intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Phát triển chiến lược tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi ngành hàng thực phẩm: trường hợp thức ăn chăn nuôi Báo cáo thăm quan học tập tại Thái Lan "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

106
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chuyến thăm quan học tập đã được tổ chức từ ngày 9-13/6/2008. (Xem kế hoạch làm việc tại Thái Lan ở phụ lục I). Đoàn đại biểu bao gồm một đại diện của cơ quan lập chính sách (Cục Chăn nuôi), một đại diện của Viện nghiên cứu (Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam), đại diện của một doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực chế biến thức ăn gia súc và các thành viên của nhóm nghiên cứu làm việc tại Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp (CAP)/Viện Chính sách Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn và các chuyên...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Phát triển chiến lược tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi ngành hàng thực phẩm: trường hợp thức ăn chăn nuôi Báo cáo thăm quan học tập tại Thái Lan "

  1. Ministry of Agriculture & Rural Development Dự án CARD 030/06 VIE Phát triển chiến lược tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi ngành hàng thực phẩm: trường hợp thức ăn chăn nuôi Báo cáo thăm quan học tập tại Thái Lan 9-13 Tháng 6, 2008 1 tháng 12 năm 2008 1
  2. 1. Giới thiệu Chuyến thăm quan học tập đã được tổ chức từ ngày 9-13/6/2008. (Xem kế hoạch làm việc tại Thái Lan ở phụ lục I). Đoàn đại biểu bao gồm một đại diện của cơ quan lập chính sách (Cục Chăn nuôi), một đại diện của Viện nghiên cứu (Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam), đại diện của một doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực chế biến thức ăn gia súc và các thành viên của nhóm nghiên cứu làm việc tại Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp (CAP)/Viện Chính sách Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn và các chuyên gia của trường đại học Tây Úc (UWA) (tham khảo danh sách đoàn trong phụ lục II). Chuyến thăm quan nghiên cứu có mục đích hiểu được: • Tình hình sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Thái Lan • Sự tham gia của các doanh nghiệp SME trong ngành thức ăn chăn nuôi tại Thái Lan • Vai trò của chính sách công trong ngành thức ăn chăn nuôi tại Thái Lan Chuyến thăm quan học tập do các thành viên nhóm nghiên cứu của CAP tổ chức, với sự hỗ trợ của các cố vấn kỹ thuật của UWA. Ông Teerasant Sirichayaporn, chủ tịch điều hành của Công ty Thức ăn chăn nuôi Thái Lan (Thai Feed Mills Public Company Limited) và ông Pornsil Patchrintanakul, chủ tịch Hiệp hội các nhà máy thức ăn chăn nuôi Thái Lan đã đón tiếp đoàn. Đoàn thăm quan đã gặp gỡ Cục phát triển chăn nuôi Thái Lan (DLD), văn phòng chăn nuôi của FAO tại khu vực, Hiệp hội các nhà máy thức ăn chăn nuôi Thái Lan, gồm cả các nhà máy nhỏ và lớn đồng thời thăm quan một trang trại chăn nuôi bò sữa. Thông tin chi tiết về các cuộc thăm quan và liên hệ có trong phụ lục 1. Các kết quả chính của chuyến thăm quan về 3 lĩnh vực quan tâm chính (nói trên) được ghi lại trong các phần 2, 3 và 4 sau đây. Một số vấn đề chính sách của Việt Nam mà Văn phòng chăn nuôi khu vực của FAO tại Băng Cốc nêu ra được thảo luận trong phần 5, và các bài học chính được ghi lại trong phần 6. 2 Sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Thái Lan 2.1 Sản xuất thức ăn chăn nuôi và sử dụng đầu vào Tại Thái Lan, các công ty lớn, đặc biệt là CP Group chi phối phần lớn ngành chế biến thức ăn chăn nuôi. Hiệp hội các nhà máy thức ăn chăn nuôi Thái Lan cho biết 56 thành viên trong hiệp hội (một số thành viên có hơn một nhà máy) sản xuất 70% trong tổng sản lượng thức ăn chăn nuôi của cả nước. Hầu hết thức ăn chăn nuôi được sản xuất cho tiêu thụ nội địa. Cục phát triển chăn nuôi đã đưa ra danh sách tổng cộng 655 nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi – nhưng con số này bao gồm rất nhiều nhà máy nhỏ theo quy mô kiểu “nông dân”. Ngoài ra, Công ty Thức ăn chăn nuôi Thái Lan cho biết cũng có nhiều nhà máy nhỏ không đăng ký hoạt động dưới hình thức đơn thuần là trộn các sản phẩm thức ăn với nhau (sử dụng thiết bị nghiền và đóng gói) và không có sự kiểm soát của Cục chăn nuôi. Số lượng các nhà máy thức ăn chăn nuôi tại Thái Lan tương đối ổn định trong nhiều năm qua, cho thấy một ngành chế biến thức ăn chăn nuôi trưởng thành. Điều thú vị là, giá thức ăn chăn nuôi trên thị trường nội địa từ năm 2003 đến nay do chính phủ Thái 2
  3. Lan kiểm soát thông qua Bộ thương mại (cụ thể là Vụ nội thương). Kế hoạch hàng năm về lượng đầu vào nguyên liệu thức ăn nhập khẩu do Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Thái Lan phê duyệt. Thái Lan thường tự chủ động trong nguồn nguyên liệu ngô và sắn để sản xuất thức ăn chăn nuôi, chỉ phải nhập khẩu các sản phẩm giàu protein như bột đậu tương, đậu tương, một phần bột cá và bột xương. Các doanh nghiệp SME có thể lợi thế ở gần các nguồn nguyên liệu thô – mua bột gạo, mật đường từ khu vực địa phương (và thậm chí phần thừa từ sản xuất thức ăn cho vật nuôi trong nhà). Ví dụ, Hợp tác xã chăn nuôi bò sữa Mualek tìm tất cả nguyên liệu thô ở trong nước (trừ một số bột đậu tương nhập từ Achentina) – và tìm kiếm các nguồn nguyên liệu chất lượng cao nhưng với giá rẻ nhất – để giữ cho chi phí sản xuất ở mức thấp có thể. Dưới đây là danh sách một số nguyên liệu thô của hợp tác xã: • Cám lúa mỳ – từ Thái Lan • Nhân cọ – từ miền Nam Thái Lan • Hạt bông – từ miền Bắc Thái Lan • Bột đậu tương – trong nước và nhập khẩu • Sắn – trong nước • ngô – trong nước – họ ký hợp đồng sản xuất ngô với các trang trại • bột dừa – từ miền Nam Thái Lan Thương lái đến tận các cơ sở xay xát để thu mua sản phẩm phụ - tuy nhiên các nhà máy sử dụng các nguyên liệu đầu vào này không thể cung cấp thức ăn cho các cơ sở chăn nuôi lợn được cấp chứng chỉ GMP. Các doanh nghiệp SME sử dụng bất kỳ nguyên liệu nào họ tìm được – họ không thể cạnh tranh để có được các nguyên liệu thô thông thường. Các SME phải xem xét “sẽ làm gì với doanh nghiệp nhỏ của mình?” Họ có thể là “nhà sản xuất thích hợp” sử dụng “nguyên liệu thô có thế mạnh”. Họ cần nhìn vào thị trường và cung cấp một dịch vụ nào đó cho nông dân. 2.2 Chuỗi cung Tình trạng sát nhập theo chiều dọc giữa các công ty lớn là rất cao – từ hợp đồng nông sản các nguyên liệu thô như ngô cho tới sản xuất thức ăn chăn nuôi và chế biến thực phẩm. Số lượng các nhà máy thức ăn chăn nuôi tại Thái Lan tương đối ổn định – không có nhiều công ty mới tham gia vào thị trường, và nhiều công ty cạnh tranh kém đã phải ra khỏi ngành. Chúng tôi đã tới thăm 2 doanh nghiệp SME là công ty chế biến thức ăn chăn nuôi Thái Lan và hợp tác xã chăn nuôi bò sữa Mualek. Đối với công ty chế biến thức ăn chăn nuôi Thái Lan, thị phần của công ty hiện rất thấp, ước tính từ 2-3%, nhưng công ty có kế hoạch trở thành nhà sản xuất thức ăn cho bò lớn nhất cả nước. Thức ăn cho bò là lĩnh vực mà theo FAO cho biết tập đoàn CP chưa chiếm ưu thế, và do đó thường được các nhà máy nhỏ chú trọng tới. Công ty chế biến thức ăn chăn nuôi Thái Lan bán ra thị trường cho các đại lý và trực tiếp tới các trang trại quy mô lớn và trung bình với lượng tối thiểu là khoảng 20 tấn/tháng cho một khách mua. Công ty cung cấp thức ăn dưới dạng bột không đóng gói cho một số trang trại. 3
  4. Hợp tác xã chăn nuôi bò sữa bán sản phẩm cho các xã viên, các hợp tác xã chăn nuôi bò sữa khác trong ngành, nhiều trang trại lớn do quân đội sở hữu, một trang trại của chính phủ và một trang trại tư nhân. Hợp tác xã đang tìm kiếm mở rộng thị trường tới các đại lý ở Chiềng Mai. Mỗi tháng, hợp tác xã cung cấp khoảng 900 tấn thức ăn chăn nuôi cho xã viên và 800 tấn còn lại cung cấp cho hệ thống các trang trại. 2.3 Kiểm soát chất lượng Hầu hết 56 thành viên của Hiệp Hội doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi Thái Lan (TFMA) đều có ít nhất tiêu chuẩn GMP (Tiêu chuẩn quản lý tốt sản xuất) được công nhận. Doanh nghiệp nhỏ nhất của Hiệp hội có công xuất từ 5000– 6000 tấn/tháng (tương đương với doanh nghiệp có quy mô lớn và trung bình ở Việt Nam). Việc kiểm soát chất lượng thức ăn chăn nuôi được đặt dưới sự kiểm soát của DLD – TFMA không tham gia. Thường xuyên có những phản hồi từ thị trường về chất lượng thức ăn cao hay thấp – các doanh nghiệp nhỏ cạnh tranh bằng giá. 2.3.1. Đăng ký các sản phẩm thức ăn chăn nuôi và kiểm soát chất lượng DLD (Phòng tiêu chuẩn và chứng nhận chăn nuôi) chỉ đưa ra cụ thể 4 chỉ tiêu cho mỗi loại thức ăn chăn nuôi: pro-tê-in, độ ẩm, chất béo và hàm lượng chất xơ. Đây là những yêu cầu tối thiểu cho việc đăng ký công thức chế biến thức ăn chăn nuôi thương mại – và tất cả các sản phẩm phải được đăng ký bởi DLD và các chỉ tiêu cụ thể (ghi ngoài nhãn). Phí đăng ký là 1000 Baht/một sản phẩm. DLD có trách nhiệm kiểm tra các sản phẩm này và có một quy trình cụ thể cho việc kiểm tra. Các mẫu kiểm tra được lấy ngẫu nhiên từ các nhà máy ít nhất 3 lần/năm. Mỗi mẫu này được chia ra thành ba phần: một phần cho phòng thí nghiệm của DLD, một phần cho DLD (trong trường hợp có tranh cãi) và một phần do doanh nghiệp giữ. Chi phí của cuộc kiểm tra được chi bởi DLD: hàng năm có khoảng 4000 mẫu với chi phí 2000 Baht/mẫu – tổng ngân sách là 8 triệu Baht/năm. Cuộc kiểm tra được tiến hành trong thư viện của DLD. Cuộc kiểm tra được tiến hành theo một quy trình cụ thể (Nhóm A và nhóm B – có thể tham khảo tại ghi chép của DLD) và mỗi mẫu đảm bảo các yêu cầu sẽ được cấp đăng ký. Có thể có 4 yếu tố dinh dưỡng được kiểm tra (khác với Việt Nam có 15 yêu cầu của việc đăng ký – trong đó DLD Việt Nam không kiểm tra về công suất). Các quy định khác liên quan đến an toàn thực phẩm do các công ty chịu trách nhiệm. DLD không chịu trách nhiệm thực hiện các hình thức xử phạt. Nếu như sản phẩm không vượt qua cuộc kiểm tra, công ty và cảnh sát phải thông báo cho các cơ quan chức năng và vấn đề này có thể phải đưa ra Tòa án. Một hình phạt tài chính hoặc ngồi tù có thể được đưa ra – nhưng thường là phạt tài chính. Giá trị phạt cao nhất lên đến 50000 Baht. Các doanh nghiệp được yêu cầu giữ bản ghi chép chính thức về quá trình kiểm tra và các bản ghi chép này được thông qua bởi nhân viên DLD. Đây là một cách tiếp cận trong việc kiểm soát chất lượng thức ăn có sự kết hợp với việc thực hiện GMP và HACCP . 2.3.2 Khuyến khích hệ thống GMP và HACCP 4
  5. DLD đang khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hệ thống GMP và HACCP – đầu tiên các doanh nghiệp lấy chứng nhận GMP và sau đó có thể tiếp tục với hệ thống HACCP. DLD cung cấp các khóa tập huấn – miễn phí đối với các doanh nghiệp – tập huấn 1 tuần được tổ chức 5 lần/năm. Trong năm 2007, 86 doanh nghiệp được công nhận GMP và 44 doanh nghiệp được công nhận HACCP ( trong tổng số 655 doanh nghiệp). Theo TFMA, hầu hết tất cả 56 thành viên ít nhất có chứng chỉ GMP. 2.3.3.Sản phẩm xuất khẩu chỉ từ các “nông trường tiêu chuẩn” Chỉ 35 doanh nghiệp cung cấp thức ăn chăn nuôi cho các “nông trường tiêu chuẩn” nơi có chứng nhận về quy trình sản xuất thịt để xuất khẩu. EU đã thông qua tiêu chuẩn về an toàn thông qua việc kiểm tra hệ thống sản xuất bao gồm cả truy nguyên nguồn gốc. Bằng cách này, Chính phủ Thái Lan (thông qua DLD) giữ được sự kiểm soát chất lượng chặt chẽ đối với các sản phẩm xuất khẩu. An toàn thực phẩm là điều kiện đầu tiên (có thể tham khảo trong ghi chép của DLD với nguyên tắc chung của an toàn thực phẩm là mua nguyên liệu thông qua các nông trường và các lò giết mổ đã được kiểm tra). 2.4 Kiểm soát giá Giá thức ăn chăn nuôi trong nước được kiểm soát bởi Chính phủ Thái Lan từ năm 2003 thông qua Bộ Thương mại (Vụ nội vụ và thương mại trong nước). Cơ quan này đưa ra mức giá tối đa mà các doanh nghiệp có thể áp dụng (tùy thuộc vào chi phí sản xuất của từng doanh nghiệp …) FAO coi việc kiểm soát giá thức ăn chăn nuôi của Chính phủ Thái Lan là một điều “bất thường”, điều này có thể gây ra những tác động bất thường đối với nông dân – những người thường xuyên phản đối lại việc tăng giá thức ăn chăn nuôi. Thức ăn chăn nuôi được đưa vào danh sách các yếu tố “nhạy cảm”. Chính phủ Thái Lan cần phải cân bằng giữa lợi ích của các doanh nghiệp và lợi ích của nông dân. Theo Hiệp hội các doanh nghiệp sản xuất thức ăn Thái Lan, giá thức ăn không thay đổi nhiều từ năm 2003, tuy nhiên hiện tại họ phải kết hợp với các yêu cầu của Chính phủ về việc tăng giá (do giá nguyên liệu tăng), điều này hiện nay đang được cân nhắc. Hiệp hội các doanh nghiệp sản xuất thức ăn Thái Lan cho biết việc tăng giá của mỗi doanh nghiệp được coi là tương xứng với các doanh nghiệp – mặc dù họ đóng vai trò quan trọng trong quy trình ứng dụng. 2.5 Vai trò của Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Thái Lan Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Thái Lan (TFMA) có 56 thành viên. Các thành viên phải trả phí thành viên 20,000 Baht/năm, không phụ thuộc vào công suất thiết kế của nhà máy. Các thành viên của hiệp hội chiếm 70% tổng sản lượng thức ăn chăn nuôi của Thái Lan. Hiệp hội thức ăn chăn nuôi tự coi mình là một “tổ chức dịch vụ” - hỗ trợ các thành viên về mặt thông tin và đào tạo. Các thành viên của hiệp hội “trao đổi thông tin và chia sẻ khó khăn”. Hiệp hội cũng cho rằng họ là đầu mối cung cấp thông 5
  6. tin cho Chính phủ: “chúng tôi có tất cả thông tin cần thiết” – và hành động như một nhóm vận động hành lang cho các công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi lớn, theo cách nói của Hiệp hội là “đề xuất chính sách”. Hiệp hội bao gồm ba tổ công tác: tổ mua nguyên liệu đầu vào, tổ xúc tiến thương mại và tổ quản lý chất lượng. Hiệp hội chịu ảnh hưởng lớn của các tập đoàn lớn, đặc biệt là CP - cả Chủ tịch và Thư ký của Hiệp hội đều là nhân viên của CP. FAO Châu Á Thái bình dương cũng ám chỉ tới điều này. Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Thái Lan đang điều phối một bản đề xuất xin tăng giá thức ăn chăn nuôi lên Bộ Thương Mại Thái Lan, mặc dù theo Hiệp hội này, giá sẽ không đồng nhất giữa các công ty (mỗi công ty phải có đề xuất về giá riêng cho công ty mình). Hiệp hội cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đề xuất với chính phủ về lượng khô dầu đậu tương có thể nhập khẩu thông qua “quota” (với thuế suất nhập khẩu 4%). Quota chính thức rất nhỏ, và thuế suất nhập khẩu ngoài quota là rất cao (119%). Vì thế, các doanh nghiệp cần thông báo cho Hiệp hội thức ăn chăn nuôi (từ tháng Sáu năm trước) về khối lượng khô dầu đậu tương cần nhập khẩu trong năm tới, và Hiệp hội sẽ tính toán tổng số khô dầu đậu tưong cần đề xuất. Sau khi đề xuất được “xem xét”, Hiệp hội sẽ thông báo cho các nhà máy thức ăn chăn nuôi về khối lượng được nhập khẩu. 3. Sự tham gia của SMEs trong ngành thức ăn chăn nuôi Thái Lan SMEs ở Thái Lan tập trung trong ngành thức ăn chăn nuôi cho đại gia súc vì họ không thể cạnh tranh được với CP và Betragro trong các lĩnh vực thức ăn chăn nuôi khác. Một số SMEs trong lĩnh vực chăn nuôi (ví dụ trang trại lợn với 2000 đầu nái) sẽ có cơ sở trộn thức ăn của riêng họ. SMEs cần hướng tới phục vụ thị trường địa phương - sản xuất một lượng sản phẩm vừa đủ cho tiêu dùng nội địa. Một số thông tin và nhận định sau đây thu được từ chuyến thăm hai SMEs tại Thái Lan. Công ty Thức ăn chăn nuôi Thái Lan (Thai Feed Mill Company) có công suất là 200,000 tấn/năm (18,000 tấn/tháng), sản xuất rất nhiều loại thức ăn chăn nuôi và có 110 lao động. Nhà máy có chứng nhận GMP. Công ty còn có 2 nhà máy khác và một cơ sở chế biến thịt gà. Theo tiêu chuẩn Việt Nam thì nhà máy này có thể được coi là diện lớn (hơn là trung bình theo tiêu chuẩn Thái Lan). Hợp tác xã bò sữa Mualek (Mualek Dairy Cooperative) được thành lập từ năm 1972 và có khoảng 800 thành viên (khoảng 20,000 đầu con gia súc bao gồm 8-9,000 bò sữa). HTX cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau bao gồm: marketing sản phẩm sữa, sản xuất thức ăn chăn nuôi, nhiên liệu, thú y và dịch vụ thụ tinh nhân tạo, xét nghiệm thai sản, tín dụng (theo sản lượng sữa bán ra), cung cấp rơm trong mùa khô. HTX được sự hỗ trợ của Cục chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp (DLD) cũng như các giáo sư tại trường Đại học (ví dụ như các giáo sư chăn nuôi của trường Đại học xây dựng công thức pha trộn cho HTX). Nhà máy thức ăn chăn nuôi của HTX được thành lập từ năm 2002 – dưới sự tài trợ của Ngân Hàng Phát triển Châu Á thông qua Bộ Nông nghiệp Thái Lan - với chi phí kiến thiết ban đầu là 40 triệu Baht. Nhà máy này sản xuất cả thức ăn dạng viên và dạng bột, tỷ lệ khoảng 50-50. Sản phẩm được “bảo đảm” bởi Bộ Nông nghiệp (chất lượng sản phẩm). Công suất của nhà máy là 10 tấn/giờ và tổng sản lượng 6
  7. khoảng 1700 tấn/tháng. Công suất này theo tiêu chuẩn Việt Nam có thể coi là cỡ trung bình-nhỏ. Sản phẩm được “làm theo đơn đặt hàng” và thường không lưu kho quá 1 tuần. 3.1 Các thách thức đối với SMEs Khi được hỏi về các thách thức đối với nhà máy thức ăn chăn nuôi, giám đốc điều hành của Nhà máy thức ăn chăn nuôi Thái Lan (Thai Feed Mill Company) trả lời: “duy trì lượng hàng bán ra – chúng tôi buộc phải bán được trên mức hoà vốn”. Cách tiếp cận thị trường tích cực này hoàn toàn khác so với cách tiếp cận truyền thống của các doanh nghiệp Việt Nam khi đuợc hỏi về thách thức đối với doanh nghiệp. 3.2 Lợi thế của việc có các SMEs hoạt động trong ngành: Theo công ty Thức ăn chăn nuôi Thái Lan, họ có lợi thế nhờ việc quy mô nhỏ, do vậy họ có thể mua được nguyên liệu đầu vào với khối lượng nhỏ từ nguồn rẻ tiền hơn ở trong nước. Chi phí cho nguyên liệu thô chiếm khoảng 80% tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Thông thường nhà máy giữ tồn kho nguyên liệu trong khoảng 1 tháng, nhưng hiện tại, theo họ việc này rất khó (do giá nguyên liệu đang lên rất cao). Chiến lược của họ là mua nguyên liệu từ các trung gian trong nước. Họ đã đào tạo cho các trung gian – “họ phải cung cấp nguyên liệu theo đúng yêu cầu chất lượng của chúng tôi”. 3.3 Vấn đề chất lượng thức ăn chăn nuôi sản xuất bởi SMEs Công ty thức ăn chăn nuôi Thái Lan cũng rất “nghiêm túc” với vấn đề chất lượng và có một phòng thí nghiệm tương đối tốt với thiết bị phân tích NIR. Nhân viên Cục phát triển chăn nuôi Thái Lan nhận xét rằng “một số thiết bị đã hơi cũ”. Công ty tỏ ra có làm việc khá chặt chẽ với Cục phát triển chăn nuôi Thái Lan. 3.4 Chiến lược được sử dụng bởi SMEs để cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong ngành Như đã đề cập, Công ty thức ăn chăn nuôi Thái Lan đã coi “bán hàng và dịch vụ bán hàng” là thế mạnh của công ty. Họ dự tính “cải thiện hoạt động chăn nuôi ở trang trại thông qua việc giảm giá thành sản xuất”, cho dù giá sản phẩm thức ăn chăn nuôi của công ty không hề thấp. Công ty này cho rằng tỷ lệ quy đổi thức ăn chăn nuôi thành thịt (FCR) của công ty họ cao hơn của các đối thủ cạnh tranh. Chiến lược bán hàng của công ty là định hướng vào Miền Bắc và miền Đông Bắc, trong khi các công ty khác chủ yếu tập trung vào miền Nam. Công ty quảng cáo sản phẩm trên các báo về chăn nuôi. Định hướng vào bán hàng trực tiếp cho các trang trại cũng là một chiến lược được hướng tới. Hợp tác xã chăn nuôi bò sữa Mualek thì hướng tới việc điều hành tốt HTX và cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau cho các thành viên. HTX thể hiện sự tự tin về sản phẩm của họ (vì đã được thử nghiệm trên trang trại của các lãnh đạo hợp tác xã). Và họ đang xây dựng chiến lược cho việc mua nguyên liệu đầu vào. Tiêu chuẩn vệ sinh của kho chứa hàng trong HTX không cao, và phòng thí nghiệm chỉ có các dụng cụ cơ bản. HTX không dự trữ nhiều nguyên liệu đầu vào mà mua vào liên tục. 7
  8. 4. Vai trò của khu vực công trong ngành thức ăn chăn nuôi Thái Lan 4.1 Chính sách hỗ trợ của chính phủ Thái Lan đối với doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi Có một số chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, nhưng không hoàn toàn là dành riêng cho các doanh nghiệp nhỏ. Cục phát triển chăn nuôi Thái Lan hỗ trợ về mặt đào tạo và tư vấn để hướng tới áp dụng tiêu chuẩn GMP và HACCP. Các khoá đào tạo này được cung cấp miễn phí. Cục phát triển chăn nuôi Thái Lan làm nhiệm vụ thanh tra các nhà máy thức ăn chăn nuôi để cung cấp chứng nhận GMP. Tất cả các thí nghiệm kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi đều được thực hiện tại các phòng thí nghiệm của Cục phát triển chăn nuôi – hoàn toàn miễn phí đối với các nhà máy. Tín dụng được hỗ trợ thông qua một số kênh. Ngân hàng nông nghiệp và công nghiệp (The Bank for Agriculture and Industry) có thể cung cấp tín dụng cho SMEs (với mức lãi suất ưu đãi thấp hơn 2% so với tỷ lệ thông thường) và “ngày hội lãi suất”. Ngân hàng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ cung cấp tín dụng cho các SME có “kế hoạch kinh doanh” phù hợp với tiêu chuẩn “một địa phương một sản phẩm” (HTX chăn nuôi bò sữa Mualek có khẩu hiệu này tại nhà máy thức ăn chăn nuôi). Chính phủ không cung cấp kho dự trữ nguyên liệu nào. Nhân viên của Cục phát triển chăn nuôi Thái Lan nghĩ rằng “khu vực tư nhân chắc hẳn phải làm tốt hơn”. Chính phủ Thái Lan quản lý giá cả thức ăn chăn nuôi. Chính phủ không áp dụng thuế “vượt quota” (119%) cho khô dầu đậu tương trong nhiều năm qua, cho dù việc vượt quota vẫn diễn ra thường xuyên. Việc xin miễn thuế nhập khẩu được Hiệp hội thức ăn chăn nuôi thực hiện hàng năm. Thuế VAT cho nguyên liệu đầu vào không được áp dụng ở mức 0% - vì đây được coi là một “ngành kinh doanh đặc biệt” (kinh doanh nông nghiệp). Hiệp hội thức ăn chăn nuôi của Thái Lan cũng nhận được sự hỗ trợ từ phía Bộ Thương Mại Thái Lan – ví dụ: có thể thuê một tư vấn để hỗ trợ các SMEs nâng cấp nhà máy (hỗ trợ kỹ thuật), và kiểm tra “kích cỡ” của sản phẩm thức ăn. Thêm vào đó, chính phủ Thái Lan đền bù 75% tổng giá trị thị trường cho sản phẩm chăn nuôi phải tiêu huỷ do dịch bệnh. 5. Các vấn đề về chính sách cho Việt Nam được văn phòng FAO Châu Á Thái Bình Dương đưa ra Văn phòng FAO cho rằng các SMEs hiện tại ở Việt Nam đang rơi vào tình trạng hết sức khó khăn, với việc mất giá của tiền đồng, lãi suất tín dụng cao và tỷ lệ lạm phát cao. Thuế và lãi suất ưu đãi cần được cung cấp để cứu các doanh nghiệp này. Đầu tư nội địa sẽ trở nên khó khăn hơn vì tín dụng sẽ bị thắt chặt để kiểm soát lạm phát. Tập đoàn CP dự kiến tiếp tục mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Đầu tư nước ngoài sẽ thuận lợi hơn do sự giảm giá của tiền đồng. CP hiện có 4 nhà máy ở Việt nam và hiện có kế hoạch đầu tư thêm 30 triệu đô la Mỹ cho việc nâng cấp tổng công suất lên 600,000 tấn/năm - kể từ năm 2009. 8
  9. Văn phòng FAO Châu Á Thái Bình Dương cho rằng có cơ hội cho ngành chăn nuôi Việt Nam. Đàn vịt của Việt Nam rất lớn, nhưng dịch cúm gia cầm đang là một mối đe doạ. Tuy nhiên, đầu tư cho nuôi vịt rất thuận lợi vì yêu cầu vốn đầu tư thấp. Việt Nam hiện đang phải mua trâu bò từ Lào và Campuchia, lý do là gì? Các SMEs Việt Nam cần tìm cách thay thế nhập khẩu. Với việc tăng giá năng lượng hoá thạch, có khả năng việc dùng sức kéo động vật sẽ được sử dụng lại. Do vậy, có cơ hội mới cho chăn nuôi trâu bò và thức ăn chăn nuôi cho trâu bò. Cần có chính sách cụ thể cho vấn đề năng lượng sinh học. Chính phủ Thái Lan đang lập quy hoạch cụ thể cho khu vực trồng cây lương thực và cây nguyên liệu cho chế biến năng lượng sinh học. Chính phủ Việt Nam cũng cần có được quy hoạch này. 6. Bài học kinh nghiệm và khả năng áp dụng cho Việt Nam 6.1 Bài học kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách Cục phát triển chăn nuôi Thái Lan có chính sách riêng cho việc kiểm soát chất lượng thức ăn chăn nuôi cung cấp cho các trang trại chăn nuôi phục vụ xuất khẩu. Các công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi để cung cấp cho các trang trại chăn nuôi thịt xuất khẩu sẽ bị kiểm soát chất lượng rất chặt chẽ. Tuy nhiên, cho cả các công ty phục vụ chăn nuôi xuất khẩu hay phục vụ chăn nuôi để cung ứng cho thị trường trong nước thì Cục phát triển chăn nuôi Thái Lan đều chịu trách nhiệm thực hiện các thí nghiệm kiểm tra chất lượng của thức ăn chăn nuôi trong hệ thống phòng thí nghiệm của Cục phát triển chăn nuôi, và tất cả các thí nghiệm này đều miễn phí. Yêu cầu các doanh nghiệp phải giữ các ghi chép về kết quả kiểm tra chất lượng là một phương pháp quan trọng để quản lý chất lượng cũng như để giúp doanh nghiệp làm quen với các yêu cầu của GMP và HACCP. Các khoá đào tạo miễn phí về GMP và HACCP có thể hữu ích trong việc khuyến khích các nhà máy thức ăn chăn nuôi áp dụng chứng chỉ GMP và HACCP. Hiện tại, chính sách tương tự không được áp dụng ở Việt Nam do thiếu nguồn lực về tài chính và con người. Hiện tại, cục chăn nuôi Việt Nam không tự thực hiện các cuộc kiểm tra chất lượng mà chỉ khuyến khích các đơn vị khác cung ứng dịch vụ này. Chính phủ Thái Lan coi các nhà máy thức ăn chăn nuôi thuộc lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp, do vậy được hưởng mức thuế VAT là 0%. Chính phủ Trung Quốc cũng có chính sách tương tự. Đây hẳn là một chính sách đúng đắn khuyến khích sản xuất và hạ giá thành của sản phẩm thức ăn chăn nuôi. Thêm vào đó, chính phủ Thái Lan kiểm soát giá thức ăn chăn nuôi, đây cũng là một chính sách hay mà Việt Nam có thể tham khảo. 6.2 Bài học cho các DNVVN Thái độ đối với các thách thức và các cú sốc từ môi trường kinh doanh: Phương pháp tiếp cận marketing của các SMEs Thái Lan dường như tích cực hơn Việt Nam. Thay vì chờ đợi sự hỗ trợ của chính phủ hay nơi nào khác, các doanh nghiệp Thái Lan tập trung vào việc làm thế nào để có thể bán trên mức hoà vốn. 9
  10. Nguyên liệu pha trộn thức ăn: Cố gắng để mua nguyên liệu địa phương càng nhiều càng tốt, tìm kiếm nguồn nguyên liệu với giá rẻ nhất và chất lượng tốt nhất có thể. Đây cũng là một vấn đề đáng lưu tâm cho các doanh nghiệp Việt nam vì Việt Nam có khả năng tự sản xuất các nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi. Tìm kiếm thị trường ngách: SMEs luôn có khả năng tìm kiếm “thị trường ngách”, làm một nhà sản xuất “hàng độc”, sử dụng các “nguyên liệu đầu vào đặc biệt”: nói theo cách khác, luôn có thị trường cho thức ăn chăn nuôi chất lượng cao và chất lượng thấp. SMEs có thể cạnh tranh bằng giá và dịch vụ sau bán hàng cho người chăn nuôi. Mô hình hợp tác xã: Mô hình Hợp tác xã Mualek là một ví dụ tốt cho ngành thức ăn chăn nuôi Việt Nam học tập. Hợp tác xã đa dịch vụ có thể là một mô hình tốt có khả năng hoạt động tại Việt Nam. 6.3 Vai trò tiềm năng của Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam Các kinh nghiệm từ Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Thái Lan có thể là bài học để Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt nam học tập để có thể có một vai trò chính trị mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, cần có sự thay đổi trong cấu trúc của Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam để hiệp hội này có thể được hỗ trợ cả về mặt tài chính và tổ chức. Chính phủ Việt Nam có chính sách khuyến khích sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân, một vai trò tích cực hơn của Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam do vậy có thể được mong đợi trong tương lai. 10
  11. Phụ lục I: Lịch làm việc tại Thái Lan Ngày Thời gian Địa điểm làm việc Người liên lạc/ tiếp đón Địa chỉ Bay đi Bangkok Thứ hai (09 Tháng 6) 9:00 – 11:00 Phòng Tiêu chuẩn và Mrs. Kanungknit 089-132-1818, 02 -653 Bureau of Livestock Standards and Thứ ba (10 Tháng 6) Chứng nhận chăn nuôi - -4444 ext 3127 Certification Cục phát triển chăn nuôi Department of Livestock Thái Lan Development Phaya Thai Rd., Bangkok 10400, Thailand (cả ngày) Nhà máy thức ăn chăn Mr.Teerasant Sirichayaporn Thai Feed Mills (Saraburi) Co.,Ltd. Thứ tư (11 Tháng 6) nuôi Thái Lan Chủ tịch thường trực 35,Moo 8, Phatthanapong Road, Thai Feed Mills Public Company Tambon Tontal, Amphoe Saohai, Limited Saraburi Province 18160, Thailand. e-mail - tfmpm2@csloxinfo.com Tel : 036-222-260-4 Fax : 036-222104 Mobile : 081-567-8101 (cả ngày) Hợp tác xã Bò sữa Giáo sư Somkiat Tỉnh Saraburi Thứ năm (12 Tháng 6) Muaklek Prasanpanich, Khoa nghiên cứu chăn nuôi 9:00 -11:00 Văn phòng FAO Châu Á Vishnu Đường 39 Phra Atit Thứ sáu (13 Tháng 6) Thái Bình Dương 06681-6442329 Bangkok 10200 Thailand 14:00 – 16:00 Hiệp hội Thức ăn chăn Ông Pornsil Patchrintanakul, Chủ tịch 889 Room No. 170 17Th Floor Thai nuôi Thái Lan Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Thái Lan: Cc Tower Building South Sathorn Ms. Sukanya Chaichuen Yannawa Sathorn Bangkok 10120 313 Silom Road, Bangrak, 10120 Sathorn Bangkok 10500 Thailand Tel 66 (0) 2 6382213, 6258203 Fax 66 (0) 2 6310850 Bay về Hà Nội Thứ bảy (14 Tháng 6) 11
  12. Phụ lục II: Danh sách chuyên gia 1. Bà Sally Marsh_Trường Đại học Tây Úc 2. Bà Nguyễn Lệ Hoa và bà Phạm Tuyết Mai_Trung tâm Tư vấn chính sách Nông nghiệp 3. Bà Bùi Thị Oanh _Trưởng phòng Thức ăn chăn nuôi, Cục chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam 4. Ông Lã Văn Kính, Phó giám đốc, Viện Khoa học Nông nghiệp Miền Nam 5. Ông Phạm Thanh Hà, Phó Giám đốc, Công ty Thức ăn chăn nuôi Phú Gia 12
  13. Phụ lục III: Thông tin nền cho chuyến đi Có một số hạn chế tồn tại trong ngành công nghiệp thức ăn chăn nuôi của Thái Lan. Theo báo cáo của FAO (2004), hàng năm trên thế giới có khoảng 1000 triệu tấn thức ăn chăn nuôi được sản xuất ra, trong đó 600 triệu tấn là thức ăn hỗn hợp (nguồn: FAO 2004). Trong năm 2004, trên 80% lượng thức ăn chăn nuôi được sản xuất từ 3800 nhà máy, và 60% trong tổng số thức ăn chăn nuôi trên thế giới được sản xuất từ 10 quốc gia. Trong suốt thập kỷ 60 và 70, phần lớn dân số Thái Lan tham gia vào các hoạt động nông nghiệp, và giá trị ngành nông nghiệp chiếm trên 36% trong tổng GDP. Vào cuối thập kỷ 90, tỷ trọng ngành nông nghiệp ở Thái Lan đã giảm, chỉ còn trên 10% trong tổng GDP, nhưng 50% lực lượng lao động vẫn tham gia vào ngành nông nghiệp. Tuy phải đối mặt với sự thiếu hụt đất nông nghiệp nhưng Thái Lan đã chuyển từ mở rộng sang hệ thống thâm canh cùng với tăng cường đầu tư, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ trong nông nghiệp. Cùng với sự đầu tư của khu vực tư nhân tập trung vào phát triển các nông trường và sử dụng các đầu vào có hiệu quả cao. Để gia tăng giá trị ngành nông nghiệp, sản xuất có lãi, giảm rủi ro và không chắc chắn trong sản xuất nông nghiệp thì công nghiệp trong nông nghiệp phải được phát triển. Đầu tiên là cung cấp cho thị trường nội địa, sau đó bắt đầu hướng ra thị trường thế giới. Do nhấn mạnh tăng trưởng quá mức mà không quan tâm đến cân bằng đã lấn chiếm đất nông nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích quốc gia và cũng chuyển hướng các kế hoạch vĩ mô từ sản xuất quy mô lớn sang quy mô nhỏ hơn. Trong năm 2000, Chương trình Nâng cao chất lượng ngành nông nghiệp và năng lực quản lý được tài trợ bởi Chương trình cho vay Nông nghiệp của Ngân Hàng Phát triển Châu Á nhằm phát triển ngành công nghiệp trong nông nghiệp được tiến hành. Ví dụ như: xây dựng nhà máy gạo, các nhà máy sấy cao su và xây dựng các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi. 8 vùng thị trường trung tâm của các hợp tác xã, hai trong số 4 vùng được thiết kế để hoạt động như vùng đại lý cho tất cả 770 hợp tác xã thuộc các huyện nằm rải rác trong cả nước. Sự tăng trưởng của sản xuất công nghiệp trong nông nghiệp và xuất khẩu với các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ cũng cung cấp cho các hộ gia đình nông thôn có cơ hội tham gia với vai trò là các nhà sản xuất theo hợp đồng. Thái Lan có một số điểm tương đồng với Việt Nam trong sản xuất thức ăn chăn nuôi và sản lượng vật nuôi, nhưng một số yếu tố liên quan đến ngành chăn nuôi của Thái Lan chưa được hiểu rõ. Để tìm hiểu làm thế nào mà các doanh nghiệp nhỏ tồn tại song song và thu lợi nhuận cùng với sự có mặt của các công ty lớn như CP. Ngành chăn nuôi của Thái Lan • Nằm giữa các nước Đông Á khác (như Việt Nam, Malaysia và Philippines) Thái Lan có ngành chăn nuôi phát triển nhanh, đặc biệt là lợn và gia cầm. • Thái Lan trở thành một trong những quốc gia đứng đầu về xuất khẩu trên thế giới. Vào năm 2003, trước khi dịch Cúm gia cầm xẩy ra, Thái Lan đứng thứ 5 trên thế giới năm sau Mỹ, Brazil, Pháp và Hà Lan. 13
  14. • Cũng như ở Việt Nam, dịch cúm gia cầm đã hạn chế lượng xuất khẩu và chuyển hướng sang thị trường nội địa – gây áp lực làm giảm giá nội địa. • Mặc dù Việt Nam có chi phí lao động thấp hơn Thái Lan, nhưng giá sản xuất thịt lợn ở Thái Lan chỉ bằng 75% giá sản xuất của Việt Nam. Lý do giải thích là do Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn thức ăn chăn nuôi, và gây ra sự khác biệt lớn này. Ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi của Thái Lan • Tập đoàn Charoen Phokphand (gọi tắt là CP) bắt đầu ở Thái Lan trên 70 năm qua, với khởi đầu là một của hàng nhỏ bán hạt giống. CP bắt đầu kinh doanh ở Việt Nam bằng cách nhấn mạnh chất lượng thức ăn chăn nuôi và sự cần thiết phải hướng dẫn người chăn nuôi về lợi ích của thức ăn chăn nuôi chất lượng cao. • CP là một nhà sản xuất quy mô lớn về thịt gia cầm và thức ăn chăn nuôi, chi phối toàn bộ thị trường Thái Lan. Hơn thế, công ty còn mở rộng hoạt động ra rất nhiều các sản phẩm nông nghiệp khác trên phạm vi hơn 20 quốc gia bao gồm cả Myanma, Campuchia và Việt Nam. Công ty tham gia vào các ngành chăn nuôi như: cá, gà và lợn giống, trang thiết bị và thuốc cho chăn nuôi, gà công nghiệp, các chương trình khuyến khích nuôi gà và xuất nhập khẩu thức ăn chăn nuôi. Sản xuất thức ăn chăn nuôi là một hoạt động chủ yếu của CP với hơn 100 nhà máy ở Trung Quốc, khoảng 20 nhà máy ở Thái Lan và một số lượng lớn các nhà máy ở các nước thuộc tiểu vùng Sông Mê Kông. • Ngoài CP, có rất nhiều các công ty chế biến thức ăn vừa và nhỏ nổi lên trong đó có cả các công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi. Các công ty có quy mô lớn và trung bình đóng góp lớn vào phát triển khu vực nông thôn như: tạo công ăn việc làm cho lao động nông thôn và cam kết với nông dân bằng những hợp đồng nông sản. • Những quốc gia như Việt Nam và Thái Lan, nơi có rất nhiều nông dân bị tách biệt, khó tiếp cận với các phương tiện giao thông, không gian phù hợp cho các ngành công nghiệp trong nông nghiệp sẽ khác biệt với các quốc gia nơi mà sản xuất chăn nuôi gần với các thành phố lớn hoặc cảng biển – cơ sở hạ tầng rất quan trọng. • Các nhà máy thức ăn chăn nuôi lớn hon có thể có hiệu quả hơn và sản phẩm có chất lượng tốt hơn nhưng có thể không cạnh tranh được tại một số vùng tách biệt của Việt Nam và Thái Lan. Các vấn đề cần quan về ngành thức ăn chăn nuôi Thái Lan • Sự phụ thuộc vào khô dầu đậu tương và khô dầu cá đang tăng lên, cùng với nó là mối quan tâm về việc giảm giá các đầu vào nhập khẩu. • Tham nhũng là một vấn đề chung của vùng Đông Á. Năm 2005, chỉ số về tham nhũng và minh bạch ở Việt Nam được xếp hạng là 2.6 với chỉ số từ 1 đến 10 với 10 tương ứng là tiêu chuẩn liêm chính nhất. Hầu hết các quốc gia khác trong vùng đều nhận được những chỉ số cao như: Malaysia (5.1), Hàn Quốc (5.0), Thái Lan (3.8), Lào (3.3), và Trugn Quốc (3.2). Chỉ có Philippines (2.5) và Indonesia (2.2) là tham nhũng hơn. Tuy nhiên, theo kết 14
  15. quả điều tra về môi trường đầu tư (ICS), tham nhũng ở Việt Nam ít khốc liệt hơn so với các quốc gia khác trong khu vực, như Malaysia. • Giá các đầu vào cho sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) ở Thái Lan • Định nghĩa: SMEs là các doanh nghiệp có vốn đăng ký từ 100 triệu Baht và lao động ít hơn 200 người. • Nhìn chung: Các doanh nghiệp nhỏ ở Thái Lan có ít hơn 50 lao động và các doanh nghiệp có quy mô vừa có từ 50 – 200 lao động. • Các ngành công nghiệp vừa và nhỏ (SMIs) được khuyến khích phát triển và được hình thành từ các tập đoàn chính trong ngành công nghiệp với những hợp đồng được sắp đặt giữa các hãng lắp ráp và các SMIs trở nên phổ biến trên thị trường. Các quỹ hợp tác kinh tế thế giới (OECF) hoặc các ngân hàng hợp tác thế giới của Nhật Bản (JBIC) cũng mở rộng các khoản tín dụng cho các công ty vừa và nhỏ. • Thái Lan, Malaysia và Indonesia áp dụng theo mô hình SME của Nhật Bản với sự thay đổi sao cho phù hợp với văn hóa và môi trường xã hội của mỗi quốc gia. Trong trường hợp của Thái Lan, các công ty quy mô lớn cho phép phát triển các cơ sở phụ thuộc, nơi có thể mở các nhà máy giống nhau bên ngoài công ty và cho phép độc lập về tuyển dụng nhân sự, cơ cấu lương và các điều kiện dịch vụ. • Mô hình Nhật Bản: Thay vì tập trung vào các hạn chế của SMEs có nguyên nhân bởi quy mô, các chính sách hiện đại bây giờ được xây dựng thành các thế mạnh của SMEs như: sự năng động, linh hoạt trong sản xuất quy mô nhỏ, sự đa dạng trong sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường trong điều kiện môi trường kinh tế hiện tại. Trong trường hợp không mong muốn vượt ra ngoài sự kiểm soát SMEs, chính phủ tiến hành các biện pháp cứu trợ khẩn cấp như hình thành mạng lưới an toàn nhằm ổn định các điều kiện kinh doanh. • Vai trò của SMEs trong việc tạo việc làm khác nhau giữa các quốc gia nhưng rất quan trọng ở các quốc gia Đông Á như: Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam. Mối liên hệ trực tiếp giữa Thái Lan và Việt Nam • Năm 2006, Việt Nam dẫn đầu về nhập khẩu ngô của Thái Lan với số lượng 125,000 tấn trong tổng số 306,000 tấn. Giá ngũ cốc tăng – thực trạng và triển vọng • Giá lúa mì, ngô, gạo và dầu cọ đang đạt tới đỉnh điểm tại thời điểm này. Trong khi, giá ngô đã chững lại, giá lúa mì và dầu cọ (cả hai mặt hàng đều quan trọng làm lương thực cho các quốc gia có thu nhập thấp) vẫn đang tiếp tục tăng. • Trong khi hầu hết các quốc gia đang phát triển, bao gồm cả Thái Lan, đang cố gắng thực hiện những chính sách làm giảm giá (như: cấm xuất khẩu, đánh thuế xuất khẩu, giảm thuế nhập khẩu) và bảo vệ các nhóm khách hàng dễ bị tác động do tăng giá (như: các phương tiện thanh toán, trợ cấp cho khu đô thị nghèo). Hiện tại, Thái Lan đã thông báo dành dự 15
  16. trữ (thông qua phân phối hạn ngạch) và bán các túi 5kg gạo với giá thấp cho các khách hàng dễ bị tổn thương. Tất cả những sự can thiệp này, không may đã tác động làm giá gạo tăng cao hơn. • Giá thịt (trừ gia cầm) dường như không thể hiện tác động của giá thức ăn cao hơn. Tuy nhiên, giá gia cầm gần như tăng gấp đôi do tác động của dịch cúm gia cầm (tiêu dùng thay đổi hẳn phản ứng lại sự bùng phát dịch vào giữa năm 2006). Nếu chúng ta xem xét giá gia cầm, tác động của dịch cúm gia cầm trên thế giới làm cho giá gia cầm trượt xuống dốc không phanh. Mỹ cắt giảm giá trị xuất khẩu gà gần 1000 $/tấn trong khi giá tại Brazil là 1700 $ (được hỗ trợ do cắt giảm giá trị từ EU trong bối cảnh WTO bao gồm cả cắt giảm thuế). Điều này mang lại hy vọng giá thịt sẽ bắt đầu tăng vào năm 2008 (trừ thịt lợn tại các nước xuất khẩu, nơi mà trong năm 2007 đã thặng dư và đang xây dựng dự trữ). 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2