intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo " Hoàn thiện quy định về thừa kế trong bộ luật dân sự "

Chia sẻ: Phung Han | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

168
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sự ra đời của Bộ luật dân sự được coi là bước ngoặt lớn trong quá trình hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng của Nhà nước ta. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng và kiểm nghiệm thực tiễn, BLDS đã bộc lộ khá nhiều thiếu sót và bất cập. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi xin nêu những bất cập trong quy định về thừa kế của BLDS và đưa ra hướng hoàn thiện những bất cập đó. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo " Hoàn thiện quy định về thừa kế trong bộ luật dân sự "

  1. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù Ts. Ph¹m v¨n TuyÕt * ự ra đời của Bộ luật dân sự được coi là mấy giờ, bao nhiêu phút của ngày, tháng, năm S bước ngoặt lớn trong quá trình hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói nào và thông thường việc xác định này được ghi nhận trong chứng thư hộ tịch thông qua riêng của Nhà nước ta. Tuy nhiên, sau một việc khai tử. Do vậy, trong trường hợp này thì thời gian áp dụng và kiểm nghiệm thực tiễn, hiệu lực của di chúc và giấy khai tử là cơ sở BLDS đã bộc lộ khá nhiều thiếu sót và bất pháp lí để xác định thời điểm đó. cập. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi xin Cái chết của người để lại di sản sẽ được nêu những bất cập trong quy định về thừa kế xác định theo ngày nếu họ là người bị toà án của BLDS và đưa ra hướng hoàn thiện những tuyên bố là đã chết (chết pháp lí). Tuy nhiên, bất cập đó. ngày chết của người đó được xác định theo 1. Về thời điểm mở thừa kế ngày nào phải tuỳ vào từng trường hợp. Xác định thời điểm mở thừa kế là công Theo quy định tại khoản 2 Điều 91 BLDS việc quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền thì “ngày người đó đã chết” được xác định lợi của người thừa kế. Vì vậy, khoản 1 Điều theo hai trường hợp sau: 636 BLDS quy định: “Thời điểm mở thừa kế là - Trường hợp thứ nhất: Là ngày được toà thời điểm người có di sản chết. Trong trường án xác định trong quyết định tuyên bố chết. hợp toà án tuyên bố một người là đã chết thì Khi ra quyết định tuyên bố chết đối với cá thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại nhân trong những trường hợp biết rõ lí do biệt khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này”. tích và nếu theo những sự kiện thực tế xảy ra Theo quy định trên của BLDS thì thời đã có đủ cơ sở để xác định ngày chết của họ điểm mở thừa kế được xác định bắt đầu từ khi thì toà án sẽ xác định cụ thể về ngày chết của người để lại di sản chết. Tuy nhiên, trong thực người đó trong quyết định của mình. Tuy tế việc xác định người lập di chúc chết từ khi nhiên, quy định tại khoản 2 Điều 91 BLDS nào là việc không đơn giản. Ngay cả “mốc” chưa thật cụ thể và hiện nay cũng chưa có văn thời gian để xác định thời điểm chết của người bản hướng dẫn thi hành vấn đề này nên việc để lại di sản cũng phải xác định khác nhau xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã theo từng trường hợp cụ thể. chết còn chưa được thống nhất. Chẳng hạn, Cái chết của người để lại di sản được xác đối với cá nhân bị tuyên bố là đã chết do bị tai định theo thời điểm nếu người đó chết một cách thực tế (chết sinh học). Theo thực tế * Giảng viên chính Khoa luật dân sự người ta sẽ xác định thời điểm đó là vào lúc Trường đại học luật Hà Nội 76 T¹p chÝ luËt häc
  2. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai thì ngày chết của của toà án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, nếu họ được xác định là ngày nào trong ba ngày theo quy định của pháp luật thì anh M bị coi là sau: Ngày xảy ra tai nạn, thiên tai, thảm hoạ; đã chết trước ông A nên anh M không được ngày kết thúc tai nạn, thiên tai, thảm hoạ; ngày hưởng di sản thừa kế mà ông A để lại (nghĩa là tròn một năm kể từ ngày tai nạn, thiên tai, chị H không được kế quyền thừa kế của anh M thảm hoạ đó chấm dứt? để hưởng di sản của ông A). Logic pháp lí này - Trường hợp thứ hai: Là ngày quyết định hoàn toàn trái ngược với tính thực tế của vụ tuyên bố cá nhân đã chết của toà án có hiệu việc là chính anh M yêu cầu toà án tuyên bố lực pháp luật. Xác định ngày chết của người bị về cái chết của ông A nhưng lại bị coi là người tuyên bố là đã chết theo cách này thường được đã chết trước ông A. áp dụng trong những trường hợp không có cơ Qua ví dụ trên chúng tôi thấy rằng nếu sở để xác định một cách cụ thể về ngày chết ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết của người đó vì sự biệt tích của họ không rõ lí được xác định theo ngày có hiệu lực pháp luật do. Thông thường đó là trường hợp một cá của quyết định tuyên bố chết sẽ gây ra bất cập nhân đã bị toà án tuyên bố mất tích và sau đó trong nhiều trường hợp tương tự. bị tuyên bố là đã chết vì sau ba năm kể từ ngày Để khắc phục tình trạng bất cập trên, quyết định tuyên bố mất tích có hiệu lực pháp chúng tôi cho rằng ngày chết của người bị luật mà vẫn không có tin tức gì về sự sống còn tuyên bố là đã chết phải được xác định cụ thể của người đó hoặc trường hợp cá nhân bị trong mọi trường hợp, không nên coi ngày có tuyên bố chết vì đã biệt tích năm năm và cũng hiệu lực pháp luật của quyết định là ngày chết không rõ lí do về sự biệt tích của họ. của họ. Trong thực tế có rất nhiều nguyên Sự quy định của pháp luật về việc xác định nhân khác nhau làm cho các cá nhân bị biệt ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết theo tích dẫn đến việc toà án ra quyết định tuyên bố ngày có hiệu lực của quyết định nhằm dự là đã chết đối với họ nhưng nếu tựu trung lại phòng cho những trường hợp không thể xác thì chỉ có ba trường hợp sau: Cá nhân biệt tích định cụ thể được ngày chết của người bị tuyên lâu ngày mà không rõ lí do; cá nhân mất tích bố là đã chết. Tuy nhiên, quy định này có thể trong vụ tai nạn, thiên tai, thảm hoạ; cá nhân sẽ gây ra nhiều bất cập trong đời sống thực tế. mất tích trong chiến tranh. Vì vậy, để có sự Chẳng hạn: Anh M yêu cầu toà án tuyên bố thống nhất cho các toà án trong việc xác định ông A (bố của M) là đã chết để hưởng thừa kế ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết số tài sản của ông A vì ông A đã mất tích quá nhằm tránh tình trạng bất cập nói trên, chúng năm năm không rõ lí do. Toà án chưa thụ lí tôi mong rằng các cơ quan có thẩm quyền cần đơn yêu cầu của anh M thì anh M đã chết vì bị sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về tai nạn. Chị H (vợ của M) tiếp tục yêu cầu toà vấn đề này theo hướng sau đây: án tuyên bố ông A là đã chết. Nếu vụ việc trên Đối với người bị tuyên bố là đã chết vì biệt được giải quyết thì ngày chết của ông A được tích quá lâu ngày mà không rõ lí do thì ngày xác định theo ngày quyết định tuyên bố chết chết của họ được xác định là ngày tròn năm T¹p chÝ luËt häc 77
  3. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù năm kể từ khi có tin tức cuối cùng về sự sống Trong vụ việc trên, nếu xác định ông A còn của họ. chết trước anh B thì những người thừa kế của Đối với người bị tuyên bố là đã chết là anh B sẽ được hưởng số di sản của ông A nếu người đã bị tuyên bố mất tích thì ngày chết xác định anh B chết trước ông A thì họ sẽ của họ được xác định là ngày tròn ba năm kể không được hưởng di sản mà ông A đã định từ khi quyết định tuyên bố mất tích có hiệu lực đoạt bằng di chúc cho anh B và những người pháp luật. cùng hàng thừa kế với anh B sẽ hưởng số di Đối với người bị tuyên bố là đã chết vì sản của ông A theo pháp luật. Tuy nhiên, trong không xác định được là còn sống hay đã chết trường hợp này toà án khó có thể xác định bên sau vụ tai nạn, thiên tai, thảm hoạ thì ngày nào là người nói đúng sự thật. Và căn cứ vào chết của họ được xác định là ngày tròn một Điều 644 BLDS thì toà án phải xác định hai năm kể từ khi vụ tai nạn, thiên tai, thảm hoạ người nói trên là chết cùng thời điểm, Điều đó chấm dứt. 644 BLDS quy định: “Trong trường hợp Đối với người bị tuyên bố là đã chết vì mất những người có quyền thừa kế di sản của nhau tích trong chiến tranh thì ngày chết của họ đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được được xác định là ngày tròn năm năm kể từ khi coi là chết trong cùng một thời điểm do không cuộc chiến tranh đó kết thúc. thể xác định được người nào chết trước thì họ Chúng tôi còn cho rằng cùng xác định về không được thừa kế di sản của nhau và di sản mốc thời gian để từ đó di chúc được coi là có của mỗi người do người thừa kế của người đó hiệu lực mà pháp luật lại đưa ra hai đơn vị thời hưởng”. Do vậy, những người thừa kế của anh gian khác nhau là “thời điểm” và “ngày” sẽ B không được hưởng di sản mà ông A để lại không tránh khỏi sự khập khiễng. Hơn nữa, theo di chúc cho anh B vì di chúc không có việc xác định cái chết theo thời điểm sẽ rất dễ hiệu lực. Giả sử trong thực tế những người xảy ra sự tranh chấp giữa những người thừa kế thừa kế của anh B thực sự chứng kiến việc ông và làm cho cơ quan có thẩm quyền khó có thể A đã chết trước anh B thì bản án giải quyết vụ đánh giá vấn đề một cách chính xác khi có tranh chấp trên sẽ không có sức thuyết phục, tranh chấp xảy ra. Ví dụ: Ông A để lại di chúc thậm chí sẽ gây nên sự hoài nghi, thắc mắc của cho người con là B hưởng di sản của mình đương sự với cơ quan xét xử mặc dù việc giải nhưng hai người cùng bị chết trong một vụ tai quyết là hoàn toàn đúng pháp luật. nạn giao thông. Khi tranh chấp về thời điểm Chúng tôi thấy rằng nếu pháp luật quy chết của hai người thì một bên (những người định thời điểm chết được xác định theo ngày thừa kế của anh B) nói rằng vì vụ tại nạn xảy thì sẽ giảm bớt được nhiều tranh chấp trong ra gần nơi họ ở nên khi ra đến nơi xảy ra tai thực tế. Đặc biệt, toà án sẽ có đầy đủ cơ sở nạn họ đã chứng kiến ông A chết trước anh B pháp lí để xác định những người chết cách khoảng năm phút. Một bên là những người nhau theo phút, thậm chí hàng giờ nhưng trong cùng hàng thừa kế với anh B lại nói rằng anh cùng một ngày là những người chết cùng thời B chết trước ông A khoảng năm phút. điểm. Điều đó sẽ tránh được hoài nghi, thắc 78 T¹p chÝ luËt häc
  4. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù mắc của nhân dân đối với việc xét xử của toà Cá nhân có thể tự lập di chúc mà không cần án trong những trường hợp tương tự như ví dụ người làm chứng, không cần chứng nhận, chứng nêu trên. Hơn nữa, nếu xét về truyền thống thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. pháp luật chúng ta thấy rằng các bộ dân luật Di chúc tự lập chỉ được coi là hợp pháp của Việt Nam trước đây đều xác định thời nếu di chúc đó do chính người lập di chúc tự điểm mở thừa kế (thời điểm chết của người để viết và kí vào bản di chúc đồng thời phải tuân lại di sản) theo ngày. theo quy định tại khoản 1 Điều 655 và Điều 2. Di chúc bằng văn bản không có người 656 của Bộ luật này". làm chứng 3. Cần quy định lại các loại di chúc Điều 658 quy định di chúc bằng văn bản Các loại di chúc được BLDS quy định tại không có người làm chứng phải do người lập các điều: 654, 658, 659, 660, 661, 663, 664 rất di chúc tự tay viết và kí vào bản di chúc. dễ bị lẫn lộn và đôi khi giữa các loại di chúc Trong khi đó, di chúc lập tại công chứng nhà còn có sự mâu thuẫn. Để việc quy định các loại nước hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị di chúc một cách có hệ thống chúng tôi đề nghị trấn cũng có thể là loại di chúc không có chỉ cần quy định bốn loại di chúc như sau: người làm chứng (chỉ phải có người làm + Di chúc miệng (để nguyên Điều 654). chứng nếu người lập di chúc không đọc được + Di chúc tự lập (sửa lại Điều 658 theo hoặc không nghe được) nhưng di chúc lại do kiến nghị). công chứng viên hoặc người có thẩm quyền + Di chúc bằng văn bản có người làm ghi lại. Như vậy, thủ tục lập di chúc tại công chứng (để nguyên Điều 659). chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân mà + Di chúc có chứng nhận của công chứng không có người làm chứng sẽ mâu thuẫn với nhà nước hoặc có chứng thực của ủy ban nhân quy định tại Điều 658. Mặt khác, khoản 4, dân xã, phường, thị trấn (nhập các Điều 660, Điều 655 BLDS cũng đã quy định: "Di chúc 661, 664 thành một điều mới như sau: bằng văn bản không có chứng nhận, chứng Điều... 1. Người lập di chúc có thể yêu cầu thực như quy định tại Điều 660 của Bộ luật công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy ban này chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ điều nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực bản kiện được quy định tại khoản 1 Điều này". di chúc. Điều đó chứng tỏ rằng nếu một người tự lập di 2. Việc lập di chúc có chứng nhận của chúc dù không có người làm chứng, không có công chứng nhà nước hoặc chứng thực của ủy chứng nhận, chứng thực thì di chúc đó vẫn ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân được coi là hợp pháp nếu họ tự mình lập di theo thủ tục sau đây: chúc một cách tự nguyện trong khi minh mẫn, a) Người lập di chúc tuyên bố nội dung sáng suốt. của di chúc trước công chứng viên hoặc người Với những lí do trên chúng tôi đề nghị sửa có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân lại Điều 658 như sau: dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên "Điều 658. Di chúc tự lập hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải T¹p chÝ luËt häc 79
  5. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã Khi áp dụng quy định trên để giải quyết tuyên bố. Người lập di chúc kí vào bản di chúc tranh chấp cần phải hiểu theo cách nào? Theo sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chúng tôi, cần phải hiểu quy định trên theo chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. cách thứ hai và để tránh có hai cách hiểu khác Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền nhau thì khoản 4 Điều 651 nên quy định lại chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, như sau: Giao nghĩa vụ cho người thừa kế. thị trấn kí vào bản di chúc. Quy định như vậy sẽ thống nhất được cách b) Trong trường hợp người lập di chúc hiểu là dù có vượt quá phạm vi di sản thì việc không đọc được hoặc không nghe được bản di giao nghĩa vụ vẫn có hiệu lực pháp luật, tuy chúc, không kí, không điểm chỉ được thì phải nhiên người được giao nghĩa vụ chỉ phải thực nhờ người làm chứng và người này phải kí xác hiện nghĩa vụ đó trong phần phạm vi di sản mà nhận trước mặt công chứng viên hoặc người họ được nhận. có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân 5. Về thay thế di chúc dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, Khoản 3 Điều 665 BLDS quy định: người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban "Trong trường hợp người lập di chúc thay thế nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị di chúc trước mặt người lập di chúc và người hủy bỏ" nhưng BLDS không định nghĩa thay làm chứng. thế di chúc là gì. Vì vậy, sẽ hết sức khó khăn 3. Người lập di chúc có thể yêu cầu công trong việc xác định người để lại di sản có thay chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc). thế di chúc hay không, di chúc nào thay thế di 4. Về quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế chúc nào, nếu sau khi họ chết lại phát hiện Khoản 4 Điều 651 quy định: "Giao nghĩa được nhiều bản di chúc khác nhau. Bản chất vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản" . của việc thay thế di chúc là gì, trường hợp nào Quy định như vậy dễ có thể được hiểu theo hai được coi là thay thế di chúc là những vấn đề mà cách. Có thể hiểu theo cách thứ nhất là nếu trong thực tế còn nhiều cách hiểu khác nhau. người lập di chúc giao nghĩa vụ cho người Mặt khác, việc hiểu rõ bản chất để xác thừa kế vượt quá phạm vi di sản thì việc giao định trường hợp nào mới được coi là thay thế nghĩa vụ đó sẽ không có hiệu lực pháp luật và di chúc có một ý nghĩa hết sức quan trọng và vì vậy người thừa kế được giao nghĩa vụ thiết thực trong việc giải quyết đúng đắn một không phải thực hiện nghĩa vụ được giao. Tất vụ án. cả những người thừa kế phải cùng nhau thực Trước hết, cần thống nhất nhận thức về bản hiện nghĩa vụ đó. Có thể hiểu theo cách thứ chất của thay thế di chúc là việc một người hai là chỉ phần nghĩa vụ được giao vượt quá bằng ý chí tự nguyện được thể hiện trong bản di phạm vi di sản mới không có hiệu lực. Vì vậy, chúc sau của mình để phủ nhận toàn bộ ý chí tự người thừa kế được người lập di chúc giao nguyện đã thể hiện trong bản di chúc trước đó nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trong về việc định đoạt di sản thừa kế. phạm vi phần di sản mà họ được hưởng. Trong thực tế có thể có người để lại nhiều 80 T¹p chÝ luËt häc
  6. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù bản di chúc khác nhau nhưng chưa hẳn đó là sự chia di sản của mình là 120 triệu đồng cho ba thay thế di chúc vì rằng chưa chắc bản di chúc người con là N, M, P hưởng ngang nhau sau đã là ý chí tự nguyện của người đó. Do vậy, (không cho Q hưởng). trong trường hợp này cần phải phân biệt rõ hai Sau đó một thời gian, ông T (em bà C) với vấn đề khác nhau như sau: mục đích muốn để cho hai cháu của mình (con Ví dụ 1: Việc thay thế di chúc. bà C) được hưởng phần di sản nhiều hơn nên Ông N có ba người con là: T, K, H (vợ ông đã lừa dối để ông A tin rằng người con đầu N đã chết). Trước khi chết ông lập di chúc để của mình là M (đang đi hợp tác lao động ở lại số di sản của mình trị giá 120 triệu đồng nước ngoài) đã bị chết. Vì thế, ông lập di chúc cho hai người con thứ là K và H (vì ông thấy thứ hai để chia đều 120 triệu đồng cho N, P, Q rằng anh T vừa đi lao động ở nước ngoài về đã (mỗi người 40 triệu đồng). có nhiều tài sản). Sau đó nghĩ lại ông thấy Ở ví dụ này, di chúc thứ hai được lập ra do rằng nên cho người con út là H hưởng cả 120 sự lừa dối của người khác, không phải là ý chí tự triệu đồng vì K cũng giàu có, vì vậy ông lập di nguyện của ông A. Do đó, không phải là việc chúc thứ hai định đoạt toàn bộ số di sản trên ông A dùng ý chí tự nguyện sau của mình để cho H. Một thời gian sau anh H chết vì tai nạn thay thế ý chí tự nguyện trước và vì vậy, trong giao thông. Quá đau buồn ông N cũng lâm trường hợp này không được coi là thay thế di bệnh nặng và chết. chúc mặc dù ông A có để lại nhiều bản di chúc. Trong vụ việc trên, chúng ta thấy rằng di Trường hợp này sẽ dẫn đến hệ quả khác chúc thứ hai không có hiệu lực pháp luật vì H hẳn với hệ quả nêu trong ví dụ thứ nhất là: (người duy nhất được xác định trong di chúc) Phải căn cứ vào di chúc trước để phân chia di đã chết trước ông N (người lập di chúc). Đó là di sản vì khi di chúc thứ hai không phải là ý chí chúc hợp pháp nhưng không có hiệu lực pháp tự nguyện của ông A thì di chúc nêu trước đó luật vì bị thất hiệu đồng thời là di chúc được lập (di chúc trước) được coi là ý chí tự nguyện ra hoàn toàn bằng ý chí tự nguyện của ông N. cuối cùng (không bị một ý chí tự nguyện nào Do đó, việc lập di chúc thứ hai của ông N là việc phủ nhận nữa). thay thế di chúc trước đó. Trường hợp trên dẫn Từ phân tích trên chúng tôi cho rằng cần phải đến hệ quả là vụ án vốn có di chúc nhưng lại có điều luật định nghĩa về thay thế di chúc. phải giải quyết theo luật (vì di chúc sau không 6. Về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ có hiệu lực, di chúc trước đã bị hủy bỏ). di chúc chung của vợ chồng Ví dụ 2: Trường hợp không được coi là Điều 667 BLDS đã quy định: thay thế di chúc. "1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay Năm 1953 Ông A có hai vợ (B và C đều thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. đã chết) M và N là con của ông A với bà vợ 2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ đầu (bà B), P và Q là con của ông A với bà vợ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải kế (bà C). Trước khi chết ông A lập di chúc được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã T¹p chÝ luËt häc 81
  7. ®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di người công bố di chúc và những người thừa kế chúc liên quan đến phần di sản của mình". phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc Điều luật quy định như trên dễ dẫn đến hai dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất, nếu người chết, có xem xét đến mối quan hệ của vợ chồng đều còn sống thì một bên chỉ được người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc những người này không nhất trí cách hiểu nội chung khi có sự đồng ý của bên kia. Nếu một dung di chúc thì coi như không có di chúc và người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, di sản được thừa kế theo pháp luật". bổ sung phần di chúc liên quan đến phần tài Trong trường hợp có một phần nội dung di sản của mình. Cách hiểu thứ hai: Khi vợ chúc không giải thích được nhưng không ảnh chồng đều còn sống, phải có sự đồng ý của hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực. người kia nếu người này sửa đổi, bổ sung, thay Điều luật trên quy định người giải thích thế, hủy bỏ toàn bộ di chúc chung. Vì thế, dù nội dung di chúc là người thừa kế là phi logic không có sự đồng ý của người kia nhưng nếu bởi chỉ phải giải thích nội dung của di chúc họ sửa đổi phần di chúc liên quan đến phần tài khi mà những người thừa kế có nhiều cách sản của mình thì việc sửa đổi đó vẫn có hiệu hiểu khác nhau về nội dung của di chúc. Nếu lực pháp luật. Nếu việc sửa đổi, bổ sung, thay người giải thích di chúc lại chính là người thừa thế, hủy bỏ di chúc có liên quan đến cả tài sản kế thì tự họ, những người thừa kế thật khó có của người kia và không được họ đồng ý thì chỉ thể "cùng nhau" hiểu theo một cách về nội phần sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di dung di chúc khi vốn dĩ mỗi người đã có một chúc liên quan đến tài sản của người đã sửa cách hiểu của riêng mình. Phải có một người đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc mới có nào đó đứng lên làm khâu trung gian mới có giá trị pháp luật. Chúng tôi cho rằng cần phải thể hướng cách hiểu nội dung di chúc của hiểu điều luật trên theo cách hiểu thứ hai mới những người thừa kế theo cùng một hướng và phù hợp với nguyên tắc cơ bản của luật dân sự khi những người thừa kế không thể thống nhất là tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể. Vì vậy, điều luật trên cần sửa lại như sau: được cách hiểu thì chính người đó sẽ là người 1. Vợ chồng có thể thỏa thuận để sửa đổi, bổ có thẩm quyền xác định di sản thừa kế đó sẽ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. được chia theo pháp luật. Mặt khác, nếu quy 2. Vợ hoặc chồng có quyền tự mình thay định người giải thích di chúc là người thừa kế đổi phần di chúc liên quan đến phần tài sản sẽ rất bất hợp lí vì không phải người thừa kế của mình. nào cũng là người có đầy đủ năng lực hành vi 7. Giải thích di chúc dân sự. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần quy định Điều 676 BLDS đã quy định: người có thẩm quyền giải thích di chúc là cơ "Trong trường hợp nội dung di chúc không quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì chấp giữa những người thừa kế với nhau./. 82 T¹p chÝ luËt häc
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2