intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo " Bàn về hành vi pháp luật và hành vi đạo đức "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

141
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hành vi của con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như tâm lí học, xã hội học, luật học… Là hình thức biểu hiện của ý thức con người ra ngoài thế giới khách quan, hành vi là xử sự của con người trong hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, “được biểu hiện ra ngoài bằng những lời nói, cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng những lời nói, cử chỉ nhất định”.(1) ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo " Bàn về hành vi pháp luật và hành vi đạo đức "

  1. nghiªn cøu - trao ®æi ThS. NguyÔn V¨n N¨m * 1. Hành vi của con người là đối tượng sống cộng đồng, để bảo đảm một cách hài nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như hoà các lợi ích thì hành vi của con người cần tâm lí học, xã hội học, luật học… Là hình phải được điều chỉnh. “Điều chỉnh” theo nghĩa thức biểu hiện của ý thức con người ra ngoài của từ là sửa đổi, sắp xếp lại ít nhiều cho thế giới khách quan, hành vi là xử sự của con đúng hơn, cân đối hơn, phù hợp hơn.(3) Như người trong hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, vậy, điều chỉnh hành vi con người là hướng “được biểu hiện ra ngoài bằng những lời nói, dẫn cách xử sự cho chủ thể, làm thay đổi cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng hành vi của họ, làm giảm thiểu những hành vi những lời nói, cử chỉ nhất định”.(1) Theo cách tiêu cực, tăng cường những hành vi tích cực, hiểu này, hành vi có hai hình thức biểu hiện là làm cho nó trở nên phù hợp với yêu cầu, đòi hành động hoặc không hành động và khi nói hỏi của xã hội. Khi đó, các chủ thể không thể đến hành vi của con người là bao gồm cả xử sự theo ý chí chủ quan của mình mà phải hành vi có ý thức và hành vi vô thức.(2) thực hiện theo những quy tắc nhất định của xã Trong đời sống xã hội, các cá nhân có hội. Bằng các phương tiện điều chỉnh, xã hội hoàn cảnh, điều kiện sống khác nhau với xác định cho các cá nhân, tổ chức những hành những nhu cầu, lợi ích khác nhau. Để thoả vi được thực hiện, không được thực hiện, phải mãn nhu cầu, lợi ích của mình, mỗi chủ thể thực hiện… trong những điều kiện hoàn cảnh có những phương pháp, cách thức riêng. nhất định. Có nhiều phương tiện để điều Trong cùng điều kiện, hoàn cảnh, các chủ chỉnh hành vi của con người như đạo đức, thể khác nhau sẽ có thể có những cách xử sự pháp luật, phong tục, tập quán, tín điều tôn khác nhau. Thực tế cho thấy có những hành giáo, quy định của các cộng đồng dân cư, các vi vừa đáp ứng nhu cầu, mục đích của chủ tổ chức xã hội… (gọi chung là các quy phạm thể đồng thời cũng phù hợp với lợi ích của xã hội), trong đó, đạo đức và pháp luật là người khác cũng như toàn thể cộng đồng. những công cụ điều chỉnh quan trọng nhất. Ngược lại, có những hành vi chỉ thoả mãn Hành vi cụ thể có thể chịu sự tác động bởi nhu cầu của chủ thể nhất định nhưng lại xâm một hoặc nhiều quy phạm xã hội khác nhau. phạm tới lợi ích của người khác, xâm phạm Khi xác định hành vi cụ thể nào đó là hành vi tới lợi ích chung của cộng đồng, đi ngược pháp luật, hành vi đạo đức hay hành vi tôn với mong muốn chung của xã hội. Điều đó giáo… cần phải dựa vào đặc điểm, tính chất làm cho đời sống xã hội mất đi sự ổn định, của loại quy phạm xã hội điều chỉnh chúng. trật tự, thậm chí trở nên hỗn loạn. * Giảng viên Khoa hành chính - nhà nước Sự phân tích trên đây cho thấy trong đời Trường Đại học Luật Hà Nội t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011 23
  2. nghiªn cøu - trao ®æi 2. Sự phân tích trên đây cho thấy hành trong số hành vi pháp luật không có hành vi vi pháp luật là hành vi được pháp luật quy mua bán các loại chứng khoán; tuy nhiên định (điều chỉnh). Sự quy định trước của trong điều kiện hiện nay, hành vi này ngày pháp luật là cơ sở để đánh giá hành vi cụ càng trở nên phổ biến. Trước đây, để thực thể nào đó là hợp pháp hay bất hợp pháp. hiện hành vi kí kết hợp đồng, các chủ thể Tương tự, chúng ta cũng có thể quan niệm phải trực tiếp gặp gỡ nhau bàn bạc, thoả rằng hành vi đạo đức là hành vi được điều thuận, đi đến thống nhất và kí kết, ngày nay chỉnh bởi đạo đức. Dựa trên các chuẩn mực nhờ sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật, đạo đức, chúng ta có thể đánh giá hành vi hành vi “thương mại điện tử” dần trở thành nào đó là thiện hay ác, thật hay giả, tốt hay quen thuộc với mọi người. xấu, cao quý hay thấp hèn… Ba là hành vi pháp luật và hành vi đạo Giữa hành vi pháp luật và hành vi đạo đức, đức đều chịu sự chi phối của những nhân tố có những điểm giống nhau cơ bản sau đây: sau đây: Một là hành vi pháp luật và hành vi đạo - Điều kiện kinh tế-xã hội đức là những hành vi phổ biến nhất trong đời Đây là yếu tố tác động khá mạnh mẽ đến sống xã hội. Có thể nói, trong các hành vi xã hành vi con người. Chúng ta biết rằng nhu hội của con người thì hành vi đạo đức và cầu chính là nguồn gốc, động lực của hành hành vi pháp luật chiếm tỉ trọng lớn nhất. Từ vi con người mà nhu cầu của con người lại những xử sự trong gia đình, trường học cho phụ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội. Bởi đến các xử sự nơi làm việc hay khi tham gia vậy, suy đến cùng, hành vi con người phụ vào bất cứ quan hệ xã hội nào, phần nhiều thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội, nói cách trong đó đều là những hành vi pháp luật, khác, chính điều kiện kinh tế-xã hội quy hành vi đạo đức. định nguồn gốc, động lực, xu hướng của Hai là hành vi pháp luật và hành vi đạo hành vi pháp luật và hành vi đạo đức. Kinh đức đều mang tính chất lịch sử xã hội. Qua tế càng thấp kém, nhu cầu càng đơn giản, mỗi thời kì lịch sử, con người có những hành kinh tế càng phát triển, nhu cầu con người vi khác nhau, cách thức thực hiện khác nhau, ngày mở rộng và nâng cao. Đồng thời, điều công cụ, phương tiện hỗ trợ khác nhau… kiện kinh tế-xã hội còn là cơ sở hiện thực Mặt khác, qua các thời kì lịch sử khác nhau, hoá hành vi con người bởi lẽ điều kiện kinh nội dung pháp luật và đạo đức cũng có sự tế chính là nhân tố đảm bảo cho pháp luật, thay đổi, bởi vậy, có hành vi thời kì này đạo đức đi vào cuộc sống, trở thành hành vi được coi là hành vi pháp luật nhưng thời kì thực tế của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. khác lại không phải là hành vi pháp luật, có - Điều kiện, hoàn cảnh sống hành vi thời kì này là hành vi hợp pháp, thời Yếu tố này cũng có ảnh hưởng khá lớn kì khác lại bị coi là hành vi trái pháp luật. đến hành vi pháp luật và hành vi đạo đức của Điều này cũng hoàn toàn tương tự đối với mỗi cá nhân. Sống trong điều kiện vật chất hành vi đạo đức. Chẳng hạn, ở Việt Nam, thiếu thốn dễ làm nảy sinh những hành vi trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, tiêu cực, “đói ăn vụng, túng làm liều” là vì 24 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011
  3. nghiªn cøu - trao ®æi thế. Ngược lại, kiếm tiền một cách quá dễ động đến hành vi mỗi người cũng đều thông dàng, điều kiện vật chất đầy đủ đến mức quá qua lăng kính ý thức cá nhân của họ. Do dư thừa cũng dễ làm con người ta ý thức vậy, có thể khẳng định ý thức cá nhân là không đúng đắn về giá trị của tiền bạc, của yếu tố tác động trực tiếp và quan trọng nhất lao động, dẫn tới chi tiêu hoang phí, sống tới hành vi con người. buông thả, “nhàn cư vi bất thiện” là như thế. Bên cạnh những điểm giống nhau cơ bản Gia đình, khu dân cư, nhà trường, nơi công trên đây, giữa hành vi pháp luật và hành vi tác… cũng là những yếu tố rất quan trọng đạo đức có những điểm khác nhau cơ bản: ảnh hưởng đến hành vi con người. Một gia Một là nhân tố điều chỉnh hành vi đình có gia pháp, có kỉ cương, nền nếp là cơ Hành vi pháp luật chịu sự tác động trực sở đảm bảo rất quan trọng để hành vi của các tiếp của quy phạm pháp luật, nói một cách thành viên trong gia đình hợp pháp, phù hợp cụ thể, chỉ khi có quy phạm pháp luật, các đạo đức. Ngược lại, nếu trong gia đình cha thành viên trong xã hội mới biết một cách mẹ không có sự nêu gương, bản thân cha mẹ chính xác cách xử sự mà nhà nước yêu cầu, cũng có những hành vi trái pháp luật, trái đòi hỏi đối với mình. Chỉ một số ít trường đạo đức xã hội thì con cái cũng dễ có khả hợp khi chưa có các quy phạm pháp luật, năng thực hiện những hành vi đó. những quan niệm, quan điểm, tư tưởng pháp - Yếu tố ý thức hệ lí, những nguyên tắc, định hướng của pháp Hành vi pháp luật và hành vi đạo đức đều luật… mới phát huy vai trò thay thế cho các bị chi phối bởi ý thức hệ hay các quan điểm, quy phạm pháp luật để điều chỉnh hành vi quan niệm của lực lượng cầm quyền. Pháp con người. Tất nhiên, điều này cần phải hết luật trước hết và chủ yếu luôn thể hiện ý chí sức hạn chế, bởi minh bạch là một trong và bảo vệ lợi ích của lực lượng cầm quyền. những thuộc tính vốn có của pháp luật. Thông qua các quy định trong pháp luật, giai Trong khi đó, có thể nói hành vi đạo đức cấp cầm quyền thể hiện rõ quan điểm ủng hộ, trực tiếp chịu sự chi phối của các quan điểm, khuyến khích những hành vi nào và phản đối, quan niệm, tư tưởng đạo đức. Nắm được các loại trừ những hành vi nào. Trong xã hội mặc quan niệm, tư tưởng đạo đức là xác định dù tồn tại nhiều hệ thống đạo đức khác nhau, được những hành vi nên làm, phải làm trong tuy nhiên, đạo đức của giai cấp cầm quyền điều kiện hoàn cảnh cụ thể, xác định. Do vẫn có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vậy, để điều chỉnh hành vi con người bằng đối với đời sống xã hội, chi phối một cách đạo đức, vấn đề cơ bản và quan trọng là rộng khắp tới hành vi con người. truyền bá, giáo dục các quan niệm, tư tưởng - Yếu tố ý thức cá nhân đạo đức. Những quan niệm, quan điểm, tư Ý thức cá nhân, bao gồm trình độ văn tưởng đạo đức xã hội được đề ra cho mọi đối hoá, hiểu biết pháp luật, đạo đức, quan tượng, tuy nhiên, các cá nhân do tuổi tác, điểm, quan niệm sống… có sự chi phối rất trình độ nhận thức, nghề nghiệp, chức vụ… mạnh mẽ tới hành vi của con người. Điều khác nhau nên nhận thức của họ về các quan kiện kinh tế-xã hội, hoàn cảnh sống… tác điểm, tư tưởng đạo đức xã hội có sự khác t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011 25
  4. nghiªn cøu - trao ®æi nhau. Chính vì vậy, đạo đức xã hội thường lớn chịu sự điều chỉnh của pháp luật và đạo không cứng nhắc mà khá uyển chuyển, linh đức. Đối với mỗi người, cho dù ở đâu, bao hoạt, cho phù hợp với các chủ thể, trong các giờ, khi nào cũng luôn phải chú ý đối nhân, điều kiện, hoàn cảnh. Sự đánh giá về tính xử thế sao cho phù hợp với các chuẩn mực phù hợp hay không phù hợp đạo đức từ phía đạo đức cũng như pháp luật. Xã hội “không xã hội về hành vi cụ thể nào đó vì thế cũng thể một ngày thiếu pháp luật”,(4) nói cách không cố định, cứng nhắc. Chẳng hạn, khác, pháp luật chi phối hành vi hàng ngày không phải trong mọi trường hợp nói dối đều của con người. Đạo đức là yếu tố tinh thần là không trung thực. Trong trường hợp nhất không thể tách rời hành vi của con người, định, bác sĩ hay con cái hoàn toàn có thể không thể thiếu được trong đời sống của mỗi không cần phải nói đúng sự thật về bệnh tật con người. Chính vì vậy, việc xác định ranh của cha mẹ mình. giới giữa hành vi pháp luật và hành vi đạo Hai là chủ thể của hành vi đức là hết sức khó khăn. Chủ thể của hành vi pháp luật là người Trước hết, cần nhấn mạnh rằng việc xác có năng lực hành vi pháp luật. Tùy từng định hành vi cụ thể là hành vi pháp luật hay hành vi pháp luật cụ thể, pháp luật có các hành vi đạo đức chỉ có ý nghĩa tương đối. quy định tiêu chuẩn năng lực cụ thể để thực Cùng hành vi, xét theo hệ thống pháp luật hiện hành vi đó. Thông thường, một người này là hành vi pháp luật nhưng xét theo hệ được coi là có năng lực hành vi pháp luật khi thống pháp luật khác có thể không phải là có sự hoàn thiện về thể chất, đủ sức khỏe để hành vi pháp luật. Điều này là do các hệ thực hiện hành vi, có trạng thái thần kinh thống pháp luật được xây dựng trên nền tảng bình thường, nhận thức và điều khiển được kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, đạo đức, hành vi của mình, đạt đến độ tuổi nhất định truyền thống, tín ngưỡng… khác nhau, vì do pháp luật quy định. vậy, nội dung cũng như cách thức tác động Chủ thể của hành vi đạo đức cũng phải là của chúng đến các quan hệ xã hội là khác người có năng lực hành vi đạo đức. Tuy nhau. Chẳng hạn, theo pháp luật phong kiến nhiên, năng lực hành vi đạo đức xuất hiện rất Việt Nam, hành vi sinh con thứ ba trở lên sớm, nó xuất hiện ngay từ khi con người thực không phải là hành vi pháp luật, tuy nhiên, hiện những hành vi có ý thức đầu tiên. Khi theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện em bé bắt đầu biết nhận thức về những phạm hành, hành vi này bị coi là vi phạm pháp trù đạo đức sơ đẳng nhất là lúc hành vi của nó luật.(5) Đối với hành vi đạo đức, điều này được xem xét, đánh giá dưới góc độ đạo đức, cũng hoàn toàn tương tự. Xét theo hệ thống theo phương châm “tre non dễ uốn” (trúc nộn pháp luật hay nền đạo đức nhất định, hành vi dị kiểu). Như vậy, đạo đức điều chỉnh hành vi cụ thể có thể chỉ là hành vi pháp luật hoặc không kể tuổi tác của con người. chỉ là hành vi đạo đức; có thể vừa là hành vi Ba là giới hạn của hành vi pháp luật và pháp luật vừa là hành vi đạo đức và cũng có hành vi đạo đức thể không phải hành vi pháp luật cũng không Có thể nói hành vi của con người phần phải hành vi đạo đức. 26 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011
  5. nghiªn cøu - trao ®æi Có những hành vi được pháp luật điều có thể được coi là phù hợp đạo đức xã hội. chỉnh nhưng đạo đức không điều chỉnh Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong xã hội, bên chúng, nói cách khác, chúng chỉ là hành vi cạnh các quan niệm, quan điểm, quy tắc đạo pháp luật mà không phải là hành vi đạo đức. đức chung của toàn xã hội còn có đạo đức Những hành vi thực hiện quy trình kĩ thuật của các giai cấp, tầng lớp; đạo đức của các do pháp luật quy định, những hành vi thực tôn giáo; đạo đức của các thiết chế xã hội… hiện trình tự, thủ tục pháp lí… chỉ là hành vi trong đó các quan niệm, quan điểm, quy tắc pháp luật. Ngược lại, có những hành vi được đạo đức này chưa hẳn đã thống nhất, đồng đạo đức điều chỉnh nhưng pháp luật không bộ với nhau. Bởi vậy, hành vi cụ thể có thể điều chỉnh, những hành vi thể hiện tình làng là hợp chuẩn đối với hệ thống đạo đức này nghĩa xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”, thăm nhưng lại có thể lệch chuẩn đối với hệ thống hỏi nhau lúc ốm đau, giúp đỡ nhau bằng đạo đức khác. Tất nhiên, đạo đức chung của công sức, tiền bạc; những hành vi thể hiện toàn xã hội, đạo đức của giai cấp cầm quyền tinh thần, tương thân, tương ái giữa con vẫn có sức chi phối mạnh mẽ nhất đối với người với nhau trong cộng đồng… chỉ có thể hành vi của các thành viên trong xã hội. là hành vi đạo đức. Trong giới hạn nào đó, hành vi con Nhìn chung, những hành vi được pháp người có thể vừa là hành vi pháp luật, vừa là luật điều chỉnh thì thường cũng được đạo hành vi đạo đức nhưng vượt ra ngoài giới đức điều chỉnh, do vậy mà sự chồng lấn giữa hạn đó thì chỉ là hành vi đạo đức. Chẳng hành vi pháp luật và hành vi đạo đức là rất hạn, trường hợp gặp người bị nạn, pháp luật lớn. Nội dung những quy định cụ thể của chỉ buộc chủ thể phải thực hiện hành vi cứu pháp luật và đạo đức có thể thống nhất hoặc giúp, tức là làm cho người đó thoát khỏi sự mâu thuẫn nhau, nói cách khác, sự điều nguy hiểm đến tính mạng, trong khi đó, đạo chỉnh của pháp luật và đạo đức có thể là đức đòi hỏi rộng hơn nhiều, nó không chỉ thuận chiều cũng có thể là ngược chiều. yêu cầu chủ thể phải thực hiện hành vi giúp Chính vì thế, hành vi nhất định có thể vừa người bị nạn thoát khỏi sự nguy hiểm đến hợp pháp vừa hợp đạo đức; hợp pháp nhưng tính mạng mà còn đòi hỏi chủ thể phải có không hợp đạo đức; hợp đạo đức nhưng những những hành vi giúp đỡ về vật chất không hợp pháp; vừa không hợp pháp vừa cũng như về tinh thần khác. Trong trường không hợp đạo đức. Chẳng hạn, theo các hợp này, hành vi đưa người đang chới với chuẩn mực pháp luật và đạo đức hiện hành ở giữa dòng nước chảy xiết vào bờ, đưa người Việt Nam, những hành vi của cha mẹ trong bị tai nạn giao thông vào bệnh viện cấp việc nuôi dạy, chăm sóc con cái vừa hợp cứu… vừa là hành vi pháp luật, vừa là hành pháp, vừa hợp đạo đức. Theo quy định của vi đạo đức nhưng những hành vi như giúp đỡ Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985, việc tiền bạc, động viên, an ủi, đưa về nhà chăm cha mẹ không tố giác hành vi phạm tội do sóc… không còn là hành vi pháp luật, nó chỉ con mình thực hiện bị coi là vi phạm pháp còn được đánh giá về mặt đạo đức. Ngược luật(6) nhưng xét về mặt đạo đức, hành vi này lại, hành vi nhất định nào đó có thể được t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011 27
  6. nghiªn cøu - trao ®æi đánh giá về mặt đạo đức không phụ thuộc không chỉ xem xét biểu hiện bên ngoài của vào tính chất và mức độ nhưng hành vi này nó mà còn cần phân tích cơ chế tâm lí của chỉ bị đánh giá về mặt pháp luật khi tác chúng. Cơ chế tâm lí của hành vi pháp luật động, ảnh hưởng ở mức độ nhất định đối với và hành vi đạo đức là quá trình rất phức tạp, đời sống xã hội. Chẳng hạn, hành vi nói dối, nó bao gồm việc hình thành động cơ hành hành vi “sống thử”, “sống gấp”… luôn bị vi, lựa chọn và quyết định phương án hành đánh giá về mặt đạo đức. Tuy nhiên, những vi, hiện thực hoá hành vi, tự đánh giá về hành vi này chỉ được đánh giá về mặt pháp hành vi đã thực hiện. luật trong những trường hợp nhất định.(7) Khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, Hành vi gây thiệt hại cho xã hội chỉ trở trên cơ sở sự hiểu biết của chủ thể cũng như thành đối tượng của pháp luật khi thiệt hại thái độ, tình cảm của bản thân đối với pháp mà nó gây ra ở mức độ nào đó. Người ta luật cũng như đạo đức xã hội, từ vốn sống, không cần xử lí bằng pháp luật đối với hành nhân cách, từ sự hiểu người, hiểu mình, sự ý vi trộm cắp những tài sản nhỏ nhặt. thức về vị trí và vai trò của bản thân mình, Pháp luật chỉ điều chỉnh các hành vi xã xuất phát từ tình cảm của cá nhân về đối hội đã tồn tại một cách khách quan, phổ biến, tượng của hành vi, trên cơ sở sự dự liệu về điển hình, ổn định ở mức độ nhất định, còn những hậu quả có thể phải gánh chịu cũng đạo đức do tính chất mềm dẻo và linh động, như thái độ của bản thân đối với những hậu nó điều chỉnh các hành vi xã hội ngay từ khi quả đó… (gọi chung là ý thức cá nhân bao nó mới manh nha hình thành. Chẳng hạn, gồm tri thức, tình cảm, ý chí, động cơ, mục những hành vi mang thai hộ; cho, nhận trứng, đích…), chủ thể tự lựa chọn cho mình tinh trùng, các bộ phận trên cơ thể người; phương án hành vi cụ thể. Sau khi đã quyết hiến xác hoặc các bộ phận trên cơ thể sau khi định lựa chọn phương án xử sự cụ thể, chủ chết… đầu tiên xảy ra trong đời sống được thể hiện thực hoá sự lựa chọn đó bằng cách đánh giá về mặt đạo đức... Nhưng những tiến hành hoặc không tiến hành những thao hành vi này chỉ trở thành hành vi pháp luật tác, cử chỉ, lời nói nhất định. Sau khi hành vi khi đã trở nên phổ biến và ổn định tương đối. được thực hiện, các chủ thể thường có sự tự Tóm lại, cả pháp luật và đạo đức đều đánh giá về nó. Khi đó, về mặt tâm lí, chủ không thể điều chỉnh tất cả các hành vi con thể có thể thoả mãn, bằng lòng, hưng phấn người. Pháp luật chỉ có thể điều chỉnh những hoặc ngược lại là sự ăn năn, ân hận, sợ hãi… hành vi thể hiện lí trí, ý chí của chủ thể, Trong toàn bộ cơ chế này, các yếu tố lí trí, ý trong khi đó, đạo đức điều chỉnh cả những chí, tình cảm, thói quen… giữ vai trò khác hành vi chịu sự chi phối bởi tình cảm của nhau đối với mỗi loại hành vi. con người. Đối với hành vi đạo đức, yếu tố tình Bốn là cơ chế tâm lí của hành vi cảm, yếu tố thói quen đóng vai trò rất quan Như đã đề cập, hành vi của con người là trọng. Có thể nói, tình cảm là yếu tố quan hành vi có ý thức, bởi vậy, đánh giá hành vi trọng nhất đối với hành vi đạo đức. Nếu pháp luật và hành vi đạo đức của con người không có tình cảm đạo đức thì các khái niệm 28 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011
  7. nghiªn cøu - trao ®æi đạo đức, các phạm trù luân lí, những tri thức đồng, thậm chí có những hành vi đạo đức đã thu được về thiện ác, công bằng, lương tâm, trở thành vô thức, chúng xảy ra tự động ngay danh dự... chỉ được nhận thức ở mức độ ghi cả khi không có sự điều khiển của ý thức. nhận thông tin mà không có cơ sở để chuyển Năm là biện pháp tác động đến hành vi(8) hoá thành động cơ của hành vi. Bằng tình Để đạt được mục đích điều chỉnh, pháp cảm đạo đức, chủ thể không cần phải do dự luật và đạo đức có những phương pháp, cách khi lựa chọn hành vi cần thực hiện đồng thời thức tác động riêng, mang tính đặc thù. Hành lại tích cực, say mê thực hiện hành vi với vi pháp luật chịu sự tác động bởi các biện quyết tâm cao độ… Yếu tố tình cảm chi pháp nhà nước. Tuỳ điều kiện, hoàn cảnh cụ phối, ảnh hưởng đến tất cả các giai đoạn thể, nhà nước có thể sử dụng một hoặc kết trong diễn biến tâm lí của hành vi, từ việc hợp các biện pháp khác nhau, từ tuyên hình thành động cơ cho đến sự tự đánh giá truyền, giáo dục, thuyết phục, đến khen về hành vi của mình. Nhiều khi, tình cảm thưởng, xử phạt. Thực hiện sự tác động này, còn làm con người “mất” lí trí, thực hiện nhà nước có bộ máy chuyên môn với đầy đủ hành vi không có sự kiểm soát của lí trí. sức mạnh được tổ chức từ trung ương xuống Xuất phát từ vai trò quan trọng của yếu tố địa phương. Để đảm bảo tăng cường hành vi tình cảm đối với hành vi đạo đức, cho nên hợp pháp, giảm thiểu hành vi trái pháp luật, khi đánh giá về hành vi đạo đức, người ta khi cần thiết, nhà nước có thể sử dụng các không chỉ đánh giá sự phù hợp hay không biện pháp cưỡng chế đã được quy định, gây phù hợp về hình thức của hành vi đối với các ra những bất lợi về vật chất, tinh thần, thậm chuẩn mực đạo đức xã hội. Bởi vậy, có chí cả tính mạng đối với người vi phạm pháp những hành vi mặc dù về hình thức là phù luật. Tuy nhiên, tất cả những biện pháp tác hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội động của nhà nước đều chỉ là sự tác động từ nhưng vẫn bị chê cười, bị coi là giả tạo, là bên ngoài đối với chủ thể, nó chỉ được thực “chơi ngông”… Trong khi đó, đối với hành hiện trong hiện tại và chỉ có hiệu lực trong vi pháp luật, yếu tố lí trí, ý chí lại thể hiện thời gian nhất định. vai trò quan trọng hơn, bởi vậy, trong việc Trong khi đó, tác động đến hành vi đạo đánh giá hành vi pháp luật, chỉ cần đánh giá đức chủ yếu và trước hết là biện pháp giáo về lí trí và sự tự do ý chí mà thôi. dục, thuyết phục, nói cách khác, thông qua Có thể nói, đạo đức là yếu tố điều chỉnh sự tác động vào ý thức chủ thể mà tác động gần gũi nhất đối với hành vi con người. đến hành vi đạo đức của họ. Thông qua gia Chính vì thế, những quan niệm, quan điểm, đình, nhà trường, các thiết chế xã hội, thông tư tưởng đạo đức được truyền bá hết sức sâu qua giao tiếp hàng ngày, thông qua con rộng trong xã hội, bởi vậy, nó đã ăn sâu, bám đường tự ý thức, tự đánh giá… những chuẩn rễ một cách chắc chắn trong mỗi người, nó mực đạo đức xã hội tác động đến ý thức chủ chi phối hoạt động hàng ngày, hàng giờ của thể, được chủ thể tiếp thu, hấp thụ, được nội con người. Nhiều hành vi đạo đức vì thế đã tâm hoá trở thành tri thức, tình cảm, nghĩa trở thành tập quán, truyền thống của cộng vụ, trách nhiệm đạo đức của họ. Trên cơ sở t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011 29
  8. nghiªn cøu - trao ®æi đó, mỗi người tự xây dựng phương châm phạm. Điều này cho thấy trong quản lí xã ứng xử cho mình trong những điều kiện, hội, cần có sự kết hợp chặt chẽ các biện pháp hoàn cảnh cụ thể, tự nguyện, tự giác thực tác động của pháp luật và đạo đức, nhằm hiện hành vi theo yêu cầu, đòi hỏi của các điều chỉnh có hiệu quả nhất đối với hành vi chuẩn mực đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, dư con người. luận xã hội là biện pháp tác động hết sức 3. Sự phân tích trên đây về những điểm mạnh mẽ đến hành vi đạo đức của các chủ giống và khác nhau giữa hành vi pháp luật và thể. Dư luận xã hội tác động đến chủ thể hành vi đạo đức có ý nghĩa thực tiễn to lớn. hàng ngày, hàng giờ, ở mọi nơi, mọi lúc, Trước hết, trong công tác xây dựng pháp diễn ra lâu dài, dai dẳng, thậm chí trở thành luật, nhận thức sâu sắc giới hạn của hành vi “bia miệng ngàn năm”. Sự xấu hổ và lòng tự pháp luật giúp các chủ thể có thẩm quyền trọng khiến không ai có thể bỏ qua dư luận xác định đúng đối tượng tác động của pháp xã hội, đặc biệt đối với những người trọng luật để có thể điều chỉnh có hiệu quả đối với danh dự thì sự tác động của dư luận càng trở chúng. Như đã phân tích, pháp luật chỉ có nên có hiệu quả. thể điều chỉnh được các hành vi bị chi phối Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tác động đến bởi ý chí, lí trí của chủ thể, nó không thể hành vi con người, cưỡng chế nhà nước cũng điều chỉnh những hành vi bị chi phối bởi tình như sự tác động của dư luận xã hội đều có cảm con người. Trong khi đó, pháp luật Việt những hạn chế của nó. Sự tác động theo kiểu Nam hiện hành quy định cha mẹ có nghĩa vụ “nói xuông” của dư luận xã hội sẽ trở nên và quyền yêu thương con; con cháu có bổn kém hiệu quả, thậm chí là vô tác dụng đối phận kính trọng ông bà, cha mẹ; vợ chồng với những kẻ bất lương, không biết xấu hổ, yêu thương, quý trọng nhau(10)… Chúng tôi không có lòng tự trọng. Tương tự, biện pháp cho rằng vấn đề này phải được suy nghĩ một cưỡng chế nhà nước không phải khi nào cách cẩn trọng hơn. Chúng ta đều biết kính cũng đem lại hiệu quả như mong muốn. Ở trọng, yêu thương là những phạm trù tình khá nhiều người, trong tư duy của họ không cảm, nằm sâu trong ý thức mỗi người, chỉ có khái niệm sợ hãi, để đạt được mục đích, đạo đức mới có thể tác động đến. Pháp luật họ chấp nhận đánh đổi cả danh dự, sự tự do, không thể cho phép hay bắt buộc người này thậm chí kể cả tính mạng của bản thân. Bởi phải yêu thương, quý trọng người khác. Để vậy, trong công tác đấu tranh phòng, chống thể hiện sự yêu thương, quý trọng… các chủ vi phạm pháp luật, việc tăng cường các biện thể phải thực hiện từ những hành vi “nhỏ pháp cưỡng chế, nâng cao mức chế tài không nhặt”, đời thường đến những hành vi có ý phải khi nào cũng có ý nghĩa. Ở góc độ khác, nghĩa cực kì to lớn, thậm chí hi sinh cả tính nói như Khổng Tử, sử dụng các biện pháp mạng bản thân vì người mà mình yêu cưỡng chế nhà nước để tác động “tuy có thể thương, kính trọng. Tất cả những hành vi đó giảm được phạm pháp, nhưng người phạm đòi hỏi chủ thể phải thực hiện chúng bằng sự pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục”,(9) vì vậy tự nguyện, tự giác, tích cực mà không phải không thể xoá bỏ được gốc rễ của sự vi dựa trên bất cứ sự cưỡng bức nào từ bên 30 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011
  9. nghiªn cøu - trao ®æi ngoài. Mặt khác, trong lĩnh vực tình cảm, định cấm lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch hành vi chưa chắc đã phản ánh đúng mục vụ, kinh doanh ngành nghề gây phương hại đích, ý nghĩa đích thực của nó. Chẳng hạn, đến truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, người Việt Nam có triết lí “bằng mặt không thuần phong mĩ tục Việt Nam. Điều 7 Luật bằng lòng”; “yêu cho roi cho vọt”… Vì thế, tổ chức toà án năm 2002 quy định: “Toà án chỉ thông qua hành vi, không thể đánh giá xét xử công khai, trừ trường hợp cần xét xử được sự yêu thương hay quý trọng mà vấn kín để bảo vệ truyền thống tốt đẹp của dân đề này chỉ “người trong cuộc” mới cảm nhận tộc”… Vấn đề đặt ra, đạo đức xã hội, truyền được. Sự quy định như trên là vượt quá giới thống, thuần phong, mĩ tục của dân tộc cần hạn điều chỉnh của pháp luật, là sự “lấn sân” được hiểu như thế nào? Điều 128 Bộ luật của pháp luật đối với đạo đức. Thiết nghĩ, dân sự năm 2005 quy định: “Đạo đức xã hội thay vì quy định như hiện nay, pháp luật nên là những chuẩn mực ứng xử chung giữa quy định rõ hành vi nào là không yêu người với người trong đời sống xã hội, được thương, không tôn trọng, không biết ơn… cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”. Tuy nếu xét thấy cần phải tác động để giảm thiểu nhiên, đạo đức xã hội thường rất phức tạp, nó. Lịch sử pháp luật Việt Nam dưới thời bao gồm đạo đức của các giai cấp, tầng lớp, phong kiến cũng đã để lại những kinh đạo đức của các tôn giáo, đạo đức của các nghiệm lập pháp cần tham khảo.(11) thiết chế nghề nghiệp... Trong điều kiện Việt Thứ hai, trong điều chỉnh hành vi con Nam hiện nay, về cơ bản, các chuẩn mực người, cần có sự kết hợp chặt chẽ, hài hoà đạo đức này mặc dù không đối lập nhau giữa pháp luật với đạo đức. Muốn vậy, hoạt nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. động xây dựng pháp luật phải được tiến hành Mặt khác, trong đời sống xã hội đang diễn ra trên nền tảng đạo đức, phù hợp với các chuẩn sự thay đổi trong các quan niệm, quan điểm mực đạo đức, ghi nhận, thể chế hoá các chuẩn đạo đức, nhiều chuẩn mực đạo đức cũ đang mực đạo đức. Tuy nhiên, pháp luật có đặc được nhận thức lại... Ở khía cạnh khác, đạo trưng riêng, khác hẳn đạo đức xã hội ở tính đức xã hội thường tồn tại ở dạng không xác định về hình thức, do vậy, việc ghi nhận, thành văn nên nó không có tính xác định thể chế hoá các chuẩn mực đạo đức xã hội chặt chẽ như pháp luật. Các chuẩn mực đạo thành pháp luật phải đảm bảo sự cụ thể, rõ đức xã hội thường chỉ mang tính định ràng, đảm bảo tính khả thi của pháp luật. hướng, sự nhận thức của mỗi người về các Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều chuẩn mực đạo đức thường có sự khác nhau, trường hợp, sự pháp luật hoá các quan niệm, vì vậy, xử sự của họ khó có thể thống nhất. quan điểm đạo đức còn khá chung chung. Sự đánh giá về tính phù hợp hay không phù Chẳng hạn, Điều 128 Bộ luật dân sự năm hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội đối 2005 quy định: “Giao dịch dân sự có mục với hành vi cụ thể vì thế cũng không thể cố đích và nội dung trái đạo đức xã hội thì vô định. Chính vì vậy, theo chúng tôi, cách quy hiệu”. Điều 15 Luật thương mại năm 1998; định như trên đã làm cho những quy định đó Điều 6 Luật doanh nghiệp năm 1999 đều quy trở nên khó hiểu, gây khó khăn cho các chủ t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011 31
  10. nghiªn cøu - trao ®æi thể trong việc thực hiện chúng. nhân, định hướng hành vi con người đến Thiết nghĩ, những quy định nêu trên cần chân, thiện, mĩ, nhân đạo, giảm trừ cái ác, phải được sửa đổi theo hướng quy định một cái bất công… Hoạt động này có ý nghĩa rất cách cụ thể các chuẩn mực đạo đức xã hội. lớn trong việc xây dựng quan điểm sống có Trong thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước quy tắc, có chuẩn mực, tôn trọng người ta, nhiều trường hợp nhà làm luật đã thực khác, tôn trọng cộng đồng. Trong hoạt động hiện theo hướng này. Chẳng hạn, Điều 9 này, cần phát huy thật tốt vai trò của gia Luật thương mại năm 1998 quy định: “Cấm đình, nhà trường, cơ quan, tổ chức, các vị già thương nhân lừa dối khách hàng; quảng cáo làng, trưởng bản, các vị bô lão… Gia đình là dối trá”. Điều 15 Luật cán bộ, công chức nơi sinh thành và là môi trường sinh hoạt năm 2008 quy định:“Cán bộ công chức phải hàng ngày của mỗi người. Gia đình là tế bào, thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô là hạt nhân của xã hội. Muốn cho xã hội tốt tư trong hoạt động công vụ”; Điều 17 Luật thì gia đình càng phải tốt. Vì vậy cần nêu này quy định: “Cán bộ, công chức phải gần cao trách nhiệm của gia đình trong việc giáo gũi với nhân dân, có tác phong, thái độ lịch dục đạo đức, hình thành nhân cách con sự, nghiêm túc, khiêm tốn; không được hách người, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. nhân dân khi thi hành công vụ”. Điều 17 Nhà trường là thiết chế rất quan trọng trong Luật viên chức nhà nước năm 2010 còn nhấn công tác giáo dục đạo đức, pháp luật bởi nó mạnh: “Khi phục vụ nhân dân, viên chức thực hiện đồng thời các chức năng dạy chữ, phải chấp hành các quy định về đạo đức dạy nghề và dạy người. Sau gia đình và đồng nghề nghiệp”. thời với gia đình, nhà trường là nơi giúp cho Thứ ba, để tăng cường hành vi vừa hợp con người hình thành nhân cách, lối sống. Vì pháp vừa hợp đạo đức đồng thời giảm thiểu vậy trong nhà trường phải coi trọng giáo dục hành vi trái pháp luật cũng như đạo đức xã đạo lí làm người, ý thức trách nhiệm, nghĩa hội, trong công tác tổ chức thực hiện pháp vụ công dân, coi trọng công tác giáo dục luật, cần hết sức coi trọng việc giáo dục pháp truyền thống lịch sử dân tộc. Các quan điểm, luật, đạo đức. Giáo dục pháp luật, đạo đức chuẩn mực đạo đức, pháp luật một khi được chính là cầu nối để đưa pháp luật và đạo đức lồng ghép trong quá trình truyền bá giáo lí, vào cuộc sống, nó có ý nghĩa to lớn trong đức tin sẽ rất dễ dàng thâm nhập vào quần việc nâng cao tri thức pháp luật, đạo đức, chúng. Vì vậy, cần hết sức coi trọng vai trò xây dựng thái độ, tình cảm đúng mực đối với của các tổ chức tôn giáo, các vị chức sắc tôn pháp luật và đạo đức, qua đó từng bước hình giáo trong việc giáo dục pháp luật, đạo đức. thành thói quen xử sự theo pháp luật đồng Công tác hoà giải ở cơ sở có ý nghĩa hết sức thời coi trọng các giá trị đạo đức xã hội. to lớn trong đời sống cộng đồng, đặc biệt Giáo dục pháp luật và đạo đức còn góp phần trong điều kiện xã hội có truyền thống coi quan trọng trong việc hình thành và hoàn trọng đạo lí như Việt Nam. Hoà giải làm cho thiện nhân cách, hoàn thiện năng lực cá vụ việc được giải quyết triệt để, tránh được 32 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011
  11. nghiªn cøu - trao ®æi tình trạng "bằng mặt không bằng lòng", qua đó giữ được tình làng nghĩa xóm, phát huy (1).Xem: Đặng Thanh Nga, “Từ khái niệm hành vi đến khái niệm hành vi phạm tội”, Tạp chí nhà nước và tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái pháp luật số 6 (218)/2006, tr. 77. trong cộng đồng, góp phần phòng ngừa và (2). Theo triết học Mác, có hai loại hành vi vô thức, hạn chế các vi phạm pháp luật, giữ gìn trật đó là những hành vi chưa bao giờ ý thức được và tự, an toàn xã hội, giảm bớt các vụ việc phải những hành vi đã ý thức được, lặp đi lặp lại trở thành thói quen tới mức nó diễn ra tự động ngay cả khi giải quyết tại các cơ quan nhà nước, giảm không có sự chỉ đạo của ý thức. Vô thức chỉ xảy ra bớt sự tốn kém của người dân về thời gian, trong con người có ý thức mà thôi. tiền bạc. Chính vì vậy, cần nâng cao chất (3).Xem: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 1997, tr. 310. lượng, hiệu quả của công tác hoà giải ở cơ (4).Xem: Nguyễn Ngọc Minh, Nghiên cứu những tư sở, đảm bảo nguyên tắc thấu tình, đạt lí, giải tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1988, tr. 159. quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân (5).Xem: Điều 10 Pháp lệnh dân số (đã được sửa đổi trên cơ sở vận dụng những chuẩn mực, năm 2008). nguyên tắc đạo đức, phù hợp với các quy (6). Theo quy định tại khoản 2 Điều 314 Bộ luật hình định trong pháp luật. sự Việt Nam năm 1999, người không tố giác là ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người Thứ tư, trong công tác bảo vệ pháp luật, phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về việc nhà chức trách cần phải kiên trì quan điểm không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia giáo dục thuyết phục trước, cưỡng chế sau, hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng theo chỉ áp dụng cưỡng chế nhà nước khi không quy định tại khoản 1 Điều này. (7). Chẳng hạn, hành vi giả mạo cấp bậc, chức vụ, hành còn biện pháp nào khác. Việc áp dụng biện vi khai báo gian dối, hành vi báo cáo sai... (xem các điều pháp cưỡng chế nhà nước phải luôn quán 265, 307, 329 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999). triệt phương châm “đánh kẻ chạy đi, không (8). Xem thêm: Nguyễn Văn Năm, “Một số nhận thức đánh người chạy lại”. Nhà nước và xã hội về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức”, Tạp chí luật học, số 4/2006, tr. 36. phải luôn tạo mọi điều kiện để những người (9).Xem: Khổng Tử, “Luận ngữ”, in trong sách Tứ “lầm đường lạc lối” quay trở lại con đường Thư, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 2006, tr. 123. lương thiện, “làm lại cuộc đời”, tuyệt đối (10).Xem: Điều 64 Hiến pháp năm 1992; Điều 41 Bộ luật dân sự năm 2005; các điều 2, 18, 21, 35 Luật hôn tránh tình trạng đẩy người vi phạm vào nhân và gia đình năm 2000. đường cùng, “không còn gì để mất”. Việc áp (11). “Bất hiếu là tố cáo, mắng nhiếc ông bà, cha mẹ, dụng biện pháp cưỡng chế cốt là để người vi làm ngược lời cha mẹ dạy bảo, nuôi dưỡng cha mẹ phạm suy nghĩ sâu sắc về hành vi của mình, thiếu thốn. Khi đang để tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, gây cuộc vui chơi, ăn mặc quần áo như “hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm thường. Nghe thấy tang ông bà, cha mẹ mà giấu, tội” và “cam tâm tình nguyện sửa chữa sai không khóc thương, cư tang, nói dối ông bà, cha mẹ lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng”,(12) còn sống”; “Bất nghĩa là… nghe chồng chết mà không có như vậy mới xoá bỏ được tận gốc rễ sự vi khóc thương, gây cuộc vui, ăn mặc đồ lành tốt và cải giá” (xem: Lê triều hình luật, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, phạm. Chính vì vậy, việc theo dõi, giúp đỡ 1998, các khoản 7, 9 Điều 2, tr. 35). người vi phạm sửa chữa sai lầm, khuyết (12).Xem: Khổng Tử, “Luận ngữ”, in trong sách Tứ điểm là điều hết sức cần thiết và có ý nghĩa./. Thư, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 2006, tr. 123. t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011 33
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2