intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " 7 Lĩnh vực Cơ hội Nghiên cứu và Phát triển (EPRO) đối với KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

70
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để nâng cao khả năng phân tích và dự báo thị trường và tăng cường khả năng cạnh tranh của các mặt hàng chính của Việt Nam ở thị trường trong và ngoài nước đồng thời sử dụng khả năng phân tích dự báo đó làm cơ sở trong việc tư vấn chính sách ngành hàng cho Chính Phủ, bao gồm an ninh lương thực. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1. Để xây dựng bộ cơ sở dữ liệu và hệ thống đánh giá giám sát hiệu quả cho : thông tin thị trường, an ninh lương thực và chiến lược các ngành hành nông sản 2....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " 7 Lĩnh vực Cơ hội Nghiên cứu và Phát triển (EPRO) đối với KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH "

  1. XÂY DỰNG KHUNG ƯU TIÊN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP H ỘI THẢO TIỂU NGÀNH KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH NN BẢN THÔNG TIN VÀ DỮ LIỆU 7 Lĩnh vực Cơ hội Nghiên cứu và Phát triển (EPRO) đối với KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH EPRO 1: Nghiên cứu ngành hàng, phân tích tích thị trường, phân tích và dự báo chính sách EPRO 2: Tài nguyên thiên nhiên và quản lý môi trường nông thôn EPRO 3: Phát triển nghiên cứu, công nghệ và các hệ thống thực hiện chuyển giao đối với NN và PTNT EPRO 4: An sinh xã hội đối với người dân nông thôn và xoá đói giảm nghèo bền vững EPRO 5: Biến đổi khí hậu EPRO 6: Phát triển nông thôn EPRO 7: Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế và tiếp cận thị trường đối với thương mại nông nghiệp Việt Nam Tháng 07/2010
  2. EPRO 1: NGHIÊN CỨU NGÀNH HÀNG, PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG, PHÂN TÍCH VÀ DỰ BÁO CHÍNH SÁCH 1. XÁC ĐỊNH EPRO1 1.1 Mục tiêu quốc gia Để nâng cao khả năng phân tích và dự báo thị trường và tăng cường khả năng cạnh tranh của các mặt hàng chính của Việt Nam ở thị trường trong và ngoài nước đồng thời sử dụng khả năng phân tích dự báo đó làm cơ sở trong việc tư vấn chính sách ngành hàng cho Chính Phủ, bao gồm an ninh lương thực. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1. Để xây dựng bộ cơ sở dữ liệu và hệ thống đánh giá giám sát hiệu quả cho : thông tin thị trường, an ninh lương thực và chiến lược các ngành hành nông sản 2. Để thiết lập 1 nhóm chuyên gia về ngành hàng nông sản tiến hành phân tích và dự báo thị trường ngành hàng, phân tích chính sách của BNN và tư vấn chính quyền và các tổ chức kinh doanh ở địa phương. 3. Tiến hành phân tích sâu và thực hiện mô hình thay đổi thị trường ở tầm vĩ mô cả về ngắn hạn và dài hạn, giúp cho công tác dự báo và lập kế hoạch của Bộ NN&PTNT, các nhà chức trách địa phương và các tổ chức kinh doanh nông nghiệp. 4. Cung cấp thông tin và nhận định về kết quả phân tích ngành hàng kịp thời thông qua các diễn đàn thảo luận chính sách, hội thảo triển vọng ngành hàng, các ấn phẩm để hỗ trợ khu vực công và tư phát triển thị phần ổn định và có lợi nhuận. 1.3 Nội dung Các ưu tiên dành cho các sản phẩm trong nước và xuất khẩu như: gạo, cà phê, cao su, và thủy sản (cá ba sa, tôm). Ở quy mô nhỏ hơn và chủ yếu tập trung cho thị trường sản xuất lợn trong nước có thể đặt ở mức độ ưu tiên thấp hơn. 2. GIỚI THIỆU Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 73% dân số sống ở khu vực nông thôn. Những năm gần đây, được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà Nước, cùng với công cuộc đổi mới, mức sống của người dân nông thôn dần được cải thiện và tỉ lệ nghèo giảm. Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Gạo là lương thực chính được sản xuất tại Việt nam và mức sản xuất gạo tương ứng với thu nhập trang trại và phát triển nông thôn. Sản xuất gạo đóng vai trò quan trọng trong vấn đề an ninh lương thực của Việt Nam. Trong quá trình đổi mới, khu vực nông nghiệp đã tăng trên 4,5% hàng năm trong nhiều năm. Nông nghiệp Việt Nam đã chuyển sang sản xuất hàng hóa bằng cách khai thác triệt để các lợi thế các tài nguyên đa dạng sinh học. Lương thực, thủy sản, chăn nuôi, rau, quả và sản xuất cây công nghiệp đã tăng đáng kể. Sản xuất lương thực (bao gồm: thóc, ngô, sắn, và khoai lang) tăng hàng năm. Giai đoạn 1996- 2001, tổng sản lượng lương thực đã tăng từ 31,48 triệu tấn lên 39,43 triệu tấn (tương ứng với 5,05% / năm). Từ 2002-2006 sản lượng tăng mạnh hơn, từ 43,1 triệu tấn lên 1
  3. 48,9 triệu tấn (tương đương 2,69%/năm). Cùng thời gian này gia tăng sự cạnh tranh về sử dụng đất và nước giữa sản xuất lúa và cây công nghiệp hoặc các sử dụng khác do quá trình công nghiệp hóa tiếp tục diễn ra đối với nền kinh tế Việt Nam. Giai đoạn 2001-2007, hơn 500.000ha (1,2 triệu mẫu Anh) đất trang trại đã bị chuyển đổi thành các khu công nghiệp. Đến năm 2008, 125.000ha đất trồng lúa đã bị mất. Theo Bộ NN&PTNT tổng doanh thu xuất khẩu của khu vực nông nghiệp ước tính đạt 13,6 tỉ USD tính đến 10/2008, cao hơn 25,7% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó các sản phẩm nông nghiệp đạt tới 7,4 tỉ USD, tăng 42,5%; thủy sản đạt 3,8 tỉ USD, tăng 24,2%; sản phẩm lâm nghiệp đạt 2,46 tỉ USD, tăng 16,7%. Cũng trong thời gian đó, khu vực nông nghiệp có 5 sản phẩm trong 11 sản phẩm của cả nước có doanh thu hơn 1 tỉ USD ( như: thủy sản, gạo, sản phẩm nông nghiệp, cà phê và cao su). Tuy nhiên, các thị trường nông nghiệp đã phải đối mặt với nhiều thay đổi khôn lường trong năm 2008. Trong suốt quý II và III, giá lương thực thế giới tăng mạnh và chỉ dừng lại khi ở giá đỉnh- tăng 300% so với giá lương thực cùng kỳ năm 2007 và sau đó giảm xuống. Ví dụ như, cuối tháng 4 năm 2008, giá gạo xuất khẩu đạt mức cao ở ngưỡng 800đôla/tấn kéo theo giá gạo trong nước tăng mạnh, xấp xỉ mức 20.000VND/kg (tương đương 1,3đôla/kg). Trong năm 2009, giá gạo lại giảm. Các sản phẩm thịt và các sản phẩm công nghiệp như cao su cũng chịu hoàn cảnh tương tự : đầu năm 2009, giá cao su (1.500USD/tấn) đã giảm gần như ½ so với giá đỉnh điểm trong năm 2008 (2.900USD/tấn). Việc bình ổn giá lương thực là rất quan trọng do việc giá lương thực tăng nhanh sẽ làm giảm sức mua. Năm 2007, giá lương thực tăng 14,6%. Đầu năm 2008, giá lương thực tăng chóng mặt, dẫn đến việc chi dùng cho lương thực chiếm 43% tổng chi tiêu của hộ gia đình. Trong các nông sản của Việt Nam, gạo chiếm 15%, thủy sản chiếm 30%, cà phê và cao su chiếm tới 80% tổng doanh thu xuất khẩu hàng năm. Song song với việc đáp ứng nhu cầu trong nước, xuất khẩu nông nghiệp cũng tăng nhanh cả về chất lượng và giá trị. Trong suốt 2 thập kỷ qua, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông nghiệp lớn nhất trên thế giới bao gồm: gạo, cà phê, hạt điều, tiêu, cao su, trà, thủy sản,...Các sản phẩm xuất khẩu nông –lâm nghiệp chiếm từ 30-35% tổng sản xuất nông nghiệp. Tỷ lệ xuất khẩu theo từng ngành cụ thể: khoảng 20% cho gạo, 95% cho cà phê, cao su 85%, hạt điều 90%, trà 80% và hạt tiêu 95%. Một số các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đã khẳng định vị trí dẫn đầu trên thị trường thế giới (như: gạo, cà phê, hạt điều, tiêu, và thủy sản). Các thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đã được mở rộng, bên cạnh các thị trường truyền thống như: Trung Quốc, ASEAN, Nga, các quốc gia Đông Âu, Việt Nam đã bước đầu tiến vào một số thị trường tiềm năng như: Trung Đông, EU, Hoa Kỳ và Châu Phi. Việt Nam đang chuyển đổi nhanh sang nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế toàn cầu. Cung- cầu đối với nông sản phụ thuộc hầu hết vào sức mạnh thị trường chứ không phụ thuộc vào quyết định áp đặt từ trên xuống như thời kỳ kinh tế nhà nước tập trung. Sự chuyển đổi từ lập kế hoạch theo mục tiêu sản xuất tập trung sang theo nhu cầu của các nhà sản xuất, các nhà máy chế biến và các nhà xuất khẩu dựa trên các cơ hội thị trường sẽ mất nhiều thời gian, nhưng nếu không có những dự báo đáng tin cậy thì quá trình chuyển đổi này khó có thể diễn ra. Do đó, việc tiến hành các nghiên cứu về phân tích và dự báo thị trường là hết sức cần thiết đồng thời tạo ra các lợi thế so sánh, sau đó cung cấp hướng dẫn và tạo động lực cho năng lực thị trường nhằm tái cơ cấu sản xuất và hệ thống thị trường dựa trên lợi thế so sánh. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều thách thức, đặc biệt là việc xuất hiện dư cung trong nhiều mặt hàng nông nghiệp như: cà 2
  4. phê, các sản phẩm từ sữa, rau, mía,…Người nông dân rất dễ bị tổn thương do sự biến đổi khôn lường của giá cả gây ra bởi dư cung hoặc chất lượng kém. Bên cạnh đó, thiếu vắng những dự báo thị trường chính xác khiến họ không thể điều chỉnh hệ thống sản xuất nhằm giảm thiểu tối đa nguy cơ hàng hóa kém chất lượng bị trả lại và tận dụng nguồn vốn việc nâng cao cơ hội tiếp cận thị trường. Nhiều mặt hàng (như: các sản phẩm thủy sản: tôm, cá ba sa, gạo, cà phê, tiêu, và hạt điều,…) không thể dự báo thị trường cầu, do vậy có thể phải đối mặt với tình trạng dư thừa hoặc thiếu sản phẩm. Nông dân thường dựa trên các tín hiệu thị trường ngắn hạn, tự chuyển đổi các loại hàng hóa nên đã gây ra những tổn thất không chỉ cho chính họ mà còn đối với cả nền kinh tế. Kết quả là, các nhà đầu tư gặp khó khăn và bất trắc trong việc đầu tư vào các nhà máy chế biến, cụ thể như trường hợp nhà máy chế biến chè, mía, sắn và các sản phẩm sữa. Kinh nghiệm từ các quốc gia có nền nông nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Úc và Nhật Bản đã cung cấp cho chúng ta những bài học quý báu. Hoa Kỳ có Cục nghiên cứu kinh tế (ERS) thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, Úc có Ban Kinh tế và nông nghiệp (ABARE) chịu sự quản lý trực tiếp của Chính Phủ với hàng ngàn nhân viên. Đặc biệt ABARE có tới 300 chuyên gia làm việc trong lĩnh vực quản lý và kiểm soát chất lượng sản phẩm. Các nước như Hoa Kỳ, EU và Australia tập trung vào vấn đề kiểm soát chất lượng và nâng cao giá trị gia tăng của các mặt hàng nông sản hơn là thúc đẩy cung. Việc dự báo cũng bao gồm dự đoán tổng sản lượng mùa vụ, dựa trên các số liệu đáng tin cậy từ thực tế sản xuất. Các số liệu thu thập từ trang trại có thể cung cấp thông tin của ngành nông nghiệp như: chi phí đầu vào, đầu ra; lợi nhuận, mức đầu tư;…). Kết quả phân tích các dữ liệu và thông tin trên có thể cung cấp thông tin đầu vào nhằm tư vấn chính sách cho lĩnh vực nông nghiệp bao gồm các chính sách liên quan đến an ninh lương thực ở cấp tỉnh và cấp trung ương. Kế hoạch 5 năm phát triển ngành nông nghiệp nông thôn (2006-2010) đã xác định kế hoạch hành động với sự tập trung phát triển cây trồng hàng hóa , sản phẩm chăn nuôi , cây lâm nghiệp có giá trị cao theo hướng cải thiện năng suất và sản lượng…. Để thúc đẩy phát triển các ngành hàng đó , kế hoạch cũng chỉ rõ định hướng mức tăng trưởng, sản lượng, giá trị gia tăng, thị phần của các ngành hàng nông nghiệp…Đây được coi là nhiệm vụ then chốt trong kế hoạch hành động của lĩnh vực nông nghiệp. Do đó, có thể nói rằng phát triển hàng hóa với các giải pháp chủ chốt của cải cách chính sách, thể chế, tổ chức và nâng cao đầu tư công là những nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của ngành. Dự án này rất phù hợp với mục tiêu đã đặt ra ở trên. 3. MÔI TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG 3.1 Môi trường chính trị và pháp lý Bên cạnh Nghị định số 7 ban hành tại cuộc họp của Ban Chấp Hành TƯ tháng 7/2008 với mục tiêu phát triển toàn diện ngàng nông nghiệp theo định hướng hiện đại, bền vững và sản xuất hàng hóa hàng loạt, Việt Nam vẫn chưa cho ra đời các chính sách hoặc chiến lược toàn diện cho một mặt hàng nông sản cụ thể và cho các hoạt động đầu tư vào các mặt hàng liên quan đến thị trường tương lai, ổn định và bền vững. Tác động chính sách thường chỉ thông qua các chính sách liên quan có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới ngành hàng nông nghiêp. Có 3 nhóm chính sách chính tập trung vào hỗ trợ sản xuất; hỗ trợ đất đai và thương mại; các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp như: khoa học công nghệ, tín dụng và khuyến nông. Phần lớn văn bản pháp quy đều liên quan đến các nghĩa vụ của Việt Nam đối với các thỏa thuận quốc tế. Các thỏa thuận này hết sức quan trọng, tuy nhiên chúng có liên quan đến khả năng thương mại (xuất khẩu và nhập khẩu) hơn là những mặt hàng kinh doanh và phương thức trao quyền cho các nhà sản xuất, chế biến và 3
  5. xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam để có thể cạnh tranh nhưng vẫn có lãi. Các ví dụ liên quan đến những chính sách bao gồm: Các chính sách liên quan đến hỗ trợ sản xuất Theo nghị định số 225/1999/QD-TTg về giống cây nông - lâm nghiệp và chăn nuôi giai đoạn 2001-2005; và nghị định số 17/2006/QD-TTg ngày 20/1/2006 về việc tiếp tục thực hiện nghị định 225/1999/QD-TTg đến 2010. Nghị định số 129/2003/ND-CP (2003) liên quan đến miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp và mới nhất là nghị định 115, 2008 cho phép bãi bỏ thủy lợi phí. Quyết định số 391/QD-TTg (tháng 4/2008) về rà soát, kiểm tra quản lý và sử dụng đất trong 5 năm, cho đến 2010 , tập trung chủ yếu vào diện tích trồng lúa. An ninh lương thực quốc gia của Việt Nam và tầm nhìn đến 2030 (đang chờ xử lý) Nghị Định của Chính Phủ về quản lý đất trồng lúa (đang chờ xử lý ) Chính sách đất Luật Đất đai năm 2003 quy định đất thuộc quyền sở hữu của toàn dân và được nhà nước đại diện với 5 nghĩa vụ chính : (i) Xây dựng quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất; (ii) quyết định hạn ngạch và thời hạn sử dụng đất; (iii) cấp giấy xác nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng; (iv) thu thuế sử dụng đất; và (v) xác định giá đất. Người sử dụng đất được giao đất để sử dụng lâu dài và ổn định đồng thời có 7 quyền về sử dụng đất: chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, cho thừa kế, thế chấp, tặng, và sử dụng đất để góp vốn kinh doanh. Ngoài ra, người sử dụng đất phải: (i) trồng trọt luân canh hợp lý; (ii) quan tâm duy trì độ mầu mỡ của đất; (iii) nộp thuế và các khoản phí về sử dụng đất nông nghiệp. Các khoản thuế liên quan đến đất nông nghiệp của Việt Nam gồm: (i) thuế sử dụng đất nông nghiệp, (ii) thuế chuyển đổi quyền sử dụng đất, (iii) thuế đất sử dụng quá thời hạn và giới hạn đất sử dụng. Năm 2003, Chính Phủ đã ban hành quy định hợp pháp về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho hầu hết nông dân đến 2010. Đặc biệt, các chính sách đất đai dưới đây đều liên quan đến sản xuất nông nghiệp: Nghị định 09/2000/NQ-CP của Chính Phủ ban hành tháng 6 năm quyết định bình ổn hóa 4 triệu hecta diện tích trồng lúa được tưới và các loại đất trồng lúa không có hiệu quả (so với mức trung bình của cả nước) được phép chuyển đổi sang trồng các loại hoa màu khác có hiệu quả hơn. Nghị định số 03/2000/NQ-CP của Chính Phủ ngày 2/2/2000 về kinh tế trang trại thúc đẩy các chính sách về giao đất , cho thuê, chuyển đổi quyền sử dụng đất nhằm khuyến khích tập trung đất canh tác, phát triển nông nghiệp theo hướng quy mô trang trại, tạo điều kiện thuận lợi phát triển tư liệu sản xuất cho các ngành hàng tập trung. Các chính sách thương mại Nhằm đáp ứng các yêu cầu của Hiệp định Nông nghiệp (AoA), Chính Phủ Việt Nam đã ban hành các chính sách dưới đây với mục tiêu hình thành 1 nguyên tắc cụ thể về thương mại nông nghiệp và các chính sách hỗ trợ, đồng thời tránh sử dụng các chính sách gây tổn hại đến thương mại toàn cầu của các mặt hàng nông sản. Quyết định số 1042/ QD-BMT được Bộ Thương Mại ban hành ngày 29/6/2007 về việc xóa bỏ các khoản thưởng cho các thành tích xuất khẩu. Quyết định này là để thực hiện các cam kết của Việt Nam với WTO về việc dỡ bỏ hỗ trợ xuất khẩu. 4
  6. Bộ luật số 20/2004/PL-UBTVQH 11 ngày 29/4/2004 về việc chống phá giá các mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam. Quyết định số 02/2008/ QD-BCT ngày 21/1/2008 về kế hoạch phát triển công nghiệp máy móc cho ngành nông nghiệp giai đoạn 2006-2015 với tầm nhìn đến 2020 Quyết định số 104/2008/QD-TTg ngày 21/7/2008 về thuế quan xuất khẩu áp dụng cho gạo và phân bón. Nghị định số 39/2006/QD-BTC ngày 28/7/2006 về áp dụng thuế đối với 1 số mặt hàng xuất nhập khẩu. Nghị định này có đề cập tới tất cả các mặt hàng có đánh thuế xuất, trong đó chỉ bao gồm một vài mặt hàng nông sản đề cập trong Hiệp định Nông nghiệp AoA Hiệp định vệ sinh và kiểm dịch động, thực vật (SPS): Các tổ chức quốc tế có liên quan hoặc các thành viên của WTO chịu trách nhiệm xác định các biện pháp SPS và Việt Nam phải tuân thủ đáp ứng yêu cầu SPS của các quốc gia nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Các văn bản pháp luật và các chính sách dưới đây đã được ban hành: Quyết định số 04/2008/QD-BNN ngày 10/1/2008 về các chức năng và hợp tác với cơ quan đầu mối SPS của Việt Nam. Luật số 12/2003/PL-UBTVQH 11 ngày 26/7/2003 về các biện pháp vệ sinh thực phẩm. Nghị định số 149/2007/QD-TTg ngày 10/9/2007 về việc thực hiện kế hoạch quốc gia về các biện pháp vệ sinh an toàn. Luật số 18/2004/PL-UBTVQH 11 ngày 29/4/2004 về dich vụ thú y. Nghị định số 33/2005/ND-CP ngày 15/3/2005 về việc thực hiện luật số 18/2004/PL- UBTVQH 11. Luật số 36/2001/Pl-UBTVQH 10 ngày 25/7/2001 về việc thanh tra và bảo vệ thực vật. Hiệp định rào cản kỹ thuật thương mại (TBT): Hiệp định TBT là rất phù hợp đối với các quy định về kỹ thuật về mọi đặc tính cụ thể của 1 sản phẩm, bao gồm: kích cỡ, thiết kế, vận hành, đóng gói và nhãn mác. Quyết định số 0975/ QD-BTC của Bộ Tài Chính ban hành ngày 15/2/2008 phê duyệt dự án hỗ trợ kỹ thuật sau khi gia nhập WTO giai đoạn 1. Dự án nhằm đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong việc thực hiện cam kết WTO của các cơ quan về phân phối, kinh doanh, kiểm tra, quản lý hàng hóa. Hiệp định Thương mại liên quan tới các lĩnh vực của Quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS): hiệp định này bắt buộc các thành viên có trách nhiệm bảo vệ sự sáng tạo của sản phẩm và quy trình sản xuất. Hiệp định bao gồm tất cả các quyền sở hữu trí tuệ với đầy đủ công cụ để bảo vệ các tác giả, các nhà đầu tư, nhãn hiệu và tên các sản phẩm tránh bị bắt chước hoặc tái sản xuất. Các giống cây trồng và các chỉ số địa lý liên quan đến nông nghiệp cũng được đề cập trong hiệp định này. Các điều khoản dưới đây buộc các thành viên WTO áp dụng quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm là các giống cây trồng và các chỉ số địa lý: Luật số 50/ 2006 ngày 29/11/2006 về quyền sở hữu trí tuệ Nghị định số 104/2006/ND-CP ngày 22/9/2006 về các quyền sở hữu trí tuệ đối với các giống cây trồng, rượu vang và các đồ uống có cồn Nghị định số 54/2000/ND- CP ngày 13/10/2000 về bí quyết thương mại và địa lý 5
  7. Ngoài các hiệp định WTO, Việt Nam cũng ký kết một số hiệp định trong khu vực có khả năng ảnh hưởng tới nông nghiệp như thỏa thuận AFTA/CEPT, hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, tự do thương mại với TQ (AFTA-China), và tự do thương mại với Hàn Quốc (AFTA- Korea). Tất cả các hiệp định này về cơ bản tập trung vào việc giảm thuế nhập khẩu và các hàng rào thương mại cũng như phi thương mại, buộc tất cả các thành viên phải mở cửa thị trường đối với các hàng hóa nhập khẩu. Các văn bản tổng quát cấp trung ương liên quan đến các sản phẩm nông nghiệp và xuất khẩu Quyết định số 69/2007/QD-TTg được Thủ Tướng ban hành ngày 18/5/2007 về kế hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến nông nông-lâm sản đến 2010 và tầm nhìn 2020 Quyết định số 27/2007/QD-BNN của Bộ NN và PTNT ban hành ngày 12/4/2007 về các quy định quản lý kế hoạch quốc gia về xây dựng và thực hiện công nghệ sinh học nông nghiệp đến năm 2020 Luật số 05/2007/QH12 ngày 21/11/2007 về chất lượng sản phẩm. Luật này bao gồm các quy định về chất lượng sản phẩm xuất khẩu chung và buộc tất cả các nhà xuất khẩu phải tuân thủ theo quy định của luật cũng như các cam kết quốc tế và khu vực khác. Nghị định số 151/2006/ND-CP ngày 20/12/2007 về việc điều tiết các nguồn tín dụng quốc gia cho đầu tư và xuất khẩu. Quyết định số 08/2007/QD-BTC ngày 2/3/2007 về tầm quan trọng của tín dụng cho việc đầu tư và xuất khẩu. Nhìn chung, ngoài các ảnh hưởng tích cực, các chính sách liên quan đến mặt hàng nông nghiệp đều mang tính tạm thời và bị động, thường chỉ được ban hành trong các giai đoạn khủng hoảng (khủng hoảng lúa gạo, cà phê, an toàn thực phẩm, thức ăn vật nuôi, vv...). Các chính sách về hàng hóa đều chủ yếu hỗ trợ cho sản xuất, và các quy định chi tiết liên quan tới các thỏa thuận quốc tế Việt Nam tham gia có ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận thị trường toàn cầu, hỗ trợ nông nghiệp, các yêu cầu về chất lượng sản phẩm, vệ sinh và kiểm dịch động, thực vật. Có ít chính sách toàn diện theo một chuỗi hàng hóa cụ thể: lập kế hoạch, dự báo đầu tư, tổ chức sản xuất, tư liệu đầu vào, sản xuất, chế biến, thương mại, kiểm soát chất lượng, quản lý rủi ro và hỗ trợ cho người tiêu dùng. Quá trình xây dựng chính sách là quá trình có tác động ngược lại và thường không dựa trên cơ sở khoa học và không tham khảo ý kiến của nhiều bên liên quan như các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, khu vực tư nhân, nông dân,....Kết quả là, dự báo về thị trường ngành hàng nông sản để có cơ sở xây dựng chính sách là một nội dung hết sức cần thiết. 3.2. Môi trường kinh tế Việc lập kế hoạch được dựa trên diện tích sản xuất và năng suất với trong tâm tạo cơ cấu ngành bất cân đối rủi ro xuất khẩu. Nông dân được khuyến khích đầu tư vào các mặt hàng xuất khẩu mạnh như cà phê, hạt tiêu, điều, gạo và tôm hùm. Các ngành hàng yếu hơn như chăn nuôi, gia cầm, các sản phẩm lâm nghiệp với sản lượng lớn và thường không đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước dường như không nhận được sự hỗ trợ đầy đủ. Đầu tư vào các mặt hàng xuất khẩu mạnh thường rất lớn mà không quan tâm đầy đủ đến thị trường. Cung ứng, thường là chất lượng thấp, nhanh chóng vượt quá cầu đối với một số loại có dư sản phẩm như: cà phê, gạo, cá ba sa trong những năm gần đây đã ảnh hưởng đáng kể đối với đời sống của người sản xuất. Cũng trong thời điểm này, đầu tư và lợi thế cạnh tranh tại các sản phẩm/ lĩnh vực định hướng tiêu thụ 6
  8. nội địa bị giảm, làm tăng nguy cơ rủi ro mất thị trường trong nước do phải cạnh tranh gay gắt với các mặt hàng nhập khẩu. Nông dân là những người yếu thế nhất trong chuỗi giá trị. So với các bên liên quan khác trong thị trường, nông dân hưởng lợi ít nhất từ chuỗi giá trị. Không có chính sách nào phù hợp mặc dù tất cả các chính sách hiện hành đều ưu tiên cho nông dân. Một số chính sách cung cấp hỗ trợ vật chất hơn là hỗ trợ về mặt phương pháp để khuyến khích nông dân. Giá trị gia tăng từ chuỗi giá trị hầu hết là từ quá trình chế biến, đóng gói, quảng cáo và các chiến dịch tiếp thị trong khi phần lớn nông dân Việt Nam chỉ có thể tiếp cận với sản xuất thô. Điều này đặc biệt đúng đối với các nông dân sản xuất qui mô nhỏ hay những người sống ở khu vực vùng sâu vùng xa. 3.3. Môi trường xã hội Việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang mục đích công nghiệp có ảnh hưởng tới đói nghèo và lao động vì các gia đình nông dân bắt buộc phải tìm kiếm các việc làm phi nông nghiệp. Theo ước tính của Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã hội, trung bình 1 hộ nông dân có 1,5 lao động bị thất nghiệp do đất sản xuất bị thu hồi trong khi đó phần lớn những người dân này đều không được học hành và hướng nghiệp đầy đủ Các quyết định của nông dân về hệ thống nông nghiệp họ sử dụng cũng như kết hợp sx các sản phẩm nông nghiệp thì bị giới hạn bởi việc qui hoạch sử dụng đất cho những cây trồng cụ thể ví dụ như lúa. Trong khi sản xuất lúa gạo có thể đảm bảo an ninh lương thực, nó cũng gây ảnh hưởng đáng kể tới thu nhập của hộ nông dân vì họ không có khả năng chuyển sang các hệ thống sản xuất có giá trị cao hơn. Việc chạy mô hình sẽ xác định tác động đối với phân bổ thu nhập của sử dụng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất cũng như tự do hóa thương mại ở phạm vi ngành và khu vực và sẽ giúp xác định các nhóm yếu thế và xây dựng chính sách phù hợp để có thể giúp đỡ họ. Điều đó cũng giúp Chính Phủ Việt Nam xác định rõ các vướng mắc, sau đó lựa chọn có mục đích các chính sách phúc lợi xã hội nhằm tránh lãng phí đầu tư vào các lĩnh vực không hiệu quả. 4. CÁC THÔNG TIN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN (R&D) 4.1. Các lĩnh vực nghiên cứu chính Nghiên cứu về cung-cầu của ngành hàng nông sản Nghiên cứu về phương pháp cung –cầu cho ngành lúa gạo mô tả cách áp dụng hệ thống thông tin chỉ dẫn địa lý (GIS) và mô hình vào phân tích sự cân bằng của cung-cầu của ngành lúa gạo cho 7 vùng sinh thái của Việt Nam. Kết quả đầu ra quan trọng bao gồm (i) xác định các khu vực có lợi thế cạnh tranh về sản xuất lúa gạo; (ii) các phương pháp cải thiện khả năng ước tính sản lượng gạo, tổng sản lượng cũng như dự báo cầu cho mỗi vùng sinh thái bao gồm một số tỉnh; (iii) ước tính với diện tích trồng lúa là 4 triệu hecta, so với mức dự tính nhu cầu trong nước của Việt Nam thì Việt Nam vẫn có thể duy trì xuất khẩu từ 2-4 triệu tấn mỗi năm với giá thành giảm 20%, do đó lượng xuất khẩu sẽ đạt gần 2 triệu tấn mỗi năm; (iv) nhu cầu của hộ về gạo trong năm 2010 với tốc độ đô thị hóa là 33% là khoảng 13,8 triệu tấn. Sự biến đổi giá gạo sẽ làm tăng hoặc giám khối lượng tiêu thụ gạo khoảng 1 triệu tấn. Các xu hướng phát triển chăn nuôi ở Việt Nam đều bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn định và giá thịt lên cao, giá thức ăn gia súc tăng, chi phí chăn nuôi tăng, và dịch vụ thú y kém hiệu quả. Đầu ra bị hạn chế bởi thu nhập thấp, chất lượng thịt không cao, hệ thống tiêu chuẩn chất lượng không hoàn chỉnh, thiếu thông tin, và thiếu hệ thống phân phối cho người tiêu dùng. 7
  9. Vai trò của Chính Phủ trong việc tạo hành lang pháp lý, quản lý tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm là những vấn đề rất quan trọng và cần thiết phải được tăng cường để hỗ trợ, thúc đẩy ngành chăn nuôi. Tiêu dùng cà phê trong nước, sử dụng bộ số liệu điều tra dựa trên mức sống cho thấy nhu cầu cà phê tăng, đặc biệt là ở khu vực thành phố. Điều tra về khả năng cạnh tranh Năm 2002, Nielsen3 đã tiến hành một cuộc nghiên cứu về ngành gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới, tổng hợp sản lượng, cơ cấu và xu hướng thương mại của thị trường gạo thế giới đồng thời đánh giá các chính sách hiện có áp dụng cho ngành lúa gạo, đặc biệt là các chính sách liên quan đến tiếp cận thị trường, trợ cấp xuất khẩu, sử dụng sản phẩm biến đổi gen và hỗ trợ trong nước của các quốc gia khác. Nghiên cứu về sức cạnh tranh của ngành công nghiệp cà phê Robusta ở Việt Nam đã đưa ra kết luận rằng sức cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam trong những năm qua là dựa vào giá sức lao động thấp, sản lượng cao do nhiều phân bón và tưới tiêu, các chính sách phát triển cơ sở hạ tầng cho tất cả các bên liên quan đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà phê. Những xu hướng gần đây trong thị trường cà phê đã cho thấy khó có thể duy trì sức cạnh tranh cao của cà phê Việt Nam do xu hướng của thị trường cà phê thế giới là chất lượng cao, sản phẩm hữu cơ và sạch cùng với sự quan tâm cao đối với GAP và các tác động của môi trường. Nghiên cứu về tác động của hội nhập thương mại thế giới Nielsen (2003)5 đã đưa ra 3 chính sách thương mại có ảnh hưởng trực tiếp tới ngành lúa gạo của Việt Nam: (i) dỡ bỏ hạn ngạch xuất nhập khẩu phân bón cho lúa gạo có xu hướng tăng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế. (ii) Chính sách đất đai và giao đất- là những công cụ hạn chế thay đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, tạo khó khăn cho các hoạt động sản xuất, xuất khẩu và đa dạng sản phẩm nông nghiệp thông qua điều chỉnh việc giao đất nông nghiệp và điều đó sẽ giảm lợi thế so sánh và lợi ích kinh tế xã hội của các đối tác khác nhau. (iii) Hiệp định thương mại ưu đãi với EU- các đối tác thương mại của Việt nam dường như không có lợi cho ngành sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam vì họ đặt Việt Nam vào vị trí sân chơi cạnh tranh đối với tất cả các quốc gia xuất khẩu vào thị trường EU. Một nghiên cứu về tự do hóa thương mại trong ngành công nghiệp chăn nuôi áp dụng mô hình cân bằng chung để đánh giá tác động của tự do hóa thương mại đã cho thấy (i) nhìn chung, tự do hóa thương mại không có ảnh hưởng tiêu cực đối với ngành chăn nuôi của Việt Nam do lượng thịt được mua bán trên thị trường thế giới thấp; (ii) những ảnh hưởng của tự do hóa thương mại quốc tế như sốc về đơn giá dường như chỉ có ảnh hưởng nhẹ tới Việt Nam do Việt Nam là nước tự cung tự cấp thịt lợn và gia cầm với một lượng tiêu thụ thịt bò khá thấp; (iii) việc miễn, giảm thuế cho các nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc trong quá trình phát triển của ngành công nghiệp, đặc biệt là các sự tăng trưởng của ngành chăn nuôi lợn và gia cầm mang lại lợi ích cho ngành công nghiệp chăn nuôi trong nước. Một trong những tác động tiêu cực của tự do hóa thương mại và gia tăng tính lệ thuộc vào xuất khẩu là do biến động về giá cả trong nước vì tính không ổn định của giá cả không những gây thiệt hại cho nông dân đồng thời ảnh hưởng tới các ngành công nghiệp chế biến và các bạn hàng. Giá cà phê đạt đến đỉnh điểm trong lịch sử vào năm 1990, gây ra hiện tượng sản xuất dư thừa tràn lan, do đó làm giá cà phê giảm mạnh. Kết quả là sinh kế của người trồng cà 8
  10. phê bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là là ở tỉnh Daklak – khu vực trồng cà phê lớn nhất của Việt Nam. Giá cả trên thế giới thấp và sự tiến triển của toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại, người nông dân đặc biệt là nông dân nghèo là những người dễ bị tổn thương nhất. Nghiên cứu chuỗi giá trị ngành hàng Kết luận từ một nghiên cứu toàn diện về chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo Việt Nam cho thấy (i) (i) Việt Nam đang phải gánh chịu thiệt hại do thiếu môi trường cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách để tăng cường an ninh lương thực, giảm nghèo nông thôn và tăng thu nhập từ xuất khẩu; (ii) các phương pháp tạo ra giá trị cho ngành lúa gạo gồm: tăng năng suất, đặc biệt là ở khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa, đồng thời tăng sản xuất và xuất khẩu các loại gạo đặc biệt có chất lượng cao. Vai trò của khu vực nhà nước trong việc đầu tư trực tiếp nhằm nâng cao sản lượng chỉ nên giới hạn trong việc cung cấp tưới tiêu, nâng cấp cơ sở hạ tầng và tăng cường xây dựng chính sách. Khu vực tư nhân cần phát triển các mặt hàng đặc sản và các thị trường có giá trị cao. Ngoài ra, việc đầu tư vào với ngành lúa gạo cũng nên kết hợp với các chính sách đa dạng cây trồng nhằm giả quyết vấn đề nghèo ở nông thôn. Một nghiên cứu toàn diện về các bên liên quan trong thị trường chăn nuôi như: người chăn nuôi, người kinh doanh thức ăn chăn nuôi, người chế biến, người kinh doanh thịt, người chế biến thịt, người tiêu dùng, người bán lẻ và các cơ quan thú y đã phân tích nhu cầu thịt và tính toán biến động giá ở thị trường Hà Nội và Hồ Chí Minh. Nghiên cứu về dự báo cung ngành hàng Một nghiên cứu về dự báo cung dài hạn của 5 vùng trồng cà phê chính ở Việt Nam có sử dụng mô hình của Vintage và phân tích các tác động của nhiều yếu tố (giá cà phê, giá đầu vào, tuổi cây, sản lượng,....) liên quan đến hoạt động cung cấp cà phê. Nghiên cứu đã đưa ra những dự đoán chi tiết về việc cung cấp cà phê của mỗi vùng ở mỗi khu vực nghiên cứu. 4.2. Các vấn đề chính Thiếu nguồn dữ liệu (dữ liệu và hình ảnh) để phân tích thị trường đầy đủ theo chuỗi thời gian và thường xuyên cập nhật. Mặc dù đã có khá nhiều nguồn thông tin thị trường nhưng các nguồn thông tin này chỉ được thực hiện trong khuôn khổ các dự án, do vậy không thể duy trì tính ổn định lâu dài và các đơn vị nghiên cứu không có cơ chế để trao đổi và sử dụng thông tin hiệu quả. Thông tin thị trường đơn thuần là thông tin về giá- chủ yếu là giá bán lẻ, trong khi các thông tin quan trọng khác để phân tích thị trường như: sự khác biệt thị trường, lợi thế so sánh, các xu hướng thị trường và các cơ hội tương lai thường dễ tìm nhưng hiếm khi được đưa vào nghiên cứu ngành hàng. Các thông tin thu thập được không đáp ứng đầy đủ yêu cầu nghiên cứu thị trường ngành hàng, đặc biệt là các thông tin cần thiết để đánh giá cung- cầu của các loại hàng hóa. Tính kịp thời của thông tin về ngành hàng chiến lược được thu thập theo hệ thống từ trên xuống của Tổng Cục Thống Kê (GSO) cho thấy dự báo về sản lượng cây trồng thường không có cho đến thời điểm sau thu hoạch và thông tin này không giúp các nhà sản xuất, chế biến và xuất khẩu đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn. Việt Nam vẫn chưa có khả năng xây dựng cơ chế cũng như kế hoạch phát triển dựa trên nghiên cứu về lợi thế cạnh tranh và so sánh của các ngành hàng chính trong các vùng cũng như giữa Việt Nam và các quốc gia khác. 9
  11. Nghiên cứu phân tích thị trường đối với một số ngành hàng chiến lược đã có nhưng chưa toàn diện và chưa cụ thể đối với thị trường quốc tế, thị hiếu của các thị trường tiềm năng và sức cạnh tranh của hàng hóa Việt,...Điều này hoàn toàn đúng đối với các nghiên cứu thực hiện trong khuôn khổ dự án, không mang tính cập nhật liên tục và có hệ thống. Triển vọng thị trường cho các ngành hàng nông sản của Việt Nam hầu như vẫn chưa được các nhà nghiên cứu chú ý đến. Mặc dù Viện Chiến Lược Chính sách Nông nghiệp và Phát Triển nông thôn (IPSARD) đã tiến hành một số nghiên cứu nhằm phân dự báo kinh tế ngành hàng cà phê, một số nghiên cứu đã áp dụng mô hình cân bằng, trong đó có 1 phần cho ngành lúa gạo và 1 phần cho chăn nuôi gia súc; các nghiên cứu này chỉ đơn thuần mang tính thực nghiệm và sơ khai. Các ngành chiến lược khác vẫn chưa có những nghiên cứu tương tự. Để tiến hành các nghiên cứu tương tự cho các ngành hàng khác, cần phải có một hệ thống các phương pháp nghiên cứu chuẩn hóa áp dụng đồng thời cho tất cả các ngành. Tuy nhiên hệ thống chuẩn hóa này vẫn chưa được hình thành. Các chuyên gia trong lĩnh vực của chúng ta không thực sự giỏi về các phương pháp nghiên cứu hiện đại và ở trình độ cao nhằm phục vụ cho phân tích và dự báo thị trường; ngoài ra, các chuyên gia này đến từ các cơ quan nghiên cứu khác nhau, vấn chưa được tập trung thành một tổ chức thống nhất và hiệu quả. Do vậy, nghiên cứu thị trường nói chúng về các ngành hàng chiến lược của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về chất lượng và tính thời sự của các sản phẩm để tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách và các doanh nghiệp kinh doanh nông sản. Tổ chức ngành trên quy mô lớn của từng ngành hàng chiến lược tới nay vẫn được coi là một khái niệm mới đối với Việt Nam. Một cơ chế thống nhất cho 1 ngành hàng sẽ mang lại sự hợp tác tốt nhất để nắm bắt thời cơ và giảm tối đa chi phí giữa các bên liên quan trong chuỗi giá trị của ngành hàng, đã tự khẳng định rằng đây là một cách hiệu quả được áp dụng ở nhiều quốc gia. Cụ thể, nếu một tổ chức ngành hàng được thiết lập, nó sẽ thực hiện các chức năng sau: (i) quản lý ngành; (ii) tổ chức nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao năng lực; (iii) đề xuất chính sách; và (iv) tư vấn đầu tư,… Không có thông tin kịp thời cho nông dân, cán bộ khuyến nông và các bên liên quan khác để họ có thể xây dựng kế hoạch và hoạt động đầu tư nhằm tăng thu nhập và lợi nhuận. Không có thông tin về “sức khỏe/khả năng” của mảng sx nông nghiệp quy mô nhỏ. Có thể thu thập thông tin và dữ liệu hàng ngày thông qua xây dựng hệ thống giám sát cho các ngành hàng quan trọng nhất. Những thông tin như vậy có thể giúp hỗ trợ xây dựng chính sách nông nghiệp và nông thôn để giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội quan trọng trong việc ổn định nông hộ. Yếu kém trong việc lập kế hoạch, thông tin thị trường, kiểm soát chất lượng, quản lý an toàn thực phẩm và cây trồng nông nghiệp, bình ổn giá đầu vào, đầu ra,… đã phản ánh năng lực yếu kém trong quản lý, xây dựng, thực hiện các chính sách ngành hàng nông sản. Tuy nhiên, khả năng nghiên cứu chính sách nông nghiệp, việc thực hiện và quản lý vẫn còn yếu. Cần phải vạch ra những chương trình ở quy mô rộng và lâu dài để đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sản xuất. Vì vậy, sự hỗ trợ từ dự án này là hết sức quý giá và cần thiết; tuy nhiên, đây mới chỉ là bước sơ khai. Cần có những nỗ lực và tiếp tục đầu tư để đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trường. 10
  12. Các đơn vị thực hiện nghiên cứu Hiện nay, Bộ NN&PTNT vẫn chưa có bất kỳ một hệ thống tổ chức hay quy trình nào để thực hiện phân tích cập nhật các thị trường ngàng hàng. Nghiên cứu ngành hàng và thông tin thường liên quan đến các dự án, có tính chất ngắn hạn và thiếu khung tổ chức. Xây dựng và phát triển các kỹ năng này đòi hỏi nhiều thời gian và cần sự hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế. Hiện nay, IPSARD là một trong số ít các tổ chức đang tiến hành nghiên cứu chính sách về các ngành hàng nông sản của Việt Nam. Các nhà nghiên cứu của IPSARD hiện vẫn còn yếu và thiếu về số lượng để thực hiện công tác phân tích và dự báo sử dụng các mô hình kinh tế tiên tiến. Vì vậy, cần tăng cường năng lực trong lĩnh vực này để thực hiện dự án. Các nguồn thông tin và các chuyên gia dự báo sử dụng mô hình kinh tế mà IPSARD đang sử dụng, tập trung vào việc học hỏi kinh nghiệm, bao gồm: - Dịch vụ nghiên cứu kinh tế- ERS của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ; - Cơ quan kinh tế và nông nghiệp của Úc - ABARE; - Viện nghiên cứu chính sách lương thực quốc tế – IFPRI; và - Viện nghiên cứu chăn nuôi quốc tế – ILRI. 5. PHÂN TÍCH SWOT Điểm mạnh Điểm yếu Các phương pháp nghiên cứu (phân tích thị Không có nhiều nghiên cứu thị trường áp dụng • • trường, các mô hình dự báo) hiện có. các phương pháp tiêu chuẩn quốc tế. Quan hệ đã được thiết lập với các tổ chức Nghiên cứu thị trường ngành hàng (nếu có) • • quốc tế có kinh nghiệm về phân tích ngành không tuân theo các tiêu chuẩn đồng nhất mà hàng. thường là kết quả của các dự án ngắn hạn. Có nhiều báo cáo chuyên nghiệp về các Các chuyên gia của Bộ NN chủ yếu tập trung • • ngành hàng chủ yếu và rất dễ truy cập qua vào lĩnh vực sản xuất như: giống, thủy lợi và internet mở rộng canh tác trong khi chỉ có một vài IPSARD tập trung đội ngũ chuyên gia về chuyên gia về thị trường ngành hàng nông • nghiên cứu thị trường chuyên nghiệp, nhiệt nghiệp. tình. Kinh nghiệm thực tế của các nhà nghiên cứu • Các chức năng tư vấn chính sách của của Viện CS và của một số cơ quan khác ở Việt • IPSARD sẽ là cầu nối tốt nhất với Bộ Nông Nam vẫn còn yếu. nghiệp và Chính Phủ. Các dữ liệu trong nước không được cập nhật • Các ngành hàng ưu tiên đóng vai trò quan đầy đủ phù hợp với những thay đổi của thông • trọng trong doanh thu xuất khẩu, nhu cầu lớn tin dự báo và phân tích thị trường. Không có đủ thông tin dữ liệu quốc tế từ những thị về nghiên cứu thị trường và dự báo. • trường lớn, việc trao đổi và tiếp cận với nguồn Là một bộ phận của Chính Phủ, nên sẽ dễ • thông tin này khá tốn kém. dàng tiếp cận hỗ trợ của Tổng Cục Thống Các nghiên cứu thường sử dụng nguồn dữ liệu cũ, • kê Việt Nam trong việc thiết kế và thiết lập tốn thời gian; do đó, không đáp ứng được nhu cầu hệ thống điều hành. cấp thiết của các nhà hoạch định chính sách và các Với tư cách là tổ chức nghiên cứu kinh tế • doanh nghiệp. chính thức, IPSARD sẽ dễ dàng nhận được Thiếu kinh phí và các chuyên gia thống kê để thiết • sự ủng hộ trong việc thiết lập hệ thống giám lập hệ thống giám sát sản xuất. 11
  13. Thiếu mạng lưới liên hệ với các lãnh đạo địa sát và hợp tác với chính quyền địa phương. • phương. Các nhà hoạch định chính sách thiếu thông tin khoa • học về dự báo thị trường, vì vậy các khuyến nghị chính sách từ các nghiên cứu khoa học thường chưa được cân nhắc khi đưa ra quyết định Cơ hội Thách thức Thiếu nguồn kinh phí hỗ trợ dài hạn cho việc phát Dự báo thị trường đóng vai trò ngày càng • • triển và duy trì các dự báo ngành hàng sẽ đồng quan trọng trong quá trình hoạch định chính nghĩa với việc mọi hoạt động cấp ngân sách ngắn sách. hạn đều không mang lại hiệu quả cao. Dữ liệu với các phân tích chính xác sẽ cung • Tình trạng thiếu năng lực hoặc thiện chí của các cơ • cấp những thông tin giúp cải thiện quyết quan nhà nước hoặc cơ quan có kinh nghiệm đáng định đầu tư của các nhà sản xuất, chế biến kể trong khảo sát nông hộ và dự báo thị trường và xuất khẩu đồng thời giúp xây dựng chính nông nghiệp sẽ ảnh hưởng không tốt tới việc cung sách, kể cả chính sách an ninh lương thực. cấp kết quả phân tích và khuyến nghị ngành hàng. Sự chuyển đổi từ lập kế hoạch theo hướng mục • Các sản phẩm cuối cùng phải đáp ứng yêu cầu của • tiêu sản xuất sang lập kế hoạch dựa trên nghiên Bộ NN, các cơ quan liên quan và doanh nghiệp. cứu ngành hàng sẽ cung cấp các cơ sở khoa học cho việc đưa ra quyết định. Qua Viện Chính sách và chiến lược, ERPO này • nhận được sự phối hợp từ các tổ chức quốc tế có kinh nghiệm về giám sát thị trường nông nghiệp. Chính phủ Việt Nam và Bộ NN coi vấn đề an • ninh lương thực là vấn đề ưu tiên quốc qua. Ngày càng có nhiều các tổ chức quan tâm đến • nghiên cứu dự báo thị trường, đặc biệt là các nghiên cứu tác động của thị trường tới phát triển kinh tế xã hội khu vực nông nghiệp nông thôn và trên cả nước. Nghị quyết “Tam nong” đã chỉ ra những vấn đề • quan ngại của Chính phủ đối với nông nghiệp. Việc mở rộng và thường xuyên cập nhật các • thông tin về ngành hàng sẽ giúp xây dựng phương pháp tiếp cận lập kế hoạch dài hạn cho phát triển công nghiệp-nông nghiệp. Sự phát triển của phân tích ngành hàng và việc • giám sát liên tục sẽ giải quyết được nhu cầu của các nhà hoạch định chính sách thông qua tham vấn lấy ý kiến đóng góp nhanh và thường xuyên. Sự phối hợp giữa dự báo ngắn hạn và dài hạn sẽ • đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các doanh nghiệp trong việc đưa ra quyết định đầu tư. 12
  14. EPRO 2: TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NÔNG THÔN 1. XÁC ĐỊNH EPRO2 1.1. Mục tiêu quốc gia Xây dựng khung pháp lý và môi trường chính sách để tăng cường việc(i) quản lý và sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên thiên nhiên trong nông nghiệp và (ii) môi trường lành mạnh ở nông thôn đảm bảo phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững; và (iii) giảm tác động tiêu cực trong sản xuất nông nghiệp đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường nông thôn. 1.2. Phạm vi nghiên cứu Xây dựng một cơ sở dữ liệu và hệ thống giám sát hiệu quả việc sử dụng tài nguyên thiên • nhiên trong ngành nông nghiệp và môi trường nông thôn. Tiến hành nghiên cứu để đánh giá mối liên hệ qua lại giữa sản xuất nông nghiệp với sử dụng • tài nguyên thiên nhiên và môi trường trong ngắn hạn và dài hạn bằng các kỹ thuật định lượng như thí nghiệm, đánh giá môi trường, phân tích chi phí lợi ích, mô hình kinh tế - sinh học, mô hình cân bằng tổng quát và các kỹ thuật định tính như đánh giá nông thôn có tham gia, nghiên cứu điển hình, ect. Nghiên cứu giải pháp/ phương pháp tiếp cận để Bộ NN&PTNT và chính phủ có thể áp dụng • nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và môi trường nông thôn lành mạnh Kịp thời cung cấp thông tin, kiến thức, kết quả nghiên cứu trên thông qua diễn đàn đối thoại • chính sách, hội thảo, ấn phẩm nhằm hỗ trợ cho việc xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động của khu vực nhà nước và tư. 1.3. Nội dung nghiên cứu Trọng tâm gồm: Quản lý và sử dụng đất trong nông nghiệp và khu vực nông thôn • Quản lý và sử dụng nước trong nông nghiệp và khu vực nông thôn (thủy lợi và nước sinh • hoạt) Bảo tồn đa dạng sinh học trong nông nghiệp và • Bảo vệ môi trường nông thôn • 2. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH 2.1. Giới thiệu Sau khi tiến hành một loạt các cải cách, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh vào thập kỷ 90. Ngành nông nghiệp đã phát triển vượt bậc với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 4 %. Mặc dù đã đạt được những thành quả đáng tin cậy, vẫn dấy lên lo ngại liệu quá trình phát triển này có bền vững về môi trường hay không. Có hai vấn đề chính: Thứ nhất, tình trạng ô nhiễm không được kiểm soát của các họat động sản xuất nông nghiệp;và thứ hai: khai thác cạn 13
  15. kiệt tài nguyên thiên nhiên. Những nguy cơ này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới toàn bộ hệ thống sinh thái nông nghiệp và nông thôn, làm suy giảm hiệu quả sản xuất của các yếu tố môi trường, suy giảm năng suất cây trồng và chăn nuôi và đe dọa sức khỏe người nông dân. Mặc dù chính phủ đã xây dựng một lọat các chính sách để giải quyết những vấn đề này, song tác động của chính sách đó vẫn còn rất hạn chế. Dường như không có một giải pháp duy nhất nào có thể giải quyết được mọi vấn đề trong việc quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường nông thôn. Thay vào đó, cần có sự kết hợp cẩn trọng các chính sách tổng hợp và nhất quán trên cơ sở căn cứ khoa học vững chắc và định lượng. 2.2. Môi trường chính trị và pháp lý 2.2.1 Quản lý và sử dụng đất Sở hữu và quản lý đất Luật đất đai năm 2003 quy định rõ tất cả đất đai thuộc về toàn dân, Nhà nước là chủ sở hữu đại diện chịu 5 trách nhiệm sau: (i) Xây dựng quy hoạch và phân vùng sử dụng đất (ii) Quyết định việc sử dụng quỹ đất và thời hạn sử dụng; (iii) Cấp quyền sử dụng đất cho người sử dụng; (iv) Thu thuế liên quan đến sử dụng đất; và (v) Định giá đất. Quản lý nhà nước đối với đất đai ở Việt Nam được thực hiện ở 4 cấp: Trung ương, tỉnh, quận, xã. Nhà nước quản lý về mặt chính sách và pháp lý, giao Ủy ban Nhân dân các cấp tỉnh, huyện và xã thực hiện nhiệm vụ quản lý đất đai. Người sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất • Quyền: Người sử dụng đất được giao đất để sử dụng lâu dài và ổn định và được trao 7 quyền sử dụng đất: chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thừa kế, thế chấp, trao tặng và dùng quyền sử dụng đất để vốn góp. • Nghĩa vụ: Người sử dụng đất phải (i) trồng trọt luân canh hợp lý; (ii) chăm sóc, cải tại giữ cho đất màu mỡ; (iii) trả thuế và phí sử dụng đất nông nghiệp Giao đất Luật đất đai năm 1993 và Nghị định 64 CP 27/09/1993 giao đất nông nghiệp cho nông dân sử dụng ổn định lâu dài. Nguyên tắc quan trọng nhất của việc giao đất là đảm bảo tính công bằng. Nhìn chung, nhiều địa phương ở miền Bắc giao một diện tích đất nhất định cho mỗi người dân. Cần tính đến những điều kiện khác khi giao đất như chính sách xã hội, chất lượng đất, hệ thống thủy lợi, khoảng cách đến thửa đất và năng suất luân canh. Quy hoạch sử dụng đất Việc khoanh vùng và quy hoạch sử dụng đất là quá trình từ dưới lên dựa trên điều kiện địa lý. Quá trình này bắt đầu từ cấp xã. Ở cấp này, việc khoanh vùng và sử dụng đất được tính toán chi tiết dựa căn cứ trên lô đất. Phương án sản xuất ở địa phương và kế hoạch đầu tư được xây dựng dựa trên khung quy hoạch tự nhiên. Sau đó, các phương án đó được trình lên hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân huyện. Quá trình sau đó sẽ chuyển từ cấp xã lên cấp quận, tỉnh/ thành phố và cấp quốc gia. Chu kỳ khoanh vùng sử dụng đất là 10 năm và quy hoạch sử dụng đất là 5 năm. Đất nông nghiệp được phân loại theo 6 tiêu chí sau: (i) Đất trồng cây hàng năm; (ii) Đất trồng cây lâu năm; (iii) Đất lâm nghiệp (rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng); (iv) Đất nuôi trồng thủy sản; (v) Đất làm muối; (vi) Các loại đất nông nghiệp khác theo qui định của nhà nước. 14
  16. Thời hạn và quỹ sử dụng đất Mục đích sử dụng đất Thời hạn Hạn mức đất Trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, sản xuất 20 năm 2 ha (miền Trung và miền Bắc) muối 3 ha (Đồng bằng sông Cửu Long) Trồng cây lâu năm 50 năm 10 ha Đất bổ sung để trồng cây lâu năm 50 năm 5 ha Rừng 50 năm 30 ha Đất bổ sung cho rừng phòng hộ và rừng sx 50 năm 30 ha Thuế đất nông nghiệp Các loại thuế hiện hành liên quan đến đất nông nghiệp ở Việt Nam bao gồm (i) thuế sử dụng đất nông nghiệp, (ii) thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất, và (iii) thuế đất vượt hạn mức. Năm 2003, Nhà nước đã thông qua luật miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho hầu hết người nông dân đến năm 2010. Thị trường đất nông nghiệp Chuyển nhượng đất: Có 9 hình thức giao dịch liên quan đến đất bao gồm chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thừa kế, thế chấp, trao tặng, đấu thầu, cho thuê và sử dụng đất để vốn góp. Để thực hiện những giao dịch này cần phải được nhà nước thông qua. Khi đó, nhà nước sẽ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất. Định giá đất: Nhà nước quyết định giá đất hàng năm nhưng những mức giá này cần phải sát với mức giá thị trường. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương sẽ xây dựng khung giá đất cụ thể cho địa phương mình và trình hội đồng nhân dân đóng góp ý kiến trước khi ra quyết định. Thế chấp đất: Có hai cách để hộ gia đình dùng quyền sử dụng đất vay tiền từ Ngân hàng: (i) Thế chấp giá trị của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( khoảng 50-70% giá trị đất): và (ii) ‘tín chấp’ (lấy quyền sử dụng đất làm tín chấp cho khoản vay với sự đảm báo của chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị xã hội). Theo quy định hiện hành, Ngân hàng NN & PTNT cho vay không vượt quá 10 triệu đối với hộ gia đình và không quá 20 triệu đối với nông trại thương mại. 2.2.2. Quản lý và sử dụng nước Luật Tài nguyên nước năm 1998 quy định “tài nguyên nước thuộc về toàn dân dưới và được Nhà nước thống nhất quản lý’. Trước năm 2002, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ nguồn tài nguyên nước của quốc gia, nhưng chính phủ có thể giao quyền quản lý sử dụng nước vào các mục đích cụ thể cho các bộ khác. Tuy nhiên, từ khi Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) được thành lập năm 2002, chức năng quản lý nhà nước đối với tài nguyên nước được chuyển từ Bộ NN&PTNT sang cho Bộ TN&MT. Thủy lợi Ở cấp tỉnh có các công ty quản lý thủy lợi (IMC) trực thuộc BỘ NN&PTNT và ủy ban nhân dân tỉnh quản lý các cống thoát nước, các kênh chính, các kênh thứ cấp và kênh phụ của các 15
  17. công trình thủy lợi lớn và vừa. Một vài tỉnh đã cổ phần hóa các IMC theo Nghị định 95/2006/ND-CP của chính phủ. Ở cấp xã, có các tổ chức hộ sử dụng nước (WUO) quản lý các kênh phụ và kênh qua nông trại để cung cấp một phần hoặc toàn bộ dịch vụ thủy lợi theo nhu cầu của nông dân. Có 6 loại tổ chức WOU: hợp tác xã nông nghiệp (loại hình chính), nhóm hộ sử dụng nước, ban quản lý nước, ban quản lý nước thôn, hiệp hội người sử dụng nước và các thôn. Phí cung cấp dịch vụ thủy lợi được thu từ các tổ chức và cá nhân sử dụng tài nguyên nước cho sản xuất lúa, rau màu, vụ đông, cây công nghiệp ngắn ngày và sản xuất muối. Nhà nước ban hành khung mức phí và mỗi tính có thể tự quyết định mức cụ thế theo thực tế. Phí được tính bằng đồng Việt Nam và được thu căn cứ theo diện tích đất được tưới tiêu và loại cây trồng thay cho căn cứ theo lượng nước được sử dụng. Thông thường, các nhóm dùng nước đứng ra thu phí và sẽ trích lại một phần phí làm công thu phí. Phần còn lại được chuyển cho IMC. Tuy nhiên, phần phí này thường không vượt quá một nửa chi phí quản lý và vận hành của IMCs. Nếu tính cả chi phí giảm nhẹ thiên tai và phục hồi công trình quy mô lớn, phần phí này chỉ đáp ứng khoảng ¼ tổng chi phí quản lý và vận hành. Gần đây, Nghị định 154/2007/ND-CP của chính phủ đã miễn phí thủy lợi cho nông dân từ kênh do IMC cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, nông dân vẫn phải trả phí thủy lợi nội đồng. Chính sách này đã dấy lên nhiều lo ngại về hiệu quả và tác động kinh tế xã hội. Nước sạch ở khu vực nông thôn Ở cấp trung ương, Trung tâm quốc gia cung cấp nước uống và vệ sinh nông thôn trực thuộc Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm: (i) Xây dựng kế hoạch và chiến lược quốc gia về cung cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn; (ii) Ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng công trình cung cấp nước sạch; (iii) giám sát chất lượng nước. Ở cấp tỉnh, có các trung tâm cung cấp nước uống và vệ sinh nông thôn dưới quyền quản lý của Sở NN & PTNT tỉnh. Hàng năm, những trung tâm này lựa chọn vài xã trong tỉnh để xây dựng các công trình cung cấp nước sạch (bao gồm công trình cung cấp nước sạch cộng đồng, hồ chứa nhỏ, giếng sâu và công trình cung cấp nước tư nhân) cho người dân nông thôn. Kinh phí xây dựng công trình nước sạch được đóng góp từ ngân sách nhà nước, ngân sách tỉnh và người sử dụng nước. Phần đóng góp của người sử dụng nước ít nhất là 25% tổng chi phí. Họ có thể xin vay tín dụng của ngân hàng (Tổng ngân sách của Chương trình quốc gia cho vay tín dụng là 5649 tỉ VND). Các công trình nước sạch sau khi hoàn tất việc xây dựng được chuyển giao cho cộng đồng nông thôn quản lý. Bên cạnh hệ thống của nhà nước, ở một số tỉnh, các công ty tư nhân cũng tham gia cung cấp nước sạch cho khu vực nông thôn. Người sử dụng nước phải trả phí sử dụng nước cho các công ty này. Tiêu chuẩn nước uống cho khu vực nông thôn do Bộ Y tế quy định. Bộ TNNN & MT, Bộ NN & PTNT và Bộ Y tế quản lý chất lượng nước. Tuy nhiên, giữa các bộ này chưa có sự phối hợp chặt chẽ. 2.2.3. Bảo tồn đa dạng sinh học trong nông nghiệp Văn kiện đầu tiên là Kế hoạch hành động Đa dạng sinh học năm 1995 được xây dựng để bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học quốc gia. Năm 2007 và 2008, Kế hoạch hành động Đa dạng sinh học quốc gia giai đoạn 2007-2010 với tầm nhìn đến năm 2020 và Luật đa dạng sinh học được thông qua với mục tiêu xây dựng khung chính sách cho bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững nhằm hài hòa với các quy định trong các văn kiện khác. Bên cạnh đó, vấn đề đa dạng sinh học cũng được đưa vào các chiến lược và kế hoạch chính ở cấp quốc gia như Chiến 16
  18. lược tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo toàn diện giai đoạn 2001-10, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-10; Chương trình nghị sự quốc gia số 21 về chiến lược định hướng hướng tới phát triển bền vững (2002) và các luật khác: Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004, Luật thủy sản 2003, Luật thương mại 2005, Luật hình sự 2005, Pháp lệnh Thú y 2004, Pháp lệnh Bảo vệ thực vật 2004. Các vấn đề liên quan đến bảo vệ đa dạng sinh học trong nông nghiệp gồm: Hệ thống quản lý đa dạng sinh học trong nông nghiệp Bộ TNTN & MT chịu trách nhiệm điều phối hoạt động của các bộ ngành, cơ quan và địa phương liên quan về bảo tồn đa dạng sinh học nói chung. Bộ NN & PTNT có trách nhiệm phối hợp với Bộ TNTN & MT, các bộ, ngành và chính quyền địa phương để thực thi các văn bản pháp lý liên quan về vấn đề đa dạng sinh học như bảo tồn giống cây trồng, bảo tồn giống vật nuôi, bảo tồn hải sản, nông sản biến đổi gen, lâm nghiệp và thủy lợi. Bảo tồn đa dạng hệ sinh thái Bảo tồn đa dạng hệ sinh thái gồm 2 loại: Bên trong khu bảo tồn (vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo tồn loài – khu bảo tồn cảnh quan). Hơn 40 năm qua, diện tích hệ thống khu bảo tồn quốc gia đã gia tăng đáng kể. Hệ thống này gồm 126 rừng đặc dụng được cấp phép gồm 28 vườn quốc gia, 59 khu bảo tồn thiên nhiên và 39 khu bảo tồn cảnh quan với tổng diện tích là 2.541.675 ha. Bên ngoài khu bảo tồn (vùng đệm, cảnh quan, khu quy hoạch và lồng ghép khu bảo tồn trong khu vực sản xuất). Bảo tồn đa dạng loài Bộ NN & PPTNT phối hợp với các bộ, ngành khác điều tra, đánh giá những giống thực vật và vật nuôi đặc hữu đang bị đe dọa để đưa vào danh sách các loài cá giá trị đang bị đe dọa cần được bảo vệ. Cơ quan hải quan phải kiểm tra, xác định và xử lý các lô hàng nhập lậu giống loài ngoại lại. Ủy ban nhân dân tỉnh phải lập danh mục các giống ngoại lai là cây xâm chiếm để báo cáo Bộ NN & PTNT và Bộ TNTN & MT. Chỉ được phép lai tạo giống ngoại lai sau khi kết quả kiểm định cho thấy các loài đó không gây hại đến đa dạng sinh học. Bảo tồn đa dạng gen Các bộ ngành phải bồn tồn và bảo vệ các yếu tố di truyền của loài và danh sách giống cây trồng và vật nuôi đang bị đe dọa phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Nhà nước khuyến khích các tổ chức và cá nhân bảo vệ và bảo tồn các yếu tố di truyền để thiết lập hệ thống ngân hàng gen góp phần bảo tồn đa dạng sinh học. Cho đến nay, nhiều cơ sở nghiên cứu của Bộ NN & PTNT đã có ngân hàng gen riêng cho các lĩnh vực nghiên cứu của mình, như Viện nghiên cứu ngô, viện nghiên cứu cây lương thực, v.v. Bộ TNTN & MT quản lý hệ thống dữ liệu gen bị biến đổi và yếu nhân tố di truyền của các loài biến đổi gen liên quan đến đa dạng sinh học. Các tổ chức và cá nhân tiến hành nghiên cứu để tạo ra những loài biến đối gen phải đăng ký với Bộ Khoa học và Công nghệ. 2.2.4. Bảo vệ môi trường nông thôn Nhìn chung, việc bảo vệ môi trường nông thôn được quy định cụ thể trong các văn bản pháp quy như Luật bảo vệ môi trường 2005, Nghị định 67/2003/ND-CP về phí bảo vệ môi trường 17
  19. đối với nước thải, và Nghị định 174/2007/ND-CP về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, v.v. Ngoài ra, vấn đề này cũng được quy định trong các chiến lược (Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010, Chương trình quốc gia 21 về chiến lược định hướng hướng tới phát triển bền vững 2002), Chương trình quốc gia của chính phủ về nước sạch và vệ sinh nông thôn (NPCWRHD), và các chỉ thị của Bộ NN&PTNT như Chỉ thị 36/2008/CT-BNN về tăng cường hoạt động bảo vệ môi trường trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trong NPCWRHD, hộ gia đình nông thôn được hỗ trợ một phần kinh phí để xây dựng nhà hố xí hợp vệ sinh. Năm 2005, 50% hộ gia đình nông thôn đã có hố xí hợp vệ sinh. Bộ NN& PTNT phối hợp với Bộ TNTN & MT, ủy ban nhân dân tỉnh hướng dẫn, giám sát hoạt động bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp. Đối với cây trồng, Bộ NN & PTNT ban hành danh mục hóa chất bảo vệ thực vật được phép sử dụng (thuốc trừ sâu, hóa chất diệt cỏ). Các sở NN & PTNT phối hợp với chính quyền địa phương kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ việc mua bán và sử dụng những sản phẩm này của nông dân và các tổ chức. Bộ NN& PTNT xây dựng quy trình tiêu chuẩn sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, đảm bảo an toàn cho sản phẩm và sức khỏe cho nông dân. Tuy nhiên, do thiếu hệ thống giám sát và cơ chế thưởng phạt có hiệu quả, việc tuân thủ các quy định này còn hạn chế. Đối với nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi, Bộ NN& PTNT cũng ban hành một danh mục thuốc thú được phép sử dụng và xây dựng quy trình sản xuất (thức ăn, xây dựng chuồng trại, vv.) để bảo vệ môi trường nông thôn. Bên cạnh đó, dịch vụ khuyến nông của các dự án cũng dành nhiều kinh phí cho hoạt động quảng bá sử dụng khí sinh học. Tuy nhiên, năm 2005, chỉ có 7 % chuồng trại chăn nuôi có hệ thống xử lý chất thải so với chỉ tiêu 30% của Bộ NN&PTNT. Gần đây, kiểm soát dịch bệnh là một phần quan trong của chính sách của ngành chăn nuôi với những chính sách đặc thù cụ thể như Quyết định 719/QĐ-TTg 2008 của Thủ tướng về chính sách hỗ trợ phòng chống và đối phó với bệnh dịch ở gia xúc, gia cầm. Đối với làng nghề, cho tới tận bây giờ, vẫn chưa có một văn bản nào hướng dẫn bảo vệ môi trường trong các làng nghề. Vài văn bản như Nghị định 66/2006/ND-CP về phát triển làng nghề đã đề cập đến vấn đề này song vẫn thiếu quy định cụ thể về hệ thống xử lý chất thải. Hệ lụy là, năm 2005, chưa đến 1% làng nghề có hệ thống xử lý chất thải so với chỉ tiêu 10% của Bộ NN&PTNT. 3. MÔI TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ CỐT LÕI 3.1. Quản lý và sử dụng đất Chia cắt đất manh mún. Việc giao đất theo hạn mức bình quân khiến cho ruộng đất bị phân chia manh mún. Cho đến nay, ở Việt Nam chỉ có 700 xã ở 20 tỉnh đã thực thi việc trao đổi luống đất (BỘ NN&PTNT 2002). Ở Việt Nam, theo ước tính, có 70 – 100 triệu lô hay mảnh đất, trong đó khoảng 10% số mảnh đất có diện tích chỉ 100m2 hoặc thấp hơn (Ngân hàng Thế giới 2003). Tình trạng này làm giảm năng suất và cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, áp dụng công nghệ tiên tiến, do dó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình. Quyền sở hữu đất không rõ ràng cộng với thị trường mua bán chuyển nhượng đất kém phát triển, ruộng đất bị chia cắt nhỏ lẻ manh mún khiến cho những hộ nông dân có điều kiện không muốn bỏ vốn đầu tư vào nông nghiệp. Mặc dù những chính sách khuyến khích dồn điền đổi thửa, tích tụ đất đai dẫn đến tình trạng một bộ phận nông dân mất đất và phân hóa nông thôn ở một mức độ nào đó, người ta trông đợi những chính sách như vậy có thể thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, cơ giới hóa, và tạo động lực đổi mới 18
  20. công nghệ vốn được xem là những yếu tố then chốt cho ngành nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng bền vững. Sử dụng đất không hiệu quả của các nông trường quốc doanh. Vào thời điểm này, Việt Nam có 314 nông trường, và 353 lâm trường quốc doanh, quản lý khoảng 4.6 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó phần lớn tập trung ở vùng miền núi và vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng đất của các nông lâm trường còn thấp do cơ chế quản lý không tạo ra động lực cho hộ nông dân tăng năng suất. Năm 2006, khoảng 70% nông trường quốc doanh kinh doanh thua lỗ. Thị trường đất bị đóng băng. Trên thực tế, bên cạnh hệ thống giá chính thức do nhà nước quy định, có một hệ thống giá “ngầm” phản ánh giá trị thực của thị trường và thường cao hơn giá nhà nước quy định. Quyền sử dụng đất chưa phản ánh đúng giá trị thực của nó trên thị trường, điều này đã những hộ nông dân làm ăn hiệu quả tận dụng cơ hội thị trường đẩy mạnh sản xuất, và khuyến khích những nông dân làm ăn kém hiệu quả ra khỏi ngành. Miễn thuế sử dụng đất. Chính phủ đã miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp vào năm 2000. Trên thực tế, khoản thuế này chỉ đóng góp không đáng kể vào ngân sách nhà nước với tỷ lệ chỉ khoảng 2-3 %. Mặc dù đã giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho người nông dân, chính sách miễn thuế sử dụng đất có thể dẫn đến việc quản lý đất lỏng lẻo và gây ra tác động tiêu cực đến việc sử dụng đất (Anh 2007). Năng suất nông nghiệp thấp cộng với miễn thuế đất và ruộng đất bị phân chia nhỏ lẻ manh mún làm nông dân thiếu động lực sử dụng và đầu tư vào những mảnh đất nhỏ lẻ. Thêm vào đó, để bù đắp khoản ngân sách thiếu hụt do miễn trừ thuế, chính quyền có thể yêu cầu người nông dân phải trả them các khoản phí hoặc đối mặt với việc cắt giảm các dịch vụ công. Tích tụ đất đai và phân hóa nông thôn. Việt Nam phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Một mặt, các nhà hoạch định chính sách đồng ý rằng tích tụ đất đai là có lợi vì nó giúp nâng cao hiệu quả sử dụng đất và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa Mặt khác, tích tụ đất đai có thể dẫn đến người dân mất đất và đây có thể là nguồn gốc gây ra những bất ổn kinh tế và xã hội. Phát triển khu công nghiệp và sinh kế bền vững của nông dân. Chính phủ đang nỗ lực lấp đầy tất cả diện tích của các khu công nghiệp đã được xây dựng và đang xem xét việc thành lập ngành công nghiệp mới có chọn lọc ở Việt Nam để tăng tổng diện tích các khu công nghiệp lên khoảng 40.000 đến 45.000 ha vào năm 2010. Hiện tại, các khu công nghiệp thường bồi thường một lượng tiền lớn cho nông dân và hứa hẹn sẽ tuyển dụng họ về làm việc trong các công ty của mình. Tuy nhiên, do trình độ học vấn và tay nghề chuyên môn yếu, hầu hết nông dân chưa đủ điều kiện để làm việc trong các khu công nghiệp. Sau một thời gian, tiêu hết tiền bồi thường, họ sẽ trở thành nông dân không có đất. Bảo vệ rừng và xóa đói giảm nghèo. Đất lâm nghiệp chủ yếu tập trung ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa, nơi có nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống. Các cộng đồng này không tích cực tham gia vào quá trình giao đất giao rừng, nhận khoán bảo vệ rừng do sinh kế của họ không được bảo.Có thể thấy rằng để có nguồn thu từ khai thác gỗ rừng phải mất một thời gian dài, những nguồn lợi khác từ lâm sản ngoài gỗ và hỗ trợ của chính phủ còn hạn chế. Suy thoái đất. Với mục đích cải thiện thu nhập, người nông dân đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng xuất sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, các biện pháp này cũng làm suy thoái chất lượng đất và suy giảm năng suất, bao gồm: • Lạm dụng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp • Xói mòn đất do thâm canh trên đất dốc; và 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2