định nghĩa như sau:<br />
"Quản trị tốt" là việc thực hiện quyền lực hay quyền uy về chính trị, kinh tế, hành<br />
chính, hay các quyền lực hay quyền uy khác nhằm quản lý các nguồn lực và các vấn<br />
đề của một nước. Nó bao gồm các cơ chế, các quá trình và các thể chế mà thông qua<br />
đó các công dân và nhóm người bày tỏ lợi ích của mình, thực hiện các quyền theo<br />
luật định, thực hiện trách nhiệm của mình và dung hòa các khác biệt của mình.<br />
"Quản trị tốt" có nghĩa là quản lý hiệu quả các nguồn lực và các vấn đề của đất<br />
nước theo cách cởi mở, minh bạch, có trách nhiệm giải trình, công bằng và đáp<br />
ứng nhu cầu của nhân dân.<br />
Tài liệu này cũng đưa ra 5 nguyên tắc chính trị và 4 nguyên tắc kinh tế của quản<br />
trị tốt như sau:<br />
Các nguyên tắc chính trị của quản trị tốt:<br />
1. Quản trị tốt dựa trên sự thiết lập hình thức chính quyền có tính đại diện và có<br />
trách nhiệm giải trình.<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 26<br />
<br />
<br />
2. Quản trị tốt đòi hỏi một xã hội dân sự mạnh và đa nguyên nơi có sự tự do thể hiện<br />
và tự do hiệp hội.<br />
3. Quản trị tốt đòi hỏi các thể chế tốt - bộ các quy tắc quy định hành động của các cá<br />
nhân và các tổ chức và sự đàm phán giải quyết các khác biệt giữa họ với nhau.<br />
4. Quản trị tốt đòi hỏi việc tuân thủ pháp luật là tối cao được duy trì thông qua hệ<br />
thống pháp lý hiệu quả và công bằng.<br />
5. Quản trị tốt đòi hỏi mức độ minh bạch và trách nhiệm giải trình cao trong các quá<br />
trình công cũng như các quá trình của các nghiệp đoàn/tổ chức (public và<br />
corporate processes). Cách tiếp cận có sự tham gia rộng rãi đối với việc cung cấp<br />
dịch vụ công là rất quan trọng để các dịch vụ này có hiệu quả.<br />
Các nguyên tắc kinh tế của quản trị tốt:<br />
1. Quản trị tốt đòi hỏi các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có cơ sở rộng, khu<br />
vực tư nhân năng động và các chính sách xã hội giúp cho việc xóa đói giảm<br />
nghèo. Tăng trưởng kinh tế sẽ là tốt nhất trong một nền kinh tế dựa trên thị<br />
trường, cởi mở và hiệu quả.<br />
2. Đầu tư vào con người là ưu tiên cao nhất thông qua các chính sách và thể chế giúp<br />
tăng khả năng tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ khác là nền<br />
tảng của nguồn lực con người của một nước.<br />
3. Các thể chế hiệu quả và quản trị nghiệp đoàn tốt là cần thiết để hỗ trợ sự phát<br />
triển khu vực tư nhân có tính cạnh tranh cao. Đặc biệt, để thị trường vận hành tốt<br />
cần có các chuẩn mực xã hội tôn trọng hợp đồng và quyền sở hữu tài sản.<br />
4. Quản lý cẩn thận nền kinh tế quốc dân có tính chất sống còn nhằm tối đa hóa tiến<br />
bộ về kinh tế và xã hội.<br />
Như vậy, ta có thể thấy "các nguyên tắc kinh tế" nêu trên cũng chứa đựng rất nhiều<br />
yếu tố xã hội. Quản lý nhà nước tốt là quản lý nhà nước phải đảm bảo bốn yêu cầu tối<br />
thiểu, có liên quan mật thiết với nhau và có tính hỗ trợ lẫn nhau (ADB, 1995), là:<br />
(1) có trách nhiệm giải trình rõ ràng (accountability): quan chức quản lý nhà nước<br />
phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện các quyết định quản lý thuộc thẩm quyền<br />
của mình trước nhân dân, và khi cần thiết họ có trách nhiệm giải trình rõ ràng.<br />
Trách nhiệm giải trình rõ ràng cũng có nghĩa là phải có tiêu chuẩn rõ ràng để đo<br />
lường mức độ hoàn thành nhiệm vụ của quan chức quản lý nhà nước, có cơ chế<br />
phản hồi ý kiến, khiếu nại, và cơ chế đáp ứng nhanh chóng những khiếu nại về sự<br />
không công bằng trong quản lý nhà nước của người dân. Trách nhiệm giải trình là<br />
yếu tố quan trọng đem đến và duy trì sự tin tưởng vào nhà nước của người dân,<br />
điều không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội lành mạnh.<br />
(2) có sự tham gia rộng rãi của các bên có liên quan (participation): điều này có<br />
nghĩa là chấp nhận quan niệm người dân là trung tâm của sự phát triển. Họ chẳng<br />
những là người hưởng lợi của phát triển, mà còn là người tạo ra sự phát triển với<br />
tư cách cá nhân, nhóm hoặc thông qua các tổ chức xã hội dân sự. Ở cấp cơ sở, sự<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 27<br />
<br />
<br />
tham gia rộng rãi có nghĩa là cơ chế quản lý nhà nước phải đủ mềm mỏng để cho<br />
phép người hưởng lợi và những người bị ảnh hưởng tham gia vào việc hoàn thiện<br />
thiết kế và việc thực hiện các chương trình/dự án phát triển công. Điều này sẽ làm<br />
tăng tính "sở hữu" các chương trình/dự án phát triển công của nhân dân, nâng cao<br />
hiệu quả và tính bền vững của chương trình/dự án.<br />
(3) có tính có thể dự đoán được (predictability): điều này có nghĩa là các ứng xử<br />
về quản lý phải dựa trên luật pháp, chính sách, và các quy định pháp lý hiện hành<br />
và khung pháp lý này phải được thực hiện một cách công bằng và nhất quán. Cả<br />
nhà nước và các cơ quan của mình cũng như người dân phải ứng xử theo pháp<br />
luật, không có ngoại lệ.<br />
(4) tính minh bạch: điều này có nghĩa là người dân được thông tin đầy đủ và rõ<br />
ràng về các quy định, quyết định, chính sách, pháp luật và việc thực hiện những<br />
quy định, quyết định, chính sách, pháp luật này. Tính minh bạch là điều kiện tiên<br />
quyết giúp giảm thiểu tham nhũng và lạm dụng quyền lực, nâng cao hiệu quả<br />
quản lý nhà nước.<br />
Ngoài 4 yêu cầu nêu trên, tác giả Sam Agere (Agere, 2000) còn cho rằng chống<br />
tham nhũng và xây dựng khuôn khổ pháp lý hiệu quả cũng cần phải được nhấn mạnh như<br />
những yếu tố nêu trên.<br />
Đối lập với quản trị tốt là quản trị tồi với những đặc trưng cơ bản sau đây (Agere, 2000):<br />
Không phân biệt được giữa việc công và việc tư với hậu quả là có xu hướng sử<br />
dụng các nguồn lực công cho các mục đích tư lợi;<br />
Không thiết lập được sự rõ ràng về pháp luật, về hành vi của chính phủ và quy tắc<br />
quản lý theo luật;<br />
Có quá nhiều quy tắc và quy định gây khó khăn cho sự vận hành bình thường của<br />
thị trường;<br />
Có các ưu tiên phát triển không nhất quán, dẫn đến việc lãng phí và đầu tư sai các<br />
nguồn lực;<br />
Có quá trình ra quyết định không minh bạch, thiển cận, thiếu toàn diện;<br />
Thiếu tiêu chuẩn đạo đức trong quản lý các vấn đề của nhà nước;<br />
Thiếu các giả định chính sách được xác định một cách rõ ràng.<br />
Trong các sách giáo khoa về phát triển thời gian gần đây người ta nói nhiều đến sự<br />
thay đổi cách thức quản lý xã hội nhằm nâng cao hiệu quả quản lý trong bối cảnh xã hội<br />
có nhiều thay đổi nhanh chóng. Về đại thể, có thể liệt kê sự chuyển biến các nguyên tắc<br />
quản lý hiện đại chính như sau:<br />
Tổ chức nhà nước thay đổi từ chỗ có quy mô cồng kềnh, quản lý mọi lĩnh vực,<br />
mọi cấp, ôm đồm mọi dịch vụ hành chính, kém hiệu quả, sang hình thức nhà nước<br />
có bộ máy tinh giản, quản lý có chọn lọc các lĩnh vực của đời sống xã hội, phân<br />
cấp, trao quyền, xã hội hóa có chọn lọc nhiều lĩnh vực quản lý và cung cấp dịch<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 28<br />
<br />
<br />
vụ công, thúc đẩy dân chủ cơ sở nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của quản<br />
lý nhà nước và các dịch vụ hành chính công; nói cách khác, vai trò của chính phủ<br />
và các cơ quan chính phủ chuyển từ "chèo thuyền" sang "lái thuyền" (Thái Xuân<br />
Sang, 2010).<br />
Chuyển từ quản lý hành chính kiểu truyền thống, lấy việc cai trị làm trọng tâm với<br />
những quy định cứng nhắc theo cấp bậc quản lý, quan liêu, chậm thay đổi khi<br />
thực tế đã thay đổi, phục vụ lợi ích và sự tiện lợi của người quản lý là chính sang<br />
mô hình quản lý hành chính kiểu mới, "hành chính phát triển", với trọng tâm là<br />
phục vụ nhân dân là chính, có tính năng động cao, nhạy bén thích nghi với hoàn<br />
cảnh thay đổi, đáp ứng nhanh với những nhu cầu của người dân và các đối tượng<br />
được quản lý, tạo điều kiện tốt cho họ tuân thủ pháp luật, kỷ cương, và quy định<br />
của nhà nước có liên quan.<br />
Đề cao việc xây dựng tầm nhìn chiến lược rõ ràng.<br />
Chuyển từ hoạch định chính sách dựa trên ý chí chủ quan của đội ngũ lãnh đạo<br />
sang hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng, có sự tham gia rộng rãi của các<br />
chủ thể có lợi ích liên quan, mở rộng phản biện xã hội<br />
Việc thực hiện quản lý nhà nước hiệu quả ở những nước thành công trong phát<br />
triển kinh tế-xã hội nhanh đặc trưng bởi tính ổn định của định hướng chính sách<br />
lớn, sự linh hoạt trong việc phản ứng với các tín hiệu của thị trường, và tính kỷ<br />
luật gắn với những biện pháp cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu dài hạn cho dù<br />
có những khó khăn ngắn hạn (ADB, 1995).<br />
Chuyển từ kế hoạch hóa tập trung-quan liêu-bao cấp, áp đặt từ trên xuống, sang<br />
kế hoạch hóa có sự tham gia rộng rãi của các bên có lợi ích liên quan, từ dưới lên,<br />
tăng cường phân cấp và trao quyền cho cấp cơ sở.<br />
Chuyển từ đánh giá hiệu quả dựa trên đầu ra sang đánh giá hiệu quả dựa trên kết<br />
quả và tác động.<br />
Chuyển từ giám sát theo đầu việc sang giám sát quá trình (chú trọng nhiều hơn<br />
đến tính năng động của giám sát); chuyển từ giám sát với mục đích phát hiện sai<br />
trái sang giám sát hỗ trợ; chuyển từ giám sát do chuyên gia thực hiện sang giám<br />
sát kết hợp của chuyên gia và sự tham gia của các bên có lợi ích liên quan.<br />
Đề cao tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý, áp dụng<br />
tin học vào quản lý, đề cao bằng chứng thực tế.<br />
Về văn hóa quản lý đã có sự thay đổi theo chiều hướng:<br />
Đề cao hiệu quả quản lý hơn sự thân quen, tuổi tác, giới tính, thành phần xuất<br />
thân của cán bộ quản lý.<br />
Đề cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của cán bộ quản lý và việc học tập không<br />
ngừng để nâng cao trình độ.<br />
Đề cao sự công bằng, đặc biệt là bình đẳng giới và bình đẳng theo tuổi tác.<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 29<br />
<br />
<br />
Chấp nhận nhiều hơn tính đa dạng, mềm mỏng, uyển chuyển của thực tế quản lý.<br />
Đề cao sự tôn trọng và lắng nghe lợi ích của các cá nhân, các nhóm xã hội là đối<br />
tượng trực tiếp của quản lý nhà nước; đề cao sự vận động, thuyết phục và tạo điều<br />
kiện để người dân làm theo pháp luật hơn là canh chừng sai phạm và áp dụng các<br />
biện pháp trừng phạt.<br />
Ở Việt Nam, tất cả những thay đổi nói trên đều có thể quan sát được ở mức độ này<br />
hay khác trong lĩnh vực quản lý nhà nước trong khoảng 20 năm qua, song về cơ bản Việt<br />
Nam chưa thiết lập được mô hình quản lý hiện đại, chưa đạt được mức độ của sự quản trị<br />
tốt. Đã có nhiều thay đổi trong quản lý nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng theo hướng<br />
dân chủ hơn, có sự tham gia của người dân nhiều hơn, có sự cải thiện về mức độ công<br />
khai, minh bạch, và trách nhiệm giải trình. Tuy nhiên, sức ỳ của quản lý nhà nước kiểu cũ<br />
vẫn còn rất lớn. Nhiều cơ quan nhà nước và các quan chức có trách nhiệm quản lý vẫn<br />
thực thi mô hình quản lý kiểu "cai trị", duy trì cơ chế "xin-cho", gây trở ngại cho phát<br />
triển. Về mặt lý luận, mô hình quản lý sự phát triển xã hội kiểu mới, phù hợp với tình<br />
hình trong nước và thế giới mới, nói chung chưa được thiết lập (Bùi Thế Cường, 2010).<br />
Năm 2001 Thủ Tướng đã ra Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương<br />
trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, trong đó có 4 nội dung<br />
chính là: (1) cải cách thể chế, (2) cải cách tổ chức bộ máy hành chính, (3) đổi mới, nâng<br />
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, và (4) cải cách tài chính công. Về cơ bản, các<br />
giải pháp cải cách hành chính nhà nước đi theo hướng tinh giản bộ máy quản lý nhà<br />
nước, xác định rõ hơn vai trò quản lý nhà nước trong bối cảnh kinh tế thị trường, chuyển<br />
từ quản lý hành chính tập trung theo lối mệnh lệnh sang phương pháp quản lý hiện đại<br />
phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, đẩy mạnh phân cấp và trao quyền cho cấp cơ sở,<br />
tăng cường xã hội hóa các dịch vụ công, cải thiện các thủ tục hành chính theo hướng tinh<br />
giản, một cửa, khắc phục tình trạng gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, nâng<br />
cao năng lực cán bộ, và cải cách tài chính công.<br />
Trong một báo cáo chuyên đề về quản lý và điều hành của Việt Nam năm 2004<br />
(Nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam, 2004), Nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam đánh giá<br />
cao những nỗ lực của Việt Nam theo hướng cải cách phương pháp quản lý sự phát triển<br />
hiện đại, theo hướng quản trị tốt. Báo cáo này, tuy nhiên, cũng chỉ ra nhiều yếu kém gắn<br />
với sức ỳ của cách quản lý tập trung, quan liêu bao cấp. Phương pháp lập kế hoạch và<br />
phân bổ nguồn lực thiếu tầm nhìn dài hạn, vẫn đi theo lối mòn cũ mà chưa tính đến việc<br />
chính phủ không còn trực tiếp tham gia sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ nữa, vẫn tiếp tục<br />
đưa ra những chỉ tiêu sản xuất cụ thể cho nhiều ngành. Chính phủ vẫn can thiệp sâu vào<br />
hoạt động sản xuất và cung cấp dịch vụ của nhiều lĩnh vực. Vấn đề về tính minh bạch,<br />
phân cấp phân quyền, quản lý tài sản nhà nước, và cải cách hành chính cũng còn nhiều<br />
yếu kém. Phòng chống tham nhũng mới chỉ đem lại những kết quả hạn chế.<br />
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011, Đảng cũng có<br />
nhận định "Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Ðảng chậm<br />
đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước; bệnh thành tích còn nặng; hệ<br />
thống pháp luật còn nhiều bất cập, việc thực thi chưa nghiêm; quản lý nhà nước còn<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 30<br />
<br />
<br />
nhiều yếu kém; tổ chức bộ máy cồng kềnh, một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về<br />
năng lực và phẩm chất; tổ chức thực hiện kém hiệu quả, nhiều việc nói chưa đi đôi với<br />
làm; chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết những khâu đột phá, then<br />
chốt và những vấn đề xã hội bức xúc; quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy<br />
đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa<br />
được đẩy lùi" (Ban CHTW Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011a). Nghị Quyết Hội nghị<br />
Trung ương 4 về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay cũng nhấn mạnh<br />
những yếu kém về quản lý còn tồn tại kể trên (Ban CHTW Đảng Cộng sản Việt Nam,<br />
2012).<br />
Nhóm nghiên cứu do Bùi Thế Cường lãnh đạo (Bùi Thế Cường, 2010) cho rằng<br />
quản lý sự phát triển xã hội ở Việt Nam đang đối mặt với 10 vấn đề lớn cần sự can thiệp<br />
sáng tạo của nhà nước, bao gồm:<br />
1. Tác động của toàn cầu hóa và đối phó với chiến lược của các siêu cường;<br />
2. Quản lý sự phát triển xã hội trong điều kiện biến đổi cấu trúc xã hội;<br />
3. Quản lý sự phát triển xã hội trong điều kiện biến đổi văn hóa;<br />
4. Hoàn thiện mối quan hệ thể chế giữa kinh tế thị trường và nhà nước;<br />
5. Vấn đề tính thống nhất và đa dạng quốc gia: vấn đề tộc người, tôn giáo và văn hóa;<br />
6. Vấn đề nông dân: cách biệt đô thị-nông thôn, phát triển nông thôn;<br />
7. Giáo dục;<br />
8. Mạng lưới an toàn xã hội cho xã hội và các nhóm yếu thế;<br />
9. Lệch chuẩn và tội phạm;<br />
10. Môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu<br />
Nghiên cứu này, tuy nhiên, chưa đưa ra được mô hình quản lý sự phát triển xã hội<br />
rõ ràng về mặt phương pháp luận, mặc dù có khuyến cáo liên quan đến việc xác định rõ<br />
hơn vai trò của nhà nước và của thị trường, vấn đề thu hẹp phạm vi quản lý nhà nước,<br />
phân cấp, phân quyền, và gợi ý ba cấp độ quản lý xã hội ở dạng khái quát cao, bao gồm<br />
"cấp độ chiến lược (liên quan đến định hướng và tầm nhìn lịch sử), biến đổi xã hội<br />
(những diễn tiến mang tính trung hạn), và khủng hoảng tình huống" (trang 185).<br />
Bàn luận và Kết luận<br />
Có những vấn đề toàn cầu mà tất cả các nước đều đang đối mặt và chịu tác động<br />
hàng ngày, hàng giờ. Đó là vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu, vấn đề toàn cầu hóa, hợp<br />
tác, cạnh tranh và hội nhập, vấn đề bảo đảm an ninh và hòa bình, vấn đề toàn cầu hóa về<br />
thông tin và truyền thông đi kèm với tiến bộ nhanh chóng của khoa học và công nghệ.<br />
Những vấn đề này vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với phát triển nói chung, và phát<br />
triển xã hội nói riêng. Đối diện với những thách thức do những vấn đề toàn cầu đặt ra,<br />
không một nước nào có thể đơn phương giải quyết triệt để được những thách thức đang<br />
đặt ra, song không phải nước nào cũng có năng lực, ý chí chính trị, và sự nhạy cảm chính<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 31<br />
<br />
<br />
trị để tranh thủ các cơ hội mà những vấn đề toàn cầu đem lại.<br />
Toàn cầu hóa đã thay đổi căn bản rất nhiều cách ứng xử quốc gia mà trong quá khứ<br />
không xa được xem như cách ứng xử khôn khéo. Thí dụ cho điều này là chính sách bảo hộ<br />
mậu dịch một thời được xem là giải pháp tốt cho những nước nghèo nhằm bảo vệ lợi ích<br />
quốc gia trước sự cạnh tranh hơn hẳn của hàng hóa và dịch vụ từ các nước phát triển hơn, nay<br />
điều này không còn đúng nữa. Những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ thông tin đã khiến<br />
cho những ý tưởng mới trên thế giới lan truyền nhanh chóng, tác động đến kiến thức, hiểu<br />
biết, thái độ, niềm tin và cả khát vọng của các cá nhân trên khắp hành tinh. Thế giới trở nên<br />
"phẳng" hơn và phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn. Đâycũng là thách thức và là cơ hội rất lớn đối<br />
với tất cả các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Các cường quốc trên<br />
thế giới cũng không có khả năng hành xử đơn phương như trước đây mà không bị lên án nếu<br />
hành động của họ đi ngược lại các giá trị phổ biến toàn cầu. Vụ thông tin về việc binh lính<br />
Mỹ ngược đãi tù nhân I-rak bị lọt ra ngoài, và việc Wikileak công bố các tài liệu tình báo của<br />
Mỹ thời gian gần đây là minh chứng cho điều này.<br />
Các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn, và các nước ngày<br />
càng cần thiết phải cùng làm việc, hợp tác với nhau để giải quyết các vấn đề toàn cầu như<br />
biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính, bảo vệ môi trường, sử dụng các nguồn tài nguyên<br />
thiên nhiên không tái sinh, chống khủng bố, phát triển công nghệ thông tin... Ngày nay,<br />
một công ty có thể thuê người ở nước ngoài làm việc cho mình mà không cần sự hiện<br />
diện của người đó tại nước mình. Điều này hiện đang trở thành xu hướng phổ biến. Ấn<br />
Độ, Philippines, Trung Quốc là những nước cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho<br />
nhiều công ty nước ngoài trong khi người lao động vẫn ở nước sở tại. Ở Việt Nam đã có<br />
nhiều công ty trong lĩnh vực công nghệ thông tin thuê nhân lực nước ngoài như vậy, đồng<br />
thời cũng nhiều chuyên gia Việt Nam làm việc bán phần hoặc toàn phần cho các công ty<br />
có đại bản doanh ở nước ngoài trong khi vẫn đang sống ở Việt Nam. Nguồn nhân lực là<br />
cốt lõi của mô hình phát triển kinh tế cũng như mô hình phát triển xã hội, và trong bối<br />
cảnh toàn cầu hóa, quan hệ ngoại giao có hàm ý rất quan trọng đối với mô hình phát triển<br />
xã hội Việt Nam.<br />
Thực tế nói trên khiến chính phủ các nước đều phải xem xét lại mô hình phát triển<br />
và chiến lược phát triển của mình. Báo cáo về tính cạnh tranh toàn cầu năm 2012-2013<br />
của Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum, 2012) đã đưa ra 12 trụ cột quyết<br />
định tính cạnh tranh toàn cầu của một nước (trang 8). Những trụ cột này được chia thành<br />
3 nhóm lớn. Nhóm I là nhóm những yêu cầu cơ bản, bao gồm các trụ cột (1) thể chế, (2)<br />
cơ sở hạ tầng, (3) môi trường kinh tế vĩ mô, và (4) chăm sóc sức khỏe và giáo dục cơ bản.<br />
Nhóm II là nhóm những trụ cột nâng cao hiệu quả, bao gồm các trụ cột (5) giáo dục đại<br />
học/cao đẳng và đào tạo nghề, (6) tính hiệu quả của thị trường hàng hóa, (7) tính hiệu quả<br />
của thị trường lao động, (8) sự phát triển thị trường tài chính, (9) tính sẵn sàng về các giải<br />
pháp công nghệ, và (10) quy mô thị trường. Nhóm III là nhóm bao gồm những trụ cột<br />
liên quan đến sáng tạo, bao gồm các trụ cột (11) mức độ tinh vi về kinh doanh (business<br />
sophistication), và (12) mức độ sáng tạo. Xét cho cùng, đây cũng là những thành phần cơ<br />
bản của một mô hình phát triển xã hội trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Theo báo cáo<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 32<br />
<br />
<br />
này, Việt Nam được xếp hạng đứng thứ 75 trong 144 nước được xếp hạng. Như vậy, so<br />
với sự xếp hạng của tổ chức này năm 2011-2012 (Việt Nam đứng thứ 65) thì ta đã tụt<br />
hạng 10 bậc. Dù chỉ số cạnh tranh toàn cầu GCI là chỉ số dựa trên các thống kê chưa hoàn<br />
toàn phản ánh đúng thực tế đặc thù ở mỗi nước do yêu cầu so sánh quốc tế không cho<br />
phép tính đến tính đặc thù một cách đúng mức, song việc có thứ hạng thấp và đang tụt<br />
bậc vẫn là hồi chuông cảnh tỉnh cho chúng ta tìm cách vươn lên mạnh mẽ hơn.<br />
Cũng tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2012 công bố Báo cáo Công nghệ<br />
thông tin toàn cầu năm 2012 (World Economic Forum, và INSEAD 2012), theo đó công<br />
nghệ thông tin được xem như động lực cực kỳ quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng<br />
năng lực cạnh tranh, bảo vệ môi trường, và nâng cao phúc lợi của người dân. Công nghệ<br />
thông tin đang làm biến đổi thế giới mà chúng ta đang sống, và cũng đặt ra nhiều thách<br />
thức mà nếu không giải quyết tốt có thể làm triệt tiêu những nỗ lực phát triển. Theo Báo<br />
cáo này, có 10 trụ cột về phát triển công nghệ thông tin mà nếu làm tốt sẽ thúc đẩy 12 trụ<br />
cột phát triển các mặt của đời sống xã hội nêu trên. Quan niệm này hoàn toàn phù hợp<br />
với quan niệm về hạ tầng công nghệ thông tin với tư cách là yếu tố quan trọng của việc<br />
xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ như nêu trong Nghị Quyết số 13-NQ/TƯ ngày<br />
16/01/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới<br />
đánh giá Việt Nam hiện đứng thứ 83 trong 142 nước được xếp hạng theo chỉ số về tính<br />
sẵn sàng kết nối mạng thông tin (The networked Readiness Index). Cách nhìn của Diễn<br />
đàn kinh tế thế giới coi công nghệ thông tin như động lực phát triển toàn diện nền kinh tế<br />
và các lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức và xã<br />
hội tri thức là gợi ý rất đáng cân nhắc cho mô hình phát triển xã hội của Việt Nam.<br />
Phân tích bức tranh phát triển xã hội đa dạng, phức tạp, muôn màu muôn vẻ của các<br />
nước, ta có thể thấy một số điểm chung nổi lên ở những nước có nhiều thành công trong<br />
phát triển xã hội. Đó là:<br />
Ưu tiên cao vào đầu tư vào con người, nguồn nhân lực (giáo dục, y tế, đào tạo<br />
nghề, nâng cao mức sống);<br />
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội, hệ thống bảo trợ xã hội phát triển (mô hình nhà<br />
nước phúc lợi);<br />
Xóa đói, giảm nghèo, giảm thiểu khác biệt nông thôn-thành thị, khác biệt vùng<br />
miền;<br />
Hoàn thiện hệ thống luật pháp, thể chế và áp dụng nhất quán cho tất cả mọi<br />
người;<br />
Thực hành quản trị tốt, chống tham nhũng<br />
Mở rộng dân chủ, xã hội dân sự<br />
Áp dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, những trụ cột phát triển xã hội nêu trên có thể<br />
có một số nét riêng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.<br />
Định hướng xã hội chủ nghĩa được định nghĩa trong Cương lĩnh xây dựng đất nước<br />
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) như sau:<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 33<br />
<br />
<br />
X ã h ội xã hộ i ch ủ ng hĩa mà nhâ n dân ta<br />
x â y d ự n g là m ột xã hội: Dâ n già u, nư ớ c<br />
m ạ n h, dâ n ch ủ, cô n g bằn g, vă n m i n h; d o<br />
n h â n dâ n làm c h ủ; có n ề n ki n h tế phát<br />
triể n cao dự a trê n lự c lư ợ n g sản xuất<br />
h i ệ n đại và q u a n hệ sả n x u ất tiế n b ộ p h ù<br />
h ợ p; có nền vă n h o á tiê n tiế n, đậm đà<br />
b ả n sắ c dâ n t ộ c; c o n n g ư ờ i c ó c u ộ c số n g<br />
ấ m n o, tự do, hạn h ph ú c, có điề u k iệ n<br />
p h á t tri ể n to à n d i ệ n ; cá c d â n t ộ c t r o n g<br />
c ộ n g đồ n g V i ệt Na m bì n h đẳ n g, đ o à n<br />
k ết, tô n trọ n g và giú p nhau cù n g phát<br />
triể n; có N hà nư ớ c pháp qu yề n xã hội<br />
c h ủ n g h ĩa củ a n h â n dâ n , d o n hâ n dân, vì<br />
n hâ n dân do Đ ả n g C ộ n g sả n lã n h đạ o;<br />
c ó q u a n hệ h ữ u n g h ị và hợ p tác v ớ i các<br />
n ư ớ c trên thế giới.<br />
(Ban CHTW Đảng CS Việt Nam, 2011b)<br />
Định nghĩa này rất đẹp, là lời kêu gọi động viên ý chí của các cá nhân để tạo nên ý<br />
chí của dân tộc. Định nghĩa này đã được cụ thể hóa trong một số nỗ lực lý giải kinh tế thị<br />
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Nguyễn Phú Trọng, 2011; Nguyễn Quốc Phẩm và<br />
Đỗ Thị Thạch, 2012). Về mặt phát triển xã hội ta cần tiếp tục làm rõ nội dung của định<br />
hướng này trên bình diện thực tiễn và quản lý xã hội. Theo chúng tôi, tính chất xã hội chủ<br />
nghĩa trong xã hội hiện đại thể hiện rõ nhất ở vai trò của nhà nước trong việc tái phân<br />
phối của cải và các nguồn lực xã hội, theo đó dành nhiều ưu tiên hơn cho người lao động,<br />
cho những người mà vì lý do nào đó không tự lo cho mình được (trẻ em, người già, người<br />
tàn tật), các nhóm yếu thế (người nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ, người sống ở<br />
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo), những người bị suy giảm thu nhập vì nhiều lý do<br />
khác nhau (thất nghiệp, thiếu việc làm, nông dân, người bị thiên tai, dịch bệnh). Tính chất<br />
xã hội chủ nghĩa thể hiện ở chỗ không có ai bị bỏ quên trong quá trình phát triển, và mọi<br />
người đều được hưởng lợi công bằng từ quá trình phát triển đất nước. Điều này gợi ra<br />
rằng một trong những khía cạnh quan trọng của mô hình phát triển xã hội Việt Nam là<br />
xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và bảo trợ xã hội phát triển kiểu Việt Nam.<br />
Vấn đề quản trị tốt<br />
Quản trị tốt ở Việt Nam đòi hỏi phải xác định rõ ràng vai trò, chức năng, nhiệm vụ,<br />
quyền hạn của nhà nước trong quan hệ với Đảng, với thị trường, với các tổ chức xã hội dân<br />
sự, và với nhân dân. Công cuộc hoàn thiện thể chế nhà nước và cải cách hành chính đang tiến<br />
hành ở Việt Nam đang đi đúng hướng quản trị tốt. Cần đẩy nhanh tiến độ của các cuộc cải<br />
cách này. Đồng thời cần đẩy mạnh chống tham nhũng vì tham nhũng là trở ngại lớn đối với<br />
cả phát triển kinh tế lẫn phát triển xã hội, làm xấu đi hình ảnh Việt Nam, làm cho Việt Nam<br />
kém hấp dẫn với tư cách là điểm đến của các nhà đầu tư cũng như khách du lịch, và điều<br />
quan trọng hơn là tham nhũng làm xói mòn niềm tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước.<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 34<br />
<br />
<br />
<br />
Tài liệu trích dẫn<br />
<br />
ADB. 1995. Governance: Sound Development Management. Manila: ADB.<br />
Agere, Sam. 2000. Promoting Good Governance: Principles, Practices và Perspectives.<br />
London: Commonwealth Secretariat<br />
Marlborough House.<br />
Arkadie, V. Brian và Raymond Mallon. 2003. Vietnam a Transition Tiger? ANU: Asia<br />
Pacific Press.<br />
Ban CHTW Đảng CS Việt Nam. 2011a. "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-<br />
2020." Ban CHTW Đảng CS Việt Nam, Hà Nội.<br />
—. 2011b. "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ<br />
sung, phát triển năm 2011) " Ban CHTW Đảng CS Việt Nam, Hà Nội.<br />
—. 2012. "Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng<br />
Đảng hiện nay." Ban CHTW Đảng CS Việt Nam, Hà Nội.<br />
Barber, Benjamin. 1997. "Tương lai của Xã hội Dân sự (dịch từ: Benjamin Barber<br />
deflates the four myths of democracy)." Civnet's Journal For Civil Society 1.<br />
Bùi Thế Cường. 2010. Góp phần tìm hiểu biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay. Hà Nội:<br />
NXB Khoa học Xã hội.<br />
Cohen, Daniel. 2003. Các quốc gia nghèo khó trong một thế giới thịnh vượng. Hà nội:<br />
NXB Chính trị Quốc gia.<br />
Đinh Công Tuấn. 2010. "Kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội dân<br />
sự ở châu Âu đối với mô hình đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc<br />
và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay." Viện Xã hội học, Hà Nội.<br />
Đỗ Thiên Kính. 2012. Hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Hà Nội: NXB<br />
Khoa học Xã hội.<br />
European Commission. 2010. "Europe 2020: A strategy for smart, sustainable và<br />
inclusive growth." European Commission, Brussels.<br />
Hoàng Thế Anh và Nguyễn Thanh Giang. 2008. Vấn đề xây dựng xã hội hài hòa XHCN<br />
của Trung Quốc. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc Gia.<br />
Huỳnh Khôi. 2006. "Nhận xét lại những quan điểm về xã hội dân sự tại Việt Nam." in<br />
Kinhtehoc.com.<br />
Le Bach Duong và Khuat Thu Hong. 2008. Market Transformation, Migration và Social<br />
Protection in A Transitioning Vietnam. Hanoi: The Gioi.<br />
Lê Văn Toàn. 2012. Phân tầng xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền<br />
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.<br />
McElwee, Pamela và Ha Hoa Ly. 2006. "Deepening Democracy Và Increasing Popular<br />
Participation in Vietnam." UNDP, Hanoi.<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 35<br />
<br />
<br />
Nguyễn Hữu Dũng. 2008. "Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và<br />
thực hiện chính sách an sinh xã hội ở nước ta." Tạp chí Cộng Sản 155.<br />
Nguyễn Phú Trọng. 2011. "Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình<br />
đổi mới đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta." Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.<br />
Nguyễn Quang A. 2009. "Xã hội dân sự đâu có đáng sợ." in Lao Động Cuối tuần, vol. 15.<br />
Hà Nội: Lao Động Cuối tuần.<br />
Nguyễn Quốc Phẩm và Đỗ Thị Thạch. 2012. "Về Chủ nghĩa xã hội và xây dựng Chủ<br />
nghĩa xã hội ở Việt Nam." Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.<br />
Nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam. 2004. Báo cáo phát triển Việt Nam 2005: Quản lý và<br />
điều hành. Hà Nội: Ngân hàng Thế giới.<br />
Norlund, Irene. 2007. "Filling the Gap: The Emerging Civil Society in Viet Nam." UNDP<br />
và SNV, Hanoi.<br />
Phạm Xuân Nam. 2010. "Mấy nét cơ bản về cơ sở lý luận, phương pháp luận nghiên cứu<br />
đề tài: Những yếu tố tác động đến phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở<br />
nước ta hiện nay." Pp. 13-28 in Những yếu tố tác động đến phát triển xã hội và<br />
quản lý phát triển xã hội trong tiến trình Đổi mới ở Việt Nam, edited by Trần Đức<br />
Cường. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.<br />
Reimer, Sabine. 2005. "Civil Society--A New Solution Beyond State và Market?"<br />
Maecenata Institute of Philanthropy và Civil Society, Humboldt University,<br />
Berlin.<br />
Sen, Amartya. 2002. Phát triển là quyền tự do. Hà nội: NXB Thống Kê.<br />
Song, Byung-Nak. 1990. "The Rise of the Korean Economy." Hong Kong: Oxford<br />
University Press.<br />
Soon, Cho. 1994. The Dynamics of Korean Economic Development. Washington D.C.:<br />
Institute for International Economics.<br />
Thái Xuân Sang. 2010. "So sánh mô hình quản lý công mới (hành chính phát triển) với<br />
mô hình hành chính truyền thống." in Trang thông tin điện tử, Trường Chính trị<br />
Nghệ An. Nghệ An: Trường Chính trị Nghệ An.<br />
Trần Hữu Quang. 2010. "Hướng đến một khái niệm khoa học về xã hội dân sự." Khoa<br />
học Xã hội 140.<br />
Trần Ngọc Hiên. 2008. "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhà nước<br />
pháp quyền và xã hội dân sự nước ta." Tạp chí Cộng Sản 145.<br />
Vũ Văn Nhiêm. 2008. "Vài nét về xã hội dân sự trong lịch sử và kinh nghiệm đối với<br />
nước ta." hoa học Pháp lý 1.<br />
Wilkinson, Ben, David Dapice, Dwight Perkins, Nguyen Xuan Thanh, Vu Thanh Tu<br />
Anh, Huynh The Du, Jonathan Pincus, và Tony Saich. 2008. "Choosing Success:<br />
The Lessons of East và Southeast Asia và Vietnam's Future." JFK School of<br />
Government, Harvard University, Boston.<br />
Wischermann, Jörg. 2010. "Civil Society Action và Governance in Vietnam: Selected<br />
Findings from an Empirical Survey." Journal of Current Southeast Asian<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 36<br />
<br />
<br />
Affairs:3-40.<br />
World Economic Forum. 2012. The Global Competitiveness Report 2012–2013. WEF,<br />
Geneva.<br />
World Economic Forum, và INSEAD. 2012. The Global Information Technology Report<br />
2012: Living in a Hyperconnected World. WEF and INSEAD, Geneva.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />