intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bàn về thuộc tính của văn học dân gian trong sự so sánh với văn học viết - GS. TS. Nguyễn Xuân Kính

Chia sẻ: Thảo Lê91 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:29

207
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bàn về thuộc tính của văn học dân gian trong sự so sánh với văn học viết trang bị cho các bạn những kiến thức về hai dòng (bộ phận) văn học, về tác giả của văn học dân gian, về tính chất không chuyên của văn học dân gian, về tính nguyên hợp, về tính dị bản,... Mời các bạn tham khảo để hiểu rõ hơn về điều này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bàn về thuộc tính của văn học dân gian trong sự so sánh với văn học viết - GS. TS. Nguyễn Xuân Kính

  1. Bàn về thuộc tính của văn học dân gian trong sự so sánh với văn học viết GS. TS. Nguyễn Xuân Kính (Viện Nghiên cứu văn hoá) Ở Việt Nam, khoa nghiên cứu văn học dân gian đã đi được một chặng đường dài, nhiều vấn đề lí luận về đặc trưng, thuộc tính của sáng tác ngôn từ đã được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, còn có một vài vấn đề, cũng như vài khía cạnh của một vấn đề cụ thể, có thể nói còn có những ý kiến khác nhau. Tiếp thu thành tựu của những người đi trước và đồng nghiệp, chúng tôi xin được bàn về thuộc tính của văn học dân gian trên cơ sở đối chiếu, so sánh với văn học viết. Bài viết của chúng tôi gồm chín mục sau đây: 1. Về hai dòng (bộ phận) văn học; 2. Về tác giả của văn học dân gian; 3. Về tính chất không chuyên của văn học dân gian; 4. Về tính nguyên hợp; 5. Về tính dị bản; 6. Về hai hình thức lưu truyền: truyền miệng và bằng văn bản; 7. Về tính ích dụng; 8. Về sáng tạo cá nhân, sáng tạo tập thể; 9. Kết luận. Trước khi được công bố, bài viết đã được PGS. TS. Nguyễn Xuân Đức, PGS. TS. Nguyễn Thị Huế, ThS. Nguyễn Giáo, ThS. Vũ Hoàng Hiếu, ThS. Lê Thị Thùy Ly đọc và nhận xét. 1. Về hai dòng (bộ phận) văn học Các khái niệm “văn học dân gian”, “văn học thành văn” (“văn học viết”), “văn học cộng đồng” đã được sử dụng ở nước ta. Ở ta, đã thành thói quen khi nói văn học là người ta hiểu đó là văn học thành văn (tức văn học viết), cũng như khi nói văn học Việt Nam là người ta thường nghĩ đó là văn học thành văn của người Việt (Kinh). Ở nước Nga, nói văn học tức văn học thành văn, còn cái mà chúng ta gọi là văn học dân gian thì họ gọi là phôncờlo (folklore). Ở Trung Quốc, cái mà chúng ta gọi là văn học thành văn, văn học viết, được gọi là văn học cao nhã, văn học tinh anh. Còn thuật ngữ văn học dân gian là do Việt Nam mượn của Trung Quốc. Ở nước này, họ còn một thuật ngữ khác: tục văn học (văn học thông tục) gần nghĩa với văn học dân gian. Dù gọi khác nhau nhưng nền văn học của mỗi nước vừa nêu đều có hai dòng (hai bộ phận) là văn học dân gian và văn học thành văn. Ở Việt Nam, văn học dân gian có từ bao giờ? Trả lời câu hỏi này, có hai quan 1 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  2. niệm. Quan niệm thứ nhất thuộc về đa số. Đó là GS. Đinh Gia Khánh (1924 - 2003), PGS. Chu Xuân Diên, PGS. Đỗ Bình Trị, GS. TS. Lê Chí Quế, PGS. TS. Nguyễn Bích Hà,… Thuộc các thế hệ khác nhau, họ giống nhau ở chỗ đều giảng dạy văn học dân gian ở các trường đại học, có giáo trình được phổ biến rộng rãi. Họ cho rằng, văn học dân gian ra đời từ thời kì công xã nguyên thuỷ, trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại ngày nay(1). Quan niệm thứ hai do GS. Nguyễn Tấn Đắc đề xuất. Năm 1987, khi còn đang công tác tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, ông cho rằng, chỉ sau khi có nhà nước, mới có hai dòng văn học: văn học dân gian và văn học viết. Trước đó chỉ có văn học cộng đồng. Theo quan niệm này, người Ê Đê, người Mơ Nông… không có văn học dân gian vì chưa phát triển đến trình độ tổ chức xã hội có nhà nước. GS. Nguyễn Tấn Đắc viết: “Trong một xã hội cộng đồng như vậy, văn hoá mang tính cộng đồng và cũng chưa nhiễm tính chính trị - đẳng cấp. Chưa có sự phân biệt giữa cái chính thống, quan phương với cái dân gian, thôn dã. Tất cả chỉ là một. Không có hiện tượng hai bộ phận văn hoá. Tính cộng đồng là đặc điểm bao trùm toàn bộ đời sống của xã hội đó. Khi nói dân gian là mặc nhiên thừa nhận có cái đối lập với nó. Nhưng ở trong xã hội này, văn hoá nói riêng, cũng như xã hội nói chung chưa có sự tách đôi thành hai bộ phận “đối lập” nhau”(2). Nếu theo quan niệm này, ở ta, văn hóa dân gian có từ thời kì văn hoá Đông Sơn, một thời kì có niên đại từ khoảng sáu, bảy thế kỉ trước Công nguyên đến thế kỉ I sau Công nguyên(3). Ở Việt Nam, văn học thành văn có từ bao giờ? Trong thời kì văn hoá Đông Sơn, người Việt cổ đã có chữ viết (khác Hán) hay chưa, vấn đề này tuy đã được GS. Hà Văn Tấn nhìn nhận theo hướng khẳng định, nhưng như GS. Đinh Gia Khánh đã phân tích, “dầu cho có chữ viết đi nữa thì chắc rằng với điều kiện xã hội chưa phân hoá thành giai cấp rõ rệt, vẫn chưa thể hình thành được dòng văn học chuyên nghiệp tách biệt khỏi dòng văn học dân gian. Có thể quan niệm rằng, nếu đã có chữ viết thì khi ấy chữ viết mới chỉ được dùng để ghi chép lại những sáng tác tập thể mà thôi”(4). Nếu người Việt cổ đã có chữ viết thì đến nay cũng chưa thấy một tác phẩm văn học thành văn nào được viết bằng thứ chữ ấy. Trừ PGS. Trần Nghĩa, tất cả các nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học thành văn đều cho rằng dòng văn học này có từ thế kỉ X, sau khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938) và lên ngôi vua (năm 939). Nếu GS. Đinh Gia Khánh đánh giá bài Chiếu dời đô (năm 1010) của Lý Thái Tổ là tác phẩm “chính thức mở ra trang đầu lịch sử văn học viết của nước Đại Việt”(5) thì PGS. Bùi Duy Tân (1935 - 2009) đề nghị lấy bài 2 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  3. Quốc tộ do thiền sư Pháp Thuận (sáng tác năm 981?) làm mốc mở đầu cho dòng văn học viết Đại Việt(6). Không quan niệm lịch sử văn học viết Việt Nam bắt đầu từ thế kỉ X, bằng một công trình công phu và dày dặn Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỉ X, PGS. Trần Nghĩa chứng minh rằng, “từng tồn tại một nền văn học chữ Hán thực sự ở cõi Lĩnh Nam, xứ sở ta xưa. Nền văn học chữ Hán này ra đời (từ thế kỉ I đến thế kỉ V) như là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ, phức tạp giữa một bên là âm mưu nô dịch, đồng hoá nặng nề, và bên kia là sức trỗi dậy vô song, với quyết tâm bảo vệ, giữ vững văn hóa dân tộc không gì lay chuyển, mặc dù tạm thời thất trận và bị đối phương cai trị. Nền văn học chữ Hán Việt Nam cũng đã dần dần phát triển (từ thế kỉ VI, VII đến thế kỉ X) theo sự lớn mạnh không ngừng của ý thức dân tộc được khảo nghiệm, thử thách, tôi luyện trong công cuộc đấu tranh giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước”(7). Văn học dân gian vận động lâu dài, sự thay đổi, biến đổi diễn ra chậm chạp hơn so với văn học thành văn. “Xét về mặt lịch sử, mặc dù văn học dân gian ra đời từ rất xưa và đến nay vẫn tồn tại song song với văn học viết, như một cội nguồn nuôi dưỡng nó, nhưng chỉ dưới hình thức viết, văn học mới thực sự phát triển đa dạng thành những hình thức phức tạp như thơ cách luật, phú, tiểu thuyết trường thiên,…”(8). Các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học (2004) đã rất đúng đắn khi nhìn văn học thành văn (văn học viết) của thế giới nói chung, của Việt Nam nói riêng theo quan điểm lịch sử. Theo họ, thuật ngữ văn học ở tiếng nước nào thoạt đầu cũng chỉ hình thức văn tự của văn học (trong tiếng La tinh literatura - litera nghĩa là chữ cái, tura có nghĩa như là “sự tổng hợp”; trong tiếng Hán, văn có nghĩa là “hội họp nhiều thứ mà thành văn chương”, nghĩa là bài văn dưới dạng văn tự). Văn học viết, do vậy ra đời cùng lúc với sự xuất hiện của thể chế giai cấp của xã hội và chính quyền nhà nước, bởi vì lúc ấy các dân tộc mới tìm cách có được văn tự. Trong thời kì chưa có nghề in (ở Trung Quốc, trước thời kì Tống; ở phương Tây, trước thế kỉ XV), văn học viết tồn tại dưới dạng chép tay, nên ít phổ biến, lại thường tam sao thất bản. Thoát thai từ văn học dân gian và ra đời cùng với chữ viết để ghi chép các văn thư nhà nước, văn học viết buổi đầu ở trong tình trạng gọi là “văn sử bất phân”. Người ta nói đến văn, thơ, phú nhưng chưa có khái niệm văn học như một bộ môn nghệ thuật ngôn từ. Lúc ấy, các thuật ngữ văn học, văn chương còn mang nội dung nguyên hợp, văn học có nghĩa là “văn chương, học vấn, văn hiến”; còn văn chương có nghĩa là “tất cả mọi tác phẩm văn nói chung, gồm thơ, phú, sử, triết, luận và các loại văn thư hành chính như chiếu, biểu, tấu, cáo, mệnh, 3 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  4. lệnh,…”. Dần dần đặc trưng tư duy hình tượng của văn học mới được ý thức. Ở phương Tây điều này nảy sinh sớm, còn ở Trung Quốc thì vào khoảng thế kỉ IV - V người ta mới thấy văn học viết khác các loại văn chương khác ở tính hình tượng và sự thể hiện tưởng tượng, tình cảm(9). Văn học dân gian và văn học thành văn vừa có những điểm chung, lại có những điểm khác nhau. Kể từ lúc hai tập giáo trình của Trường Đại học sư phạm Hà Nội và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội về văn học dân gian ra đời (1961, 1962)(10) đến nay, trong nửa thế kỉ qua, bằng nhiều cuốn sách, bài báo, các nhà nghiên cứu đã phân tích các thuộc tính của văn học dân gian. Bên cạnh những điểm gặp gỡ, giữa họ còn có một vài điểm khác nhau. 2. Về tác giả của văn học dân gian Tác giả của văn học dân gian không phải chỉ là nhân dân lao động, những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất. Đã có quan niệm cho rằng tác giả của văn học dân gian là nhân dân lao động chân tay, đặc biệt là nông dân. Đây là quan niệm của các nhà nghiên cứu xô - viết trước đây. Cho đến những năm 70 - 80 của thế kỉ trước, quan niệm này vẫn còn phổ biến. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng chịu ảnh hưởng của nó. Vào thập kỉ 80 của thế kỉ trước, ở Trung Quốc bắt đầu thảo luận, nhằm tránh khuynh hướng coi văn học dân gian chỉ là sáng tạo của nhân dân lao động. Bên cạnh đại đa số nông dân, tác giả của văn học dân gian, còn có các tầng lớp khác như tăng ni, đạo sĩ, kĩ nữ, thợ thủ công, thị dân(11). Có ý kiến cho rằng, ở Việt Nam, trong bộ giáo trình Văn học dân gian nổi tiếng của hai tác giả Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên, xuất bản lần đầu vào năm 1972 - 1973, cũng tồn tại quan niệm tác giả của văn học dân gian là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân dân lao động(12). Xem xét một cách thực chính xác, trong bộ sách này, ở một chỗ khác, các tác giả cũng nói đến những thành phần khác, không chỉ là nông dân(13). Năm 1974, nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh (1927 - 1975) đã viết về lực lượng sáng tác văn học dân gian trong các thế kỉ XVI, XVII, XVIII ở nước ta như sau: “Những tác giả vô danh đã hoà tiếng nói mình vào tiếng nói chung của đông đảo nông dân và thợ thủ công từ nay sẽ là: - Những “liền anh liền chị” day dứt nỗi lòng hoặc vui rộn tình xuân trong tiếng hát giao duyên ngày hội làng; - Những người ca mù nhưng vẫn thông tỏ cuộc đời và đi gieo chuyện khắp đó 4 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  5. đây; - Những ả đào ở giáo phường nơi đô hội cảm thấy xót xa phận “xướng ca vô loài” mà vẫn không ngớt giọng ca ngâm; - Những người lính thú không muốn xả thân cho mưu đồ vua chúa trong các cuộc chiến tranh phong kiến, nên “bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”; - Những anh khoá, anh đồ chán chường “văn chương phú lục chẳng hay, trở về làng cũ học cày cho xong”; - Những người buôn bán ngược xuôi, vui với chuyến hàng mới nơi xa, như “lên Vũ Ẻn mà quên đường về”(14). Vậy là, nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh đã xác định một cách sinh động, rằng từ thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XIX, ở nước ta, lực lượng sáng tác văn học dân gian là nông dân, thợ thủ công, thị dân, nhà nho, người buôn bán, binh lính. Thực ra, trước thế kỉ XVI, ở nước ta đã có binh lính, thị dân, ca sĩ dân gian, nhà nho bình dân,… Lúc đó, họ đã sáng tạo, thưởng thức, lưu truyền văn học dân gian. Năm 1977, trong bài “Để có thể nắm bắt thực chất của văn học dân gian”, GS. Đinh Gia Khánh viết: “Khi nói đến văn học dân gian, người ta thường quan niệm rằng dòng văn học này là do nhân dân sáng tác ra. Đối với người không chuyên môn thì một quan niệm như thế là tạm đủ. Nhưng đối với người làm công tác sưu tầm và nghiên cứu văn học dân gian thì xét cho kĩ, một quan niệm như thế chưa thực sự là tinh tế và không phù hợp với yêu cầu tìm hiểu một cách toàn diện và sâu sắc kho tàng văn học dân gian rất phong phú mà cũng rất phức tạp”(15). Tác giả phân biệt hai khái niệm “nhân dân” và “dân chúng”. Theo ông, văn học dân gian là sản phẩm tinh thần của dân chúng ngày xưa, tức là sản phẩm tinh thần của đông đảo quần chúng lao động mà chỉ có một bộ phận nào đó mới có được những tư tưởng tiên tiến cho lúc đương thời. Dân chúng ngày xưa bao gồm các tầng lớp nông dân và các tầng lớp thợ thủ công. Ngoài ra, còn có các nhà nho, nhà sư đã tác động vào kho tàng văn học dân gian bằng việc ghi chép lại những tác phẩm vốn được dân chúng truyền khẩu; và hơn thế nữa, họ đã tham gia vào việc sáng tác văn học dân gian. Năm 1991, PGS. Đỗ Bình Trị xác định rằng, trong thời kì công xã nguyên thuỷ, văn học dân gian là sáng tác của tập thể thị tộc, bộ lạc. Trong các thời kì sau (khi xã hội đã phân chia giai cấp), nhân dân chủ yếu là nông dân, thợ thủ công và giai cấp công nhân. Ở nước ta, dưới chế độ phong kiến, tham gia sinh hoạt văn nghệ dân gian còn có tầng lớp trí thức bình dân (và cả phân số trí 5 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  6. thức thành đạt) song vẫn gắn bó với nhân dân, hướng về nhân dân(16). Tóm lại, việc xác định lực lượng sáng tác, lưu truyền và thưởng thức văn học dân gian không phải chỉ là nhân dân lao động đã được nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh thực hiện từ năm 1974. Sau đó các tác giả khác như Đinh Gia Khánh, Đỗ Bình Trị tiếp tục khẳng định tác giả của văn học dân gian thời Đại Việt là nông dân, thợ thủ công, các nhà nho, nhà sư. Rất tiếc, gần đây vẫn còn có tác giả quan niệm nhân dân là những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, đồng thời cũng sáng tạo văn học dân gian; ngoài ra không nhắc đến những lực lượng sáng tác khác(17). Cũng thật đáng tiếc và chưa thoả đáng khi có nhà nghiên cứu đã không bao quát hết ý kiến của đồng nghiệp dẫn đến việc khen chê chưa thoả đáng khi bàn về vấn đề tác giả của văn học dân gian(18). Trong thời quân chủ (từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), lực lượng sáng tác văn học thành văn là các nhà sư, nho sĩ, văn quan, võ tướng, vua chúa. Trong dòng văn học dân gian, có rất nhiều trường hợp người sáng tác và lưu truyền là người dân không biết chữ. Điều này không bao giờ có trong dòng văn học thành văn. 3. Về tính chất không chuyên của văn học dân gian Nếu văn học dân gian là sáng tác không chuyên thì các tác giả của dòng văn học thành văn thời trung đại cũng không phải là những cây bút chuyên nghiệp. Các tác giả Chu Xuân Diên, Nguyễn Bích Hà đều nhấn mạnh tính chất nghiệp dư, tính chất không chuyên của văn học dân gian. Năm 1972, Chu Xuân Diên viết rằng, có thể thấy ở loại hoạt động văn học dân gian có “một khuynh hướng trở nên độc lập với hoạt động vật chất, và văn học dân gian ngày càng được nhân dân lao động nhận thức như một hoạt động nghệ thuật (không chuyên nghiệp) trong khi sáng tác, diễn xướng”(19). Ở một chỗ khác, Chu Xuân Diên có hẳn một tiểu mục nhan đề “Văn học dân gian, một hình thức của nghệ thuật biểu diễn không chuyên”(20). Năm 2008, tác giả Nguyễn Bích Hà viết: “Khi nhấn mạnh khái niệm nhân dân như những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh tính chất nghiệp dư của sáng tác dân gian”(21). Nói không chuyên tức là đối lập với chuyên nghiệp. Chúng tôi quan niệm rằng, nói đến chuyên nghiệp là nói đến hai yếu tố; thứ nhất là tính chuyên môn, là người ta phải dành nếu không toàn bộ thì cũng hầu hết, hoặc chủ yếu thời gian làm việc cho công việc chuyên môn, là chất lượng nghệ thuật; thứ hai là nói đến việc lấy “nghiệp” đó làm nghề kiếm sống. Do quan niệm như 6 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  7. vậy, chúng tôi không tán thành PGS. Chu Xuân Diên khi ông cho rằng, trong xã hội phong kiến, văn học thành văn là nghệ thuật chuyên nghiệp(22). Trong dòng văn học thành văn thời Đại Việt, với tài liệu hiện còn, chúng ta thấy lực lượng sáng tác là các nhà sư, vua quan, quý tộc, nho sĩ, võ tướng: Viên Chiếu, Mãn Giác, Ỷ Lan, Lý Nhân Tông, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Phạm Sư Mạnh, Trần Minh Tông, Sử Hi Nhan, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát, Tự Đức, Miên Thẩm, Miên Trinh, Nguyễn Đình Chiểu,… Có những tác giả mà tiểu sử còn nhiều điều bí ẩn, mơ hồ, như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan,… Mặc dù thành phần xuất thân khác nhau, vị thế, thân phận khác nhau, dù có người tiểu sử còn chưa rõ ràng, nhưng xét ở phương diện sống bằng nghề văn, bằng văn chương thì tất cả những người này đều không phải là những người viết văn chuyên nghiệp. Phần lớn họ là những người làm quan, họ sống và nuôi gia đình bằng lương bổng. Họ không có khái niệm về nhuận bút. Theo giai thoại, sau khi Lê Ngô Cát cùng với Phạm Đình Toái hoàn thành Đại Nam quốc sử diễn ca, được vua thưởng tấm lụa và hai quan tiền, họ Ngô đã ứng tác rằng: Vua khen thằng Cát có tài Ban cho cái khố với hai đồng tiền. Hai dòng này có nhiều dị bản và có nhiều cách giải thích khác nhau(23). Dù hiểu thế nào chăng nữa, đó không phải là nhuận bút. Nếu là nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp, họ phải lấy nghề sáng tác văn chương làm chính yếu, tác phẩm của họ phải được nhân bản rộng rãi và được bán lấy tiền. Nhưng trong thời trung đại, không một người cầm bút nào biết đến điều này; thậm chí họ còn cho việc xuất bản tác phẩm để bán lấy tiền là một việc làm nhục nhã. Trong thời Đại Việt, các tác giả của dòng văn học thành văn làm thơ trữ tình theo thể Đường luật, sáng tác những bài cáo, bài phú, bài hát nói theo những quy phạm chặt chẽ của những thể thơ, văn này. Ngày trước, sĩ tử đi thi chẳng đã phải thuộc lòng thi thiên, phú bách, văn sách năm mươi (một nghìn bài thơ, một trăm bài phú, năm mươi bài văn sách) đó sao? Như vậy, văn thơ thời này là một nghệ thuật chuyên môn, còn các tác giả là những người cầm bút không chuyên nghiệp. PGS. Đỗ Bình Trị cho rằng: cần phân biệt vấn đề “nghệ thuật chuyên môn” và “nghệ thuật không chuyên môn” với vấn đề “con người chuyên hay không chuyên làm nghệ thuật” (tức là vấn đề nghệ sĩ chuyên nghiệp hay nghệ sĩ 7 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  8. nghiệp dư). Folklore cũng có những nghệ nhân chuyên nghiệp của nó. Nhưng họ là những người chuyên nghiệp của một nghệ thuật không chuyên môn(24). Chúng ta thấy những nghệ nhân hát xẩm là nghệ nhân chuyên nghiệp của một nghệ thuật không chuyên môn. Riêng trong trường hợp này, ý kiến của Đỗ Bình Trị là xác đáng. Trong giai đoạn văn học từ năm 1884 đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,… đã biết đến tiền nhuận bút nhưng trước hết họ là những nhà giáo. Họ sống bằng nguồn thu nhập thường xuyên là thù lao dạy học. Cho đến hiện nay, ở nhiều nhà văn, nhà thơ của nước ta vẫn còn thiếu tính chuyên nghiệp, xét ở phương diện chất lượng tác phẩm, trình độ chuyên môn của nhà văn và phương diện sống bằng nhuận bút. Không riêng gì nước ta, ở nước ngoài cũng thế. Năm 1993, nhà văn hóa Nga Đ. Likhachốp viết: “Nói chung, sự chăm lo và đào sâu chuyên môn là một nguyên tắc sống hoàn toàn không tồi. Hơn nữa, nước Nga đang có quá nhiều nhà nghiệp dư đảm trách những việc không thuộc chuyên môn của mình. Điều này không chỉ dính dáng đến khoa học, mà còn đến cả nghệ thuật và chính trị, là những lĩnh vực cũng rất cần đến tính chuyên nghiệp”(25). 4. Về tính nguyên hợp Không phải thể loại nào của văn học dân gian cũng có tính nguyên hợp. Khi bàn về đặc trưng của văn học dân gian, nhiều tác giả hay nói đến tính nguyên hợp. “Tính chất phức tạp về mặt hình thái ý thức xã hội của văn học dân gian có nguồn gốc từ sự nhận thức nguyên hợp trong xã hội nguyên thuỷ”(26). Về tính nguyên hợp, có khá nhiều ý kiến. Năm 1966, nhà nghiên cứu văn học dân gian xô - viết Crápxốp quan niệm một hiện tượng văn nghệ có tính nguyên hợp khi các thành tố lời, vũ điệu, âm nhạc gắn kết xoắn xuýt vào nhau, không chia tách(27). Năm 1972, nhà lí luận về văn học dân gian Chu Xuân Diên đã giải thích như sau: “Nguyên hợp (syncrétique): có sự hoà lẫn, trộn lẫn với nhau một cách tự nhiên, vốn có, của nhiều yếu tố khác nhau, ở dạng những yếu tố này chưa từng bị phân hoá”(28). Năm 1989, khi phân tích tính nguyên hợp trong văn hoá dân gian, GS. Đinh Gia Khánh xem xét vấn đề này trên ba bình diện chủ yếu: Một là mối quan hệ giữa nghệ thuật và thực tiễn trong quá trình sáng tạo văn hoá dân gian. Hai là mối quan hệ giữa các thành tựu thẩm mĩ khác nhau của những thời đại khác nhau và những địa phương khác nhau. 8 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  9. Ba là mối quan hệ giữa các thành tố của văn hoá dân gian(29). GS. Đinh Gia Khánh phân tích tính nguyên hợp ở hiện tượng văn hoá dân gian. Nếu áp dụng cách phân tích này đối với văn học dân gian thì chúng ta chỉ cần “điều chỉnh tiêu chuẩn” ở phương diện thứ ba: mối quan hệ giữa các thành tố của văn học dân gian. Điều chỉnh như vậy cũng không trái với tinh thần khoa học của GS. Đinh Gia Khánh. Như vậy, quan niệm của GS. Đinh Gia Khánh có phần rộng hơn quan niệm của GS. Crápxốp. Năm 1990, sau khi trình bày quan niệm của Guxép và của Chu Xuân Diên về tính nguyên hợp, GS. Lê Chí Quế viết: “Tính nguyên hợp được biểu hiện đầu tiên ở sự chưa tách rời giữa hoạt động thực tiễn với sinh hoạt văn học dân gian”. “Tính nguyên hợp còn thể hiện ở sự chưa tách rời các loại hình nghệ thuật trong tổng thể folklore, nghĩa là bộ phận nghệ thuật ngôn từ gắn bó chặt chẽ với các loại hình nghệ thuật khác như vũ đạo, âm nhạc, tạo hình…”(30). Năm 1991, PGS. Đỗ Bình Trị viết: “Tính nguyên hợp của văn học dân gian không chỉ biểu lộ ở sự hoà lẫn của những hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong nội dung các tác phẩm mà còn biểu lộ ở những chức năng thực hành - sinh hoạt đa dạng của nó, và, nói rộng ra, ở mối liên hệ trực tiếp và sự phụ thuộc của nó vào hoạt động vật chất và sinh hoạt của nhân dân”(31). “Ở folklore cổ đại không chỉ có sự hoà lẫn của chức năng nghệ thuật với các chức năng tư tưởng hệ và văn hoá khác, mà còn có sự kết hợp của nghệ thuật ngôn từ với các loại hình khác của nghệ thuật dân gian như âm nhạc, ca hát, nhảy múa, nghệ thuật diễn xuất,… (Ở một vài thể loại, nghệ thuật ngôn từ còn kết hợp với cả một số yếu tố của văn hoá dân gian như trò chơi, nghi lễ). Cũng chưa có sự tách bạch các yếu tố tự sự, trữ tình và kịch. Đặc tính nghệ thuật được quy định một cách lịch sử ấy cũng được biểu thị bằng thuật ngữ “nguyên hợp”. Folklore cổ đại là nghệ thuật nguyên hợp. Đó là một nghệ thuật tổng hợp tự nhiên”(32). Theo tác giả, trong thời công xã nguyên thuỷ, tính nguyên hợp thể hiện rất đậm; ở các thời kì sau văn học dân gian là một nghệ thuật tổng hợp, mà trong đó các yếu tố ngôn từ, nhạc điệu, động tác, trang phục,… hợp thành một chỉnh thể(33). Các nhà khoa học xô - viết không bao giờ quên rằng có nhiều thể loại (tráng sĩ ca, dân ca trữ tình, thơ ca nghi lễ) mang tính nguyên hợp. Còn một số thể loại khác như tục ngữ, truyện cổ tích không có tính nguyên hợp. Trong khi thừa nhận thành tựu của các nhà folklore - âm nhạc học, những người cố gắng nghiên cứu phần lời ca và giai điệu trong sự thống nhất, họ không loại trừ việc 9 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  10. nghiên cứu tách rời một mặt nào đó của tác phẩm folklore, chẳng hạn mặt ngữ văn. Tính chất xác đáng của việc nghiên cứu ngữ văn một cách độc lập thể hiện qua bốn lí do: a. Trong quá trình nghiên cứu, có thể chia tách đối tượng để xem xét thật kĩ lưỡng mặt này hoặc mặt khác. b. Trong folklore, không phải tất cả các thể loại đều có sự gắn bó giữa lời và giai điệu (tục ngữ, câu đố, truyện cổ tích, truyền thuyết). Như vậy, không phải tất cả các thể loại đều có tính nguyên hợp. c. Thành phần ngôn từ trong tác phẩm folklore có thể tồn tại mà không có giai điệu, nhưng nếu giai điệu mà thiếu lời thì không tồn tại, nếu có, chúng hiện ra như một dạng đặc biệt của sáng tác dân gian. d. Nhiều công trình nghiên cứu khẳng định rằng, trong sự thống nhất giữa lời và giai điệu, yếu tố quyết định thường là phần lời. Phần này thường quy định đặc trưng của giai điệu. Chẳng hạn, cấu trúc cú pháp và nhịp của câu thơ quy định tính chất và nhịp của giai điệu; tính chất của phong cách ngôn từ của tác phẩm tác động tới tính chất của phong cách âm nhạc, mặc dầu cũng có cơ sở để nói về ảnh hưởng của mặt âm nhạc của tác phẩm đối với mặt ngôn từ”(34). Như vậy, một truyện cổ tích, một áng ca dao, một truyện thơ Nôm bình dân cũng có thể được tìm hiểu, phân tích với những quy phạm, thuật ngữ được áp dụng khi nghiên cứu văn học thành văn, với điều kiện trong khi tìm hiểu, phân tích, chúng ta không quên đặc điểm riêng của văn học dân gian. Tóm lại, không phải thể loại nào của văn học dân gian, thời đại nào của dòng văn học dân gian cũng có tính nguyên hợp. 5. Về tính dị bản Cả văn học dân gian và văn học thành văn đều có hiện tượng có dị bản, nhưng xét về bản chất, đó là những loại dị bản khác nhau. Sau khi tác phẩm văn học dân gian được ghi chép, được nhiều sách biên soạn, đã nảy sinh ra các dị bản không do dân gian tạo ra; nguyên nhân tạo ra các dị bản này giống như dị bản trong văn học viết là kết quả của sự sửa chữa của nhiều thế hệ biên soạn, của các cơ quan xuất bản, thậm chí do ấn loát sai. Văn học dân gian nói chung và một tác phẩm nói riêng (lời ca dao A chẳng hạn) luôn luôn được lưu truyền trong không gian và qua thời gian. Quá trình lưu truyền có thể làm cho A sâu sắc hơn về nội dung, chặt chẽ thêm về kết cấu, trau chuốt hơn về nghệ thuật ngôn từ. Quá trình lưu truyền ấy lại có khi làm cho A bị phá vỡ, mất dần đi hoặc trở nên một bộ phận cấu thành của lời 10 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  11. khác. Quá trình ấy cũng có thể giữ nguyên khung cấu tạo của A, chỉ thay đổi một số chi tiết theo một trong hai xu hướng cụ thể hoá và khái quát hoá. Từng năm tháng, từng địa phương, từng nhóm người, từng cá nhân tiếp thu nó, ghi nhớ nó, lưu truyền nó đều in dấu vào nó, làm cho nó biến đổi. Sự biến đổi là liên tục và hiện tượng có những bản khác (còn gọi là dị bản) xuất hiện một cách tất yếu trong quá trình này. Vận động đến một thời điểm nhất định hoặc một địa phương nhất định, A sẽ thay đổi với một trong hai khả năng: 1. A thay đổi vượt quá độ, trở thành lời khác, là B chẳng hạn. 2. A thay đổi chưa vượt quá độ, vẫn là nó, nhưng có thêm sắc thái mới, là A’ chẳng hạn. A và B là hai lời riêng biệt. Còn A và A’ là hai bản khác nhau của một lời. Khi sưu tập, người ta có thể gặp nhiều bản khác nhau của một lời và họ gọi hiện tượng này là đại đồng tiểu dị. Nếu quy ước một lời (một tác phẩm) ca dao có lời hát lúc đầu là A, qua sự vận động qua không gian và thời gian, ta có: A’ A’’’ A An’ A’’ A’’’’ A’, A’’, A’’’, A’’’’, ..., An’ là sản phẩm của tập thể. A’’’ có thể hay hơn A, nhưng cũng có thể kém đặc sắc hơn. Trên thực tế có sự xuất hiện khá tuần tự, trước sau giữa nhiều bản (A’’’, A’’’’, An’ ) và có cả sự xuất hiện đồng thời (A’ và A’’). Ở thời điểm hiện nay, qua sưu tầm chúng ta thu được ở dạng đồng đại: An’ A’’’’ A A’’ A’ A’’’ Nhìn chung, nhà nghiên cứu văn học dân gian rất khó và thường là không xác 11 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  12. định được thời điểm ra đời của A, A’, A’’, A’’’, A’’’’, ... An’. Trong folklore nói chung, trong ca dao dân ca nói riêng, tất cả các bản A’, A’’, A’’’, ..., An’ là có giá trị như nhau, là bộ mặt hoàn chỉnh của một lời, một tác phẩm(35). Trong văn học thành văn, cũng có hiện tượng dị bản. Dị bản trong văn học viết là sản phẩm trên con đường tìm tòi của nhà văn, nhà thơ nhằm đi tới một bản hoàn thiện nhất, hay nhất (theo ý tác giả). Xin nêu hai thí dụ về thơ Huy Cận (1919 - 2005) và Nguyễn Đình Thi (1924 - 2003). Có những bài thơ được Huy Cận viết nhanh, dường như không có gì thay đổi từ lần viết đầu đến khi in ra. Nhưng cũng có bài ông phải sửa chữa khá vất vả. Nhà phê bình, nghiên cứu văn học Hà Minh Đức đã được ông đưa cho xem 17 bản thảo của bài Tràng giang. Có những câu sửa một hai lần như:“Không cầu giao nối niềm thân mật” được chữa lại là: “Không cầu gợi chút niềm thân mật”. Hay: “Hiu hắt bờ xanh tiếp bãi vàng” được chữa lại là: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Câu thơ “Sông dài trời rộng bến cô liêu” được chữa lại từ những câu ban đầu: - Bờ lau san sát bến cô liêu - Bờ hoang cò đậu đá cheo leo - Bao la trời rộng nắng xanh veo Câu thơ làm ông vất vả hơn cả là câu “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Nó là kết quả của nhiều lần đổi thay. Lúc đầu nhà thơ lấy hình ảnh cánh bèo trôi dạt trên sông nước mênh mông để liên tưởng đến cuộc đời: - Một cánh bèo trôi đã lạc dòng - Một cánh bèo đơn lạnh giữa dòng - Một chút bèo đơn lạnh giữa dòng - Một cánh bèo xanh lạc mấy dòng - Một gót bèo xanh lạc mấy dòng … Sau nhà thơ nghĩ đến hình ảnh của những thân cây khô mà mưa bão xô đẩy và trôi dạt trên những dòng sông. Theo ông, có lẽ hình ảnh này mới hơn là cánh bèo xanh và có sức gợi cảm hơn. Những dị bản được viết lại là: - Gỗ lạc rừng xa cuộn xiết dòng - Củi một cành xuôi lạc mấy dòng Và cuối cùng, câu thơ đứng lại ở dạng chọn lọc: “Củi một cành khô lạc mấy 12 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  13. dòng”(36). Theo GS. TS. Mã Giang Lân, Đất nước là bài thơ xuất sắc của thơ ca hiện đại Việt Nam, đồng thời cũng rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Đình Thi. Từ bản I (1948 - 1954) đến bản II (1948 - 1955) là một quá trình “lột xác”. Bản I, bản II đều có thể phân làm 11 đoạn tương ứng nhau. GS. Mã Giang Lân đã cho người đọc thấy sự sửa chữa của nhà thơ. Thí dụ, đây là đoạn 1 của bản I: Sáng mát trong như sáng năm xưa. Gió thổi mùa thu trên đồi núi Sông Cầu êm ả cuộn về xuôi. Còn đây là đoạn 1 của bản II: Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa Đây là đoạn 2 của bản I: Tôi nhớ cánh đồng thơm lúa mới Gió thổi mùa thu vào Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Nắng vàng hoe ngõ vắng Thềm cũ lối ra đi Lá rụng đầy Còn đây là đoạn 2 của bản II: Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại 13 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  14. Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy Đây là đoạn 3 của bản I: Ôi nắng dội chan hoà Nao nao trời xanh biếc Như cười nói thiết tha Còn đây là đoạn 3 của bản II: Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre, phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha Các đoạn 4, 5, 6, 7, 11 của hai bản về cơ bản giống nhau. Các đoạn 8, 9, 10 có sự khác nhau. “Ở đây không đơn giản chỉ là ngôn từ. Các lời thơ hoán vị, các từ ngữ thay đổi, bổ sung. Tư duy nghệ thuật thể hiện vai trò đạo diễn: sắp xếp lại các từ, ngữ, âm thanh, nhịp điệu, vần, lời thơ…”(37). Khi so sánh hai văn bản Đất nước được hoàn thành ở hai mốc thời gian 1954 và 1955, nhà phê bình, nghiên cứu nhận thấy sự chuyển biến trong tư duy nghệ thuật của nhà thơ. Và đến năm 1955, bản in năm này là bản chính thức, sẽ có mặt trong các tuyển tập thơ sau này. Nếu quy ước văn bản Đất nước năm 1954 là Đ’, văn bản Đất nước năm 1955 là Đ, ta có: Đ’ Đ 1954 1955 Ngoài ra trong thơ Thế Lữ (1907 - 1989), Tế Hanh (1921 - 2009), trong văn 14 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  15. xuôi nghệ thuật của Nguyễn Tuân (1910 - 1987), Nam Cao (1915 - 1951),… cũng có không ít trường hợp các tác giả sửa lại tác phẩm trong những lần tái bản. Sau khi tác phẩm văn học dân gian được ghi chép lại, được nhiều sách biên soạn công bố, có tình trạng dị bản không phải do dân gian sáng tác. Thí dụ, chúng ta lấy văn bản sau (đã được ghi lại trong các sách Tục ngữ và dân ca Việt Nam tập 1 (1956) của Vũ Ngọc Phan và Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (1971) cũng của Vũ Ngọc Phan, Ca dao nhi đồng (1969) của Doãn Quốc Sỹ) làm căn cứ để so sánh: Bao giờ cho đến tháng ba Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng Hùm nằm cho lợn liếm lông Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi Nắm xôi nuốt trẻ lên mười a Con gà, be rượu nuốt người lao đao Lươn nằm cho trúm bò vào Một đàn cào cào đuổi đàn cá rô b Lúa mạ nhảy lên ăn bò c Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu d Gà con đuổi bắt diều hâu Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông. Chúng ta có hai dị bản ở các sách Thi ca bình dân Việt Nam tập 4 (1971) của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam văn học dân gian (1972) của Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu và Phạm Ngọc Hy. Bản ở sách Thi ca bình dân Việt Nam khác ở dòng a: “Mâm xôi nuốt trẻ lên mười”. Bản ở sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam văn học dân gian chỉ ghi đến hết dòng d, dòng b là: “Một đàn cào cào đi bắt cá rô”, dòng c là: “Thóc giống đuổi 15 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  16. chuột trong bồ”(38). Sở dĩ có các dị bản nêu trên là do sự sửa chữa, sự đại khái của các soạn giả. Ngoài ra, còn có thể nêu ra nhiều thí dụ khác với những nguyên nhân giống với những lí do dẫn đến sự có mặt của dị bản trong văn học viết là do việc đọc và phiên âm chữ Nôm (đối với văn học trung đại), do sự sửa chữa, sự đại khái của nhiều thế hệ biên soạn, do sự sửa chữa của cơ quan xuất bản. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỉ XVI) được người đời sau chép lại. Thật khó xác định đâu là bản do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác! Mở tập Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (Đinh Gia Khánh chủ biên, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1983), sau phần tiểu luận, phần thơ văn bắt đầu từ trang 53. Mở đầu trang này là một bài thơ với câu đầu tiên “Lần lữa ngày qua tháng qua”. Ngay câu này đã có dị bản rồi: “Lẩn thẩn ngày qua tháng qua”. Nguyễn Du (1766 (?) - 1820) sáng tác Truyện Kiều. Theo một nhà nghiên cứu, đến nay, chúng ta có các “bản Kiều”: Bản Liễu văn đường, chữ Nôm, 1871 Bản Kiều Oánh Mậu, chữ Nôm, 1902 Bản Kim Vân Kiều truyện quảng tập, chữ Nôm, 1904 Bản Quan văn đường, chữ Nôm, 1906 Bản Phúc văn đường, chữ Nôm, 1918 Bản do Trương Vĩnh Ký phiên âm, xuất bản ở Sài Gòn, 1875 Bản do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim phiên âm, Hà Nội, 1927 Bản do Nguyễn Khắc Hiếu phiên âm, Hà Nội, 1941 Bản Văn Hồng Thịnh xuất bản ở Hà Nội, không đề năm … Khi cần có bản gốc để biên soạn Từ điển Truyện Kiều, GS. Đào Duy Anh tự soạn lấy bản ấy, bản này được soạn trên cơ sở đối chiếu những chỗ dị, đồng của các bản kể trên mà nhận định chữ nào là chính xác nhất. Văn bản Truyện Kiều do Đào Duy Anh (ĐDA) soạn (1974) có một số chỗ khác với văn bản Truyện Kiều do PGS. Nguyễn Thạch Giang (NTG) khảo đính và chú giải (1983). Ví dụ: Ở Từ điển Truyện Kiều (ĐDA) là: Có nhà viên ngoại họ Vương 16 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  17. Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung(39). Ở Truyện Kiều (NTG) là; Có nhà viên ngoại họ Vương Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung(40). Ở Từ điển Truyện Kiều (ĐDA) là: Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nen(41). Ở Truyện Kiều (NTG) là: Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm(42). So với Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du (mà hiện nay chưa tìm thấy thủ bản) thì chỉ có thể lựa chọn: hoặc “nghĩ”, hoặc “nghỉ” (đại từ ngôi thứ ba), hoặc không chọn cả hai; hoặc “nen”, hoặc “nêm”, hoặc không chọn cả hai; không thể có chuyện cả “nghĩ” và “nghỉ”, cả “nen” và “nêm” đều có mặt trong nguyên tác của Nguyễn Du. (Điều này lại có thể được chấp nhận trong sáng tác cũng như trong các văn bản sưu tầm thơ ca dân gian, với điều kiện đó không phải là những bản sai). Vào những năm 60 của thế kỉ XX, PGS. Nguyễn Văn Hoàn có dịp gặp giáo sư Sisin, Trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô công tác tại Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Ông Nguyễn Văn Hoàn “đặt vấn đề: giả thiết tìm lại được nguyên tác của Nguyễn Du nhưng lời văn cổ hơn và không hay bằng văn bản hiện đang lưu hành, thì nên xử lí như thế nào?”. Nhà nghiên cứu xô - viết “đã nắm chặt bàn tay hộ pháp đấm nhẹ xuống mặt bàn, nhìn thẳng vào mắt” nhà nghiên cứu Việt Nam và nói: “Nguyên tác là vàng!”(43). Tham gia thảo luận về bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, nhà giáo Nguyễn Hùng Vĩ nhận xét, nếu tác phẩm này đúng là của bà "thì những ghi chép sớm nhất như đã biết cách thời điểm sáng tác 30 - 40 năm"(44). Ông trình bày 12 dị bản, những bản này được ghi lại từ cuối thế kỉ XIX đến năm 2000, khác nhau ở các trường hợp: qua hay tới, chợ hay rợ, "quyến chúa" hay "luyến chúa",... 17 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  18. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Vũ Trọng Phụng là một nhà văn nổi tiếng. Năm 1936 tiểu thuyết Giông tố của ông đăng nhiều kì trên Hà Nội báo. Đầu năm 1937, tác phẩm này lần đầu tiên được in thành sách ở Nhà xuất bản Văn Thanh (94 phố Cầu Gỗ, Hà Nội). Sau khi Vũ Trọng Phụng mất 12 năm, Giông tố được in lần thứ hai (tái bản) tại Nhà xuất bản Mai Lĩnh ở Hà Nội. Cuối năm 1956 ở Hà Nội, Giông tố được tái bản tại Nhà xuất bản Văn nghệ. Từ năm 1987 đến nay Giông tố được in lại khá nhiều lần. Các bản in này hầu như đều sử dụng văn bản của Nhà xuất bản Mai Lĩnh. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã so sánh đối chiếu. Kết quả, các bản in sau khi nhà văn qua đời có rất nhiều khác biệt so với bản in năm 1936 và năm 1937(45). Như trên đã nói, xét về bản chất, dị bản trong văn học viết là kết quả trên con đường mà chủ thể sáng tạo cân nhắc, lựa chọn. Đến thời điểm công bố, chỉ có một văn bản tác phẩm. Còn ở văn học dân gian, trong khi lưu truyền, ở một thời điểm, tại nhiều địa điểm có thể có nhiều bản, gọi là dị bản. Nhận thức được điều này, trong khi sáng tác truyện ngắn Vàng lửa, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã dùng thủ pháp của văn học dân gian để kết thúc tác phẩm. Truyện này kể về Phăng, một người Pháp thích phiêu lưu. Phăng được Bá Đa Lộc tiến cử là người giúp việc cho vua Gia Long, có nhiều dịp gần gũi, trò chuyện với nhà vua. Nhân vật này còn được Gia Long cho phép đi nhiều nơi. Phăng đã từng gặp Nguyễn Du và đã có một số nhận xét về Nguyễn Du. Trở về Phăng đã kể lại cho Gia Long ấn tượng khi gặp Nguyễn Du. Năm 1814, người ta phát hiện ra một nơi có vàng. Phăng xin nhà vua cho một số người châu Âu cùng anh ta đi tìm kiếm. Trong đoạn cuối của tác phẩm, ông viết: “Tôi xin hiến bạn đọc ba đoạn kết cho câu chuyện này để bạn đọc tuỳ ý lựa chọn”(46). Sau đó, ông giới thiệu ba đoạn kết. Trong đoạn kết 1, đoàn tìm vàng còn sót lại ba người, Phăng bảo toàn nguyên vẹn số vàng được đào mang về. Vua Gia Long cho khai thác mỏ vàng, Phăng được cử trông coi việc này. Hai người châu Âu còn sót lại cũng được mời tham gia nhưng họ từ chối. Một hôm, Phăng bị đầu độc. Trong đoạn kết 2, đoàn tìm vàng chết hết, trừ một mình Phăng. Trở về kinh đô, Phăng được vua Gia Long ban thưởng hậu hĩnh. Nhà vua cho tiến hành khai thác mỏ vàng. Phăng đem theo người vợ Việt Nam là Vũ Thị và một số lớn vàng hồi hương. Về Pháp, ông sống sung sướng đến già. Trong đoạn kết 3, tất cả đoàn tìm vàng đều bị giết chết, do lính triều đình bao vây và tấn công. Vua Gia Long cho sung công số vàng thu được và sau đó cử một người trong hoàng tộc đứng ra lo việc khai thác mỏ vàng. 6. Về hai hình thức lưu truyền: truyền miệng và bằng văn bản 18 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  19. Văn học dân gian không chỉ được truyền miệng, mà còn có cả sáng tác bằng văn bản. Tính truyền miệng được nhiều tác giả xem là một trong những đặc trưng của văn học dân gian. Khi phân biệt giữa văn học dân gian và văn học thành văn, bên cạnh những tính chất khác, người ta thường nói đến tính chất này. Có người xem đây là đặc trưng cơ bản nhất của văn học dân gian. Nhìn chung, việc coi tính truyền miệng là tính chất quan trọng của văn học dân gian là một nhận thức đúng. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa sự có mặt cũng như vai trò của tính truyền miệng thì nhận thức này không thật phù hợp với thực tế văn học dân gian của Trung Quốc và Việt Nam. Năm 2003, GS. Kiều Thu Hoạch giới thiệu một quan niệm tương đối mới ở Trung Quốc. Theo đó, “văn học dân gian vốn dĩ từ xa xưa là sáng tác truyền miệng; song trong lịch sử lâu dài, khi dân tộc có chữ viết, thì văn học dân gian lại được sáng tác và lưu truyền bằng cả hai phương diện: truyền miệng lẫn văn bản. Nếu không thừa nhận sự thực đó, tức là đã để lọt một bộ phận quan trọng khi tiến hành nghiên cứu văn học dân gian. Tỉ dụ như tác phẩm sử thi Cách Tát Nhĩ, đây là một sáng tác dân gian gồm hai luồng, một luồng kể truyền miệng và một luồng là văn bản chép tay. Bản chép tay tức là bản truyện kể được ghi thành văn tự, nó hỗ trợ rất nhiều cho tác phẩm kể miệng”(47).“Trong quá trình phát triển lịch sử văn học dân gian Trung Quốc, ngoài bộ phận sáng tác chủ yếu của quần chúng lao động sản xuất, thực tế còn có cả những sáng tác cửa miệng (khẩu đầu) và mặt sách (thư diện) của các tác giả vô danh trong những tầng lớp phi lao động. Đây là điều không thể phủ nhận”(48). Ở ta, trong trường hợp này, có thể kể đến truyện Nôm bình dân, ca dao của người Việt, những bức thư tình của người Tày - Nùng là những sáng tác dân gian, được lưu hành qua văn bản chữ viết. Trong công trình Truyện Nôm - lịch sử phát triển và thi pháp thể loại, sau khi xem xét các vấn đề như đề tài, cốt truyện, cấu trúc tác phẩm, các biện pháp nghệ thuật cùng phong cách ngôn ngữ, GS. Kiều Thu Hoạch viết: “Nói truyện Nôm, hoặc truyện thơ Nôm, thì ai cũng hiểu đó là một loại truyện thơ được ghi chép bằng chữ Nôm. Nhưng từ đó mà cho rằng, ghi chép bằng chữ Nôm cũng tức là văn học thành văn, cũng tức là văn học viết, và cũng đồng đẳng, đồng loại với các thể loại văn học viết khác trong nền văn học dân tộc thì lại hoàn toàn không thoả đáng. Bởi trở lại ngọn nguồn lịch sử, thì truyện thơ Nôm đâu phải bắt đầu từ sáng tác thành văn, hay nói rõ hơn từ sáng tác bằng chữ viết. Gạt bỏ phần ghi chép bằng chữ Nôm, truyện thơ vốn là một truyền thống lâu đời của folklore Việt Nam. Nhiều dấu tích còn cho thấy truyện thơ là những sáng tác truyền miệng đã tồn tại và lưu truyền trong dân gian từ khá lâu 19 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
  20. trước khi được ghi chép thành văn bản. Bởi vậy, sẽ không phải là ngẫu nhiên mà khi xem xét phương thức sáng tác và lưu truyền truyện Nôm, một số ý kiến đã nghiêng về phương diện cho truyện Nôm là sáng tác tập thể và là thứ văn học trình diễn chứ không phải văn học trong phòng đọc”(49). Bên cạnh khuynh hướng thưởng thức ca dao trong mối quan hệ mật thiết với làn điệu, lề lối diễn xướng, khung cảnh ca hát, trong khoảng thời gian ít nhất đã gần hai thế kỉ (từ cuối thế kỉ XVIII đến năm 1945) tồn tại một khuynh hướng khác: thưởng thức ca dao cổ truyền giống như văn học viết (đọc, ngâm, xem bằng mắt). Đã có những sách Hán Nôm sau ghi chép ca dao: Nam phong giải trào, Thanh Hoá quan phong, Việt Nam phong sử, Nam âm sự loại, Nam giao cổ kim lí hạng ca dao chú giải...(50). Sách quốc ngữ biên soạn ca dao được xuất bản sớm nhất là Câu hát góp của Huỳnh Tịnh Của (in năm 1897 tại Sài Gòn). Phong slư là một thể loại dân ca, cũng là những bức thư tình. “Những bức thư này được viết bằng chữ Nôm Tày trên vải sa đỏ rộng trên dưới một mét vuông. Vải được vẽ hoa viền theo biên và hai bên là hai con rồng há mõm chầu mặt trời hoặc chim muông. Vì nam nữ thanh niên trước đây rất ít người biết chữ và không có đủ trình độ để viết thư nên thư được viết thông qua một người trung gian tiếng Tày gọi là slấy cá, là người trí thức bình dân của dân tộc Tày, Nùng. Vì thế, dù là thư tình nhưng lại được đọc chung cho trai gái cả bản cùng nghe. Những người đang yêu đều tìm thấy trong phong slư tiếng nói thầm kín của lòng mình, tâm tư tình cảm của mình”(51). Một nhà nghiên cứu đã phân tích: “Phong slư vì vậy là sáng tác của cá nhân nhưng đã được xã hội hoá. Vì vậy thay slấy cá bằng việc ngâm ngợi diễn xướng những bức phong slư đã biến những con chữ riêng tư, cụ thể thành một sinh hoạt dân ca không thể thiếu được đối với các dân tộc Tày, Nùng”(52). Xin được nói thêm, người trí thức bình dân khi sáng tác đã vận dụng những khuôn mẫu có sẵn, viết những văn bản tương đối quen thuộc, đã trở thành khuôn mẫu truyền thống trong cộng đồng dân tộc Tày, Nùng. Vì thế, những bức phong slư ở nhiều địa phương khác nhau mới có thể giống nhau. Tóm lại, bên cạnh phương thức truyền khẩu, văn học dân gian còn có phương thức lưu truyền bằng văn bản, tất nhiên phương thức sau không phổ biến bằng phương pháp trước. Văn học viết thời trung đại được lưu truyền trên các bản viết, bản in, được lưu hành trong giới trí thức. Tuy nhiên, cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở nông thôn có những cụ bà không biết chữ nhưng thuộc làu Truyện 20 You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2