intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo " Cần sửa đổi, bổ sung chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng "

Chia sẻ: Phung Han | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

119
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong thực tiễn đời sống hàng ngày, thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức ThS khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân; tài sản, danh dự, uy tín của các tổ chức xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là do lực lượng tự nhiên gây ra (phương tiện cơ giới, súc vật, cây cối, động đất, núi lửa, bão lụt…); có thể do hành vi của con người gây ra, trong đó phần lớn là do hành vi trái pháp luật của con người gây ra. Để bảo vệ lợi ích của...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo " Cần sửa đổi, bổ sung chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng "

  1. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù ThS. TrÇn ThÞ HuÖ * rong thực tiễn đời sống hàng ngày, Song các quy định về bồi thường thiệt hại ThS T thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của ngoài hợp đồng còn có những điểm chưa rõ, chưa đầy đủ, còn thiếu chặt chẽ. Vì vậy, cần T công dân; tài sản, danh dự, uy tín của các tổ chức xảy ra do nhiều nguyên nhân phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay. khác nhau, có thể là do lực lượng tự nhiên 1. Phần những quy định chung gây ra (phương tiện cơ giới, súc vật, cây cối, Theo quy định tại Điều 609 BLDS thì động đất, núi lửa, bão lụt…); có thể do hành một người có lỗi cố ý hay vô ý nếu gây thiệt vi của con người gây ra, trong đó phần lớn là hại thì phải bồi thường thiệt hại. Khi xác định do hành vi trái pháp luật của con người gây một người có lỗi, phải là một người biết hoặc ra. Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích phải biết hành vi của mình có thể gây ra thiệt của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của hại. Tuy Điều 609 BLDS không quy định thế công dân và các chủ thể khác, Bộ luật dân sự nào là lỗi cố ý và vô ý gây thiệt hại nhưng (BLDS) quy định trách nhiệm bồi thường khoản 2 Điều 309 BLDS đã quy định vấn đề thiệt hại với tư cách là chế định dân sự độc này đối với trường hợp cố ý gây thiệt hại và lập nhằm khôi phục lại những lợi ích bị xâm vô ý gây thiệt hại. phạm và bù đắp những thiệt hại xảy ra cho Để làm cơ sở cho việc xác định mức bồi người bị thiệt hại. thường trong trường hợp người gây thiệt hại BLDS quy định về bồi thường thiệt hại có lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn hoặc tương đối đầy đủ, có hệ thống đã đóng góp trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại một phần to lớn trong việc điều chỉnh các hoặc là người bị thiệt hại cùng có lỗi (theo quan hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt Điều 620, 621, 610 BLDS thì khi xác định hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá mức bồi thường đều phải dựa vào mức độ nhân, pháp nhân và các chủ thể khác. Các lỗi). Bởi thế trong BLDS cần quy định cụ thể quy định này là cơ sở tốt để toà án áp dụng về mức độ lỗi vô ý nhẹ và lỗi vô ý nặng. Việc giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại. quy định này là hết sức cần thiết, bởi vì một Những quy định này cơ bản đã đi vào trạng người vô ý nặng gây thiệt hại thì không nên thái vận động ổn định, phù hợp với đòi hỏi đặt ra vấn đề giảm mức bồi thường theo quy khách quan đặt ra trong thực tiễn cuộc sống và định tại khoản 2 Điều 610 BLDS. Bản thân giao lưu dân sự, đã phát huy được hiệu quả điều chỉnh các quan hệ về bồi thường thiệt hại. * Giảng viên chính Khoa luật dân sự Trường đại học luật Hà Nội 12 T¹p chÝ luËt häc
  2. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù người gây thiệt hại hoàn toàn có khả năng bình thường, người phải bồi thường quá khó thấy trước mức độ hậu quả có thể xảy ra dù khăn về kinh tế); mong muốn hoặc không mong muốn nhưng + Giá cả thị trường không còn phù hợp để mặc cho thiệt hại xảy ra. với thực tế; Điều 610 BLDS quy định các nguyên tắc + Sức khoẻ bị giảm sút hoặc hồi phục so bồi thường thiệt hại trong đó khoản 2 quy với thời điểm toà án ấn định mức bồi thường. định nguyên tắc xem xét mức độ lỗi và khả Khi giải quyết thay đổi mức bồi thường năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người dù tăng hay xuống sẽ không dễ dàng đối với gây ra thiệt hại để giảm mức bồi thường. người được yêu cầu thay đổi mức bồi thường Khái niệm "thiệt hại quá lớn" còn là khái (người gây thiệt hại cũng như người bị thiệt niệm mở. Việc cụ thể hoá thiệt hại “quá lớn” hại), vì việc chứng minh sẽ gặp rất nhiều khó là bao nhiêu cho mọi trường hợp hay tuỳ khăn. Có thay đổi được hay không? thay đổi từng trường hợp để khẳng định có quá lớn theo hướng nào? Vào thời điểm nào thì có thể hay không so với khả năng kinh tế của từng yêu cầu thay đổi mức bồi thường. chủ thể gây thiệt hại… Hiện nay, chưa có Thông thường, yêu cầu thay đổi phát sinh quy định cụ thể. Vì thế thực tế cho thấy khi khi phán quyết của toà án chưa có hiệu lực áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh pháp luật nhưng nếu bản án đã có hiệu lực chấp loại này, cơ quan bảo vệ pháp luật đã pháp luật và các bên đã thi hành bản án hoặc xem xét dựa vào từng trường hợp cụ thể đã thi hành thoả thuận trong quyết định hoà trong mối liên hệ với điều kiện sống trong giải của toà án thì có thay đổi mức bồi không gian và thời gian nhất định. Điều đó thường được không? Do vậy, văn bản pháp đòi hỏi có sự chu đáo, công bằng, tận tuỵ và luật hướng dẫn về thời điểm yêu cầu thay đổi đầy trách nhiệm trong công việc của người mức bồi thường thiệt hại cũng cần phải quy làm công tác xét xử. Tuy nhiên, thực trạng này định việc thay đổi mức bồi thường được đặt vẫn đòi hỏi phải có quy định “chuẩn” tối thiểu ra khi mức bồi thường đã ấn định không còn - tối đa để đảm bảo sự thống nhất trong phù hợp. Vấn đề này có ý kiến cho rằng chỉ đường lối xét xử của toà án. được áp dụng trong trường hợp bồi thường Khoản 3 Điều 610 quy định về việc thay theo định kì hàng tháng hoặc hàng quý mà đổi mức bồi thường. không thể áp dụng trong trường hợp một lần Thay đổi mức bồi thường là việc toà án (bồi thường toàn bộ một lần). Bởi vì, bồi hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thường một lần là có thể khắc phục được ấn định lại mức bồi thường không còn phù ngay hậu quả vào thời điểm thực hiện bồi hợp trong một số trường hợp cụ thể. thường. Bởi thế, yêu cầu thay đổi không còn Việc không còn phù hợp về mức bồi đáp ứng, mục đích bồi thường không còn ý thường có thể do: nghĩa. Song thực tế có nhiều trường hợp sức + Thực tế phát sinh những điều kiện mới khoẻ của người bị thiệt hại ngày càng xấu đi, (người được bồi thường đã trở lại thu nhập tỉ lệ thương tật ngày càng tăng lên, họ rơi vào T¹p chÝ luËt häc 13
  3. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù hoàn cảnh khó khăn thêm và như vậy thì hậu 613 đã xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc quả vẫn chưa được khắc phục. Họ phải được bị giảm sút của người bị thiệt hại là khoản quyền yêu cầu thay đổi mức bồi thường khi tiền mà người gây thiệt hại phải bồi thường. có lí do chính đáng. Tiếp đến khoản 3 Điều 613 lại quy định rằng 2. Xác định thiệt hại người gây thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng Xác định thiệt hại vào thời điểm xét xử cho những người mà người bị thiệt hại có sơ thẩm hay vào thời điểm gây ra thiệt hại nghĩa vụ cấp dưỡng. Việc quy định của hai chưa được pháp luật quy định. Xác định thiệt khoản trên đây tại Điều 613 đã buộc người hại vào thời điểm nào là rất quan trọng, vì tại gây thiệt hại phải bồi thường đến hai lần cho hai thời điểm kể trên mức thiệt hại có thể bị một thiệt hại xảy ra trên thực tế, bởi lẽ một thay đổi do sự biến động của giá cả thị người khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho trường. Theo chúng tôi, thiệt hại phải được người mình có nghĩa vụ cấp dưỡng thì mức xác định vào thời điểm xảy ra thiệt hại, vì tại cấp dưỡng phải lấy trong thu nhập của người thời điểm này quyền và lợi ích hợp pháp của đó. Điều này không phù hợp với nguyên tắc người bị thiệt hại đã bị xâm phạm. “gây thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường Vấn đề bồi thường khoản tiền cấp dưỡng, bấy nhiêu”. Thực tế này đòi hỏi cần có sự cân về nguyên tắc người gây thiệt hại chỉ phải bồi nhắc và sửa đổi Điều 613 theo hướng khoản thường khoản tiền này khi người bị thiệt hại cấp dưỡng phải được xác định trong thu nhập đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bằng thu bị mất đã được xác định của người gây thiệt nhập của mình đối với người được cấp hại (không vượt qua phạm vi thu nhập của dưỡng. Những căn cứ để tính khoản tiền này họ), để đảm bảo tính công bằng cho các chủ được tính cụ thể như thế nào? Được bồi thể trong quan hệ này. thường theo tháng, theo quý, theo năm hay Trường hợp nào người gây thiệt hại phải bồi thường một lần?… Đặc biệt là việc xác bồi thường khoản tiền cấp dưỡng: định mức cấp dưỡng, đây là vấn đề khó khăn, Khoản 3 Điều 613 và khoản 3 Điều 614 phức tạp trong hoạt động xét xử của toà án BLDS đều quy định tiền cấp dưỡng cho khi giải quyết về bồi thường thiệt hại do sức những người mà người bị thiệt hại có nghĩa khoẻ, tính mạng bị xâm phạm. Theo chúng vụ cấp dưỡng. Theo nội dung quy định này tôi, khi xác định mức cấp dưỡng phải dựa thì phải hiểu người gây thiệt hại phải có trên mức thực tế của những người mà người nghĩa vụ cấp dưỡng cho tất cả những người bị thiệt hại phải cấp dưỡng đang được hưởng. mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, Đồng thời, dựa vào khoản chênh lệch giữa cho dù trên thực tế họ có thực hiện nghĩa vụ thu nhập thực tế của người bị thiệt hại và chi đó hay không. Nếu vậy, điều đó thực sự phí cần thiết tối thiểu của bản thân người ấy không hợp lí bởi những lí do sau đây: hàng tháng (không quá 50% mức lương tối - Có nhiều trường hợp người bị thiệt hại thiểu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng). không có thu nhập (học sinh, sinh viên…) mà Về khoản tiền cấp dưỡng, khoản 2 Điều khi không có thu nhập thì không thể xác định 14 T¹p chÝ luËt häc
  4. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù thu nhập bị mất. Vì vậy, vấn đề khôi phục sẽ của Thông tư số 173/UBTP ngày 23/3/1972 không được đặt ra; của Toà án nhân dân tối cao xác định trong - Tuy người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp khoảng thời gian xác định là 3 năm (trong dưỡng đối với những người được cấp dưỡng trường hợp đặc biệt là 5 năm). Để bảo vệ nhưng trên thực tế họ lại không thực hiện quyền lợi cho người bị thiệt hại trong trường nghĩa vụ này. Trong khi đó, người gây thiệt hợp này, chúng tôi thấy cần thiết luật phải hại bị buộc phải thực hiện nghĩa vụ này thì quy định thời hạn được hưởng bồi thường hoàn toàn không hợp lí. của họ đến hết độ tuổi lao động theo quy định Với thực tế này, pháp luật cần quy định của Bộ luật lao động Việt Nam. người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường khoản Trên thực tế, nghĩa vụ cấp dưỡng được tiền khi người bị thiệt hại có thu nhập và đang thực hiện qua hai phương thức: thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bằng thu nhập + Cấp dưỡng một lần: Thực hiện phương của mình đối với người được cấp dưỡng và thức này sẽ đảm bảo được tính kịp thời, chỉ những người thực tế bị mất khoản cấp nhanh chóng toàn bộ thiệt hại nhưng bên dưỡng khi người bị thiệt hại mất khả năng lao cạnh đó có những khó khăn nhất định vì động hoặc chết thì người gây thiệt hại mới có cùng một lúc người gây thiệt hại phải bồi nghĩa vụ cấp dưỡng. Giải quyết theo hướng thường khoản tiền quá lớn dẫn đến việc thi này mới bảo đảm được quyền lợi chính đáng hành án rất khó khăn, thậm chí không thể thi của các chủ thể. Việc xác định chính xác thiệt hành được. hại không chỉ đảm bảo quyền lợi cho người + Cấp dưỡng định kì: Đây là phương thức bị thiệt hại mà còn đảm bảo cho cả người gây người gây thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ thiệt hại (vì thiệt hại xảy ra thường nằm cấp dưỡng theo từng thời hạn nhất định. ngoài mong muốn của họ). Phương thức này sẽ tạo điều kiện cho người Thời hạn được bồi thường, hiện nay, tại có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện nghĩa vụ tốt Điều 616 BLDS chỉ mới quy định thời hạn hơn. Đặc biệt trong những trường hợp người được hưởng bồi thường cho trường hợp phải cấp dưỡng không có khả năng về kinh người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao tế. Ngược lại, phương thức này gây ra một số động mà không quy định thời hạn được khó khăn cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng hưởng bồi thường cho người bị thiệt hại mất như thời gian đi lại, chi phí phương tiền tàu một phần khả năng lao động. Có rất nhiều xe… của người gây thiệt hại khi hai bên chủ trường hợp người bị thiệt hại có tổn hại vĩnh thể trong quan hệ có nơi cư trú cách nhau quá viễn về sức khoẻ và không thể phục hồi, họ xa. Hiện nay, có toà án giải quyết theo không hẳn bị tàn phế hoàn toàn nhưng tổn hại phương thức bồi thường một lần, có toà án lại đó vẫn ảnh hưởng rất lớn tới khả năng lao giải quyết theo phương thức cấp dưỡng định động và thu nhập của họ. Trường hợp này kì theo tháng hoặc theo quý và tách từng pháp luật chưa có quy định cụ thể nên trong phần tương ứng với từng người được hưởng. thực tiễn xét xử vẫn phải dựa trên tinh thần Chúng tôi cho rằng văn bản hướng dẫn cần T¹p chÝ luËt häc 15
  5. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù quy định theo hướng này. (khoản 2 Điều 618 BLDS). Điều 618 quy định bồi thường thiệt hại Nếu hành vi gây hại được coi là tình thế trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình cấp thiết thì dễ dàng xác định trách nhiệm bồi thế cấp thiết. Nếu nguyên nhân đưa đến hành thường thuộc về ai “người đã gây ra tình thế vi gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi chính đáng chỉ có thể do con người chủ động thường cho người bị thiệt hại” (khoản 3 Điều gây ra thì nguyên nhân đưa đến tình thế cấp 618 BLDS) nhưng sẽ không đơn giản khi xác thiết có thể do hành vi trái pháp luật của con định trách nhiệm bồi thường của hành vi gây người gây ra, có thể do yếu tố tự nhiên gây ra hại lại vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết như động đất, lũ lụt , bão tố, cháy rừng. (thiệt hại gây ra lớn hơn thiệt hại cần ngăn Hành vi gây thiệt hại chỉ được coi là tình chặn). Đặc biệt trong trường hợp người nào thế cấp thiết khi đáp ứng được ba yêu cầu sau: đó gây ra tình thế cấp thiết buộc người khác + Hành vi của một người được thực hiện phải hành động để bảo vệ lợi ích đang bị đe trong trường hợp nguy hiểm đang xảy ra doạ trực tiếp nhưng người này đã hành động hoặc sẽ xảy ra ngay tức khắc đe doạ trực tiếp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết nên đến lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập phải bồi thường cho người bị thiệt hại. thể, của cá nhân. Khoản 3 Điều 618 BLDS chỉ quy định: + Với mục đích ngăn chặn khắc phục “… người gây hại phải bồi thường cho người thiệt hại cũng như bảo vệ lợi ích lớn hơn, bị thiệt hại” mà không quy định cụ thể việc pháp luật yêu cầu thiệt hại xảy ra phải nhỏ bồi thường như thế nào trong trường hợp cụ hơn thiệt hại cần ngăn chặn. Không được thể trên đây. Việc quy định như vậy dẫn đến phép dùng tính mạng, sức khoẻ người khác có nhiều cách hiểu khác nhau: để ngăn chặn thiệt hại đang xảy ra hoặc sẽ Thứ nhất, quy định này được hiểu là xảy ra ngay tức khắc. người có hành vi gây thiệt hại vượt quá yêu + Biện pháp gây thiệt hại là biện pháp cầu của tình thế cấp thiết phải bồi thường duy nhất cuối cùng. Có nghĩa là trong trường toàn bộ thiệt hại (tức là cả phần thiệt hại phải hợp còn có những biện pháp khác không cần hi sinh để ngăn ngừa thiệt hại lớn hơn cộng gây thiệt hại mà vẫn bảo vệ được lợi ích lớn với phần thiệt hại vượt quá), nếu vậy thì hơn và hành vi đã thực hiện không phải là người gây ra tình thế cấp thiết không phải biện pháp tối ưu, cuối cùng thì không được gánh chịu một hậu quả pháp lí nào cả. coi là tình thế cấp thiết. Thứ hai, trách nhiệm bồi thường của Như vậy, nếu có cơ sở để xác định thiệt người gây ra tình thế cấp thiết và người gây hại xảy ra do phải hành động trong tình thế hại vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là cấp thiết thì người gây thiệt hại không phải trách nhiệm liên đới. Vì cho rằng hậu quả xảy bồi thường (khoản 1 Điều 618 BLDS). ra là thống nhất. Ngược lại, nếu hành vi gây thiệt vượt quá yêu Thứ ba, người gây hại do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt cầu của tình thế cấp thiết chỉ phải bồi thường hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại phần vượt quá phần lợi ích cần hi sinh để bảo 16 T¹p chÝ luËt häc
  6. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù vệ lợi ích lớn hơn. Phần lợi ích cần hi sinh Theo quy định tại Điều 627 BLDS thì khi thuộc trách nhiệm bồi thường của người gây có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra tình thế cấp thiết. ra, việc bồi thường được xác định như sau: Chúng tôi cho rằng cách hiểu thứ ba hợp lí - Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ hơn, vì lợi ích cần hi sinh là lợi ích tất yếu bị phải bồi thường (nếu nguồn nguy hiểm gây ra thiệt hại trong tình thế cấp thiết để bảo vệ lợi thiệt hại trong thời gian đang do mình chiếm ích lớn hơn. Do đó, phần này phải thuộc trách hữu, sử dụng); nhiệm của người gây ra tình thế cấp thiết (tất - Người đang chiếm hữu, sử dụng hợp nhiên trường hợp này chỉ áp dụng đối với pháp nguồn nguy hiểm mà nguồn nguy hiểm nguồn phát sinh tình thế cấp thiết là do hành vi gây ra thiệt hại thì người đó phải bồi thường; trái pháp luật của con người gây ra). - Nguồn nguy hiểm cao độ đang bị chiếm Điều 627 BLDS quy định bồi thường hữu trái pháp luật gây thiệt hại thì người đang thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy Hiểu được bản chất của nguồn nguy hiểm cao hiểm cao độ phải bồi thường. độ là điều kiện đầu tiên để xác định trách Để có thể xác định được chính xác chủ nhiệm bồi thường - chủ thể bồi thường, điều thể chịu trách nhiệm thì cần quy định cụ thể kiện phát sinh… trong chế độ trách nhiệm do hơn theo hướng: nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để hiểu và - Chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại xác định được các yếu tố trong loại trách khi họ đang trực tiếp quản lí, kiểm soát nhiệm này cần thiết phải đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ, khi họ uỷ quyền chung về nguồn nguy hiểm cao độ. cho người khác chiếm hữu, sử dụng vì lợi ích Nguồn nguy hiểm cao độ là những thiết của họ, khi họ giao cho người lao động chiếm bị máy móc, các loại hoá chất, thú dữ… luôn hữu, quản lí, sử dụng theo nghĩa vụ lao động; chứa đựng, tiềm ẩn những nguy hiểm khách - Người được chủ sở hữu giao cho chiếm quan những nguy cơ gây thiệt hại lớn, bất hữu, sử dụng thông qua hợp đồng dân sự có ngờ cho những người xung quanh mà trong hiệu lực pháp luật khi họ đang thực tế quản quá trình chiếm hữu, sử dụng, khai thác con lí, sử dụng; người không thể kiểm soát được một cách - Đồng chủ sở hữu đối với nguồn nguy tuyệt đối. Như vậy, nguồn nguy hiểm cao độ hiểm cao độ cũng phải bồi thường nếu nguồn có hai đặc điểm sau: nguy hiểm cao độ hoạt động gây ra thiệt hại; - Hoạt động của nó gây ra nguy hiểm đối - Người được chủ sở hữu giao cho với những người xung quanh; chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao - Con người không thể kiểm soát được độ, sau đó nguồn nguy hiềm này chuyển một cách tuyệt đối quá trình hoạt động thì sẽ giao trái pháp luật cho người thứ ba nếu bị coi là nguồn nguy hiểm cao độ và áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn trong thời gian đó nguồn nguy hiểm cao độ nguy hiểm cao độ gây ra nếu chúng gây thiệt gây thiệt hại thì phải liên đới chịu trách hại trong quá trình hoạt động; nhiệm bồi thường thiệt hại./. T¹p chÝ luËt häc 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2