intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo tổng kết đề tài sinh viên NCKH: Kiến thức, thái độ và nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh hai trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Cảnh và Nguyễn Trãi, tỉnh Thái Bình năm 2016

Chia sẻ: Phạm Thị Thu Huyền | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:76

154
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu chính của báo cáo tổng kết “Kiến thức, thái độ và nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh hai Trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Cảnh và Nguyễn Trãi, tỉnh Thái Bình năm 2016” là: Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ của học sinh về giới tính ở 2 Trường trung học phổ thông Nguyễn trãi và Trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Cảnh năm 20162. Mô tả nhu cầu về giáo dục giới tính của học sinh ở 2 Trường nêu trên năm 2016.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo tổng kết đề tài sinh viên NCKH: Kiến thức, thái độ và nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh hai trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Cảnh và Nguyễn Trãi, tỉnh Thái Bình năm 2016

  1. BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI SINH VIÊN NCKH KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU GIÁO DỤC  GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH HAI TRƯỜNG TRUNG HỌC  PHỔ THÔNG NGUYỄN ĐỨC CẢNH VÀ NGUYỄN TRÃI,             TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2016       Giang viên h ̉ ướng dẫn: Ths.Nguyễn Văn Tiến       Chủ nhiệm đề tài: SV.Phạm Thị Thu Huyền – Lớp  YTCC3.K1
  2. 2 THÁI BÌNH – NĂM 2016 LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian dài thực hiện nghiên cứu, chúng em xin được chân  thành cảm ơn các Thầy/Cô giáo Trường Đại học Y Dược Thái Bình đã tận   tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ  chúng em hoàn thành đề  tài nghiên  cứu. Với tất cả tình cảm sâu sắc nhất chúng em, xin bày tỏ  lòng cảm ơn  tới thầy hướng dẫn Ths. Nguyễn Văn Tiến ­ người đã tận tình giúp đỡ  chúng em từ khi xác định vấn đề  nghiên cứu, viết đề  cương, chia sẻ thông  tin và hoàn thành nghiên cứu này.   Chúng em xin bày tỏ  lòng cảm  ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu, Quý  thầy cô giáo tại 2 trường THPT Nguyễn Đức Cảnh và THPT Nguyễn Trãi,  nơi chúng em tiến hành nghiên cứu, đã tạo điều kiện giúp đỡ, góp ý, hướng   dẫn và tham gia vào nghiên cứu này. Chúng em xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô trong Hội đồng chấm   đề tài đã cho chúng em những góp ý quý báu để hoàn chỉnh đề tài.  Xin cảm  ơn các bạn trong lớp YTCC3­K1 đã cùng nhau chia sẻ  kinh  nghiệm và giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Một lần nữa chúng em xin trân trọng cảm ơn!                                                                               2
  3.                                                      Thái Bình, ngày 18 tháng 05 năm 2016                                                              Nhóm nghiên cứu BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI SINH VIÊN NCKH KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU GIÁO DỤC  GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH HAI TRƯỜNG TRUNG HỌC  PHỔ THÔNG NGUYỄN ĐỨC CẢNH VÀ NGUYỄN TRÃI,  TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2016 ̉ Giang viên hướng dẫn: Ths.Nguyễn Văn Tiến Chủ   nhiệm  đề  tài:   SV.Phạm   Thị   Thu   Huyền   ­Lớp   YTCC3.K1 Sinh viên  tham  gia:                                Trần Thị Khuyên – Lớp YTCC3.K1
  4. 4                                           Trương Diệu Thu – Lớp YTCC3.K1                                            Đào Huy Cừ – Lớp YTCC3.K1                                            Nguyễn Thế Duy – Lớp YTCC3.K1 THÁI BÌNH – 2016 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCS Bao cao su BPTT Biện pháp tránh thai BLTQĐTD ̣ Bênh lây truyên qua đ ̀ ường tinh duc ̀ ̣ GDGT Giáo dục giới tính KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình NHT Nạo hút thai NPT Nạo phá thai QHTD ̣ ̀ ̣ Quan hê tinh duc SKSS Sức khỏe sinh sản TD Tình dục TDAT ̣ Tinh duc an toan ̀ ̀ VTN ̣ ̀ Vi thanh niên 4
  5. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Trang Bảng 3.1 Một số thông tin chung của đối tượng nghiên cứu 28 Bảng 3.2 Phân bố tỷ lệ học sinh có kiến thức đúng về tuổi bắt  29 đầu dậy thì theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.3 Hiểu biết của học sinh về dấu hiệu dậy thì của nữ  30 giới theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.4 Hiểu biết của học sinh về dấu hiệu dậy thì của nam  31 giới theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.5 Hiểu biết về quan hệ tình dục theo địa bàn nghiên cứu 32
  6. 6 Bảng 3.6 Hiểu biết của học sinh về thời điểm mang thai trong  32 chu kì kinh theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.7 Hiểu biết của học sinh về các biện pháp tránh thai  33 theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.8 Hiểu biết của học sinh về các bệnh lây truyền qua  34 đường tình dục theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.9 Quan điểm của học sinh về việc nạo phá thai ở tuổi vị  36 thành niên Bảng 3.10 Quan niệm của học sinh về việc nạo phá thai ở tuổi vị  36 thành niên Bảng 3.11 Mức độ tìm hiểu thông tin giáo dục giới tính của học  37 sinh theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.12 Những nội dung về giáo dục giới tính học sinh mong  38 muốn tìm hiểu theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.13 Nhu cầu giáo dục giới tính trong nhà trường theo địa  38 bàn nghiên cứu Bảng 3.14 Đồi tượng học sinh lựa chọn để chia sẻ vấn đề giới  39 tính Bảng 3.15 Nhu cầu của học sinh về hình thức giáo dục giới tính  40 theo giới DANH MỤC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1 Hiểu biết của học sinh về chu kì kinh nguyệt theo địa  29 bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.2 Hiểu biết của học sinh về  hiện tượng sinh dục bất   30 thường ở nữ giới theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.3 Kiến thức của học sinh về  dấy hiệu sinh dục bất   31 thường ở nam giới theo địa bàn nghiên cứu 6
  7. Biểu đồ 3.4 Hiểu biết của học sinh về khả năng có thai khi quan  33 hệ tình dục theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.5 Hiểu biết của học sinh về cách sử dụng một số biện  34 pháp tránh thai theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.6 Kiến thức về cách phòng bệnh lây truyền qua đường  35 tình dục theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.7 Đánh giá tổng điểm kiến thức của học sinh về  giáo  35 dục giới tính theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.8 Đánh giá tổng điểm thái độ của học sinh về giáo dục  37 giới tính theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.9 Nhu cầu của học sinh về hình thức giáo dục giới tính  40 theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ  Đánh giá chung về nhu cầu giáo dục giới tính của học  41 3.10 sinh theo địa bàn nghiên cứu
  8. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 1,7 tỷ người  ở độ tuổi vị thành   niên (VTN), chiếm khoảng ¼ dân số  thế  giới.  Ở Việt Nam, có tỷ  lệ  VTN   cao và ngày càng gia tăng, năm 1999 VTN là 17,3 triệu người chiếm 22,7%,  năm 2009 là 27,9% [23]. Sự phát triển đất nước phụ thuộc vào thể chất và  trí tuệ của lớp người này. Chính vì vậy, nghiên cứu chăm sóc sức khỏe sinh   sản (SKSS) và nhu cầu giáo dục giới tính (GDGT)  ở  VTN đã và đang trở  thành một vấn đề  bức thiết, quan trọng hàng đầu trong chiến lược dân số  cũng như chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội ở Việt Nam. Theo tổ chức y tế thế giới tình hình quan hệ tình dục sớm và nạo phá  thai ở tuổi VTN tại nhiều nước đang tăng lên ở mức báo động, đặc biệt là  ở các nước đang phát triển. Ở các nước phát triển như Newzealand có 49%  VTN (15­19 tuổi) đã có quan hệ tình dục (QHTD) trước hôn nhân, ở Mỹ là   46% và ở Thụy Điển là 54,2% nam VTN đã có QHTD [ 38]. Tại Indonesia,  theo Cơ quan kế hoạch quốc gia đã đưa ra thông báo hơn một nửa số thanh   thiếu niên  ở  Jakarta đã tham gia vào QHTD trước hôn nhân (51 trong 100   thanh thiếu niên) [37]. Một trong những nguyên nhân là do các em không  được trang bị  đầy đủ  các kiến thức về  giới tính, đây chính là những lỗ  hổng GDGT cho học sinh hiện nay. Theo điều tra của Vũ Quý Nhân và cộng sự  cho thấy số  VTN có  QHTD trước hôn nhân chiếm 14,8% đối với nam và 2,4% đối với nữ. Tỷ lệ  phụ  nữ  chưa chồng nạo hút thai (NHT) chiếm 20­30% tổng số  phụ  nữ  NHT  ở  Hà Nội và thành phố  Hồ  Chí Minh [39]. QHTD trước hôn nhân và  có thai ngoài ý muốn trước khi lập gia đình dẫn đến nhiều hậu quả  nặng   nề. Số VTN nạo phá thai (NPT) trong tổng số phụ nữ NPT ngày càng tăng.  
  9. Điều này là hậu quả  của việc có QHTD sớm nhưng thiếu hiểu biết. Một   khảo sát về kiến thức, thái độ và hành vi ở tuổi VTN trên 1.100 đối tượng   VTN tại thành phố Hải Phòng cho thấy sự hiểu biết về các vấn đề  có liên   quan đến SKSS còn rất hạn chế: trong số các đối tượng được phỏng vấn  có 79% đối tượng cho rằng có hiểu biết về sự thụ thai thì chỉ có 41,6% biết  thời gian có thai theo chu kỳ  kinh nguyệt. Trong số  16,5% đối tượng có  QHTD chỉ  có 18,8%  biết dùng các biện pháp tránh thai [32].  Ở  Thái Bình  theo con số hiện nay của cơ sở y tế, hàng năm có khoảng 20.000 ca nạo hút   thai, 30% trong số ca trên là người chưa có gia đình (15­24 tuổi) trên thực tế  con số này còn lớn hơn nhiều [28]. Những thách thức to lớn  mà tuổi VTN khi QHTD sớm đó là mang  thai ngoài ý muốn, nạo phá thai, HIV/AIDS. Vì vậy, rất cần có sự  chuyển  biến phù hợp trong bộ  máy quản lý xã hội, hệ  thống giáo dục và sự  quan   tâm của gia đình. Cho đến thời điểm này, tại Thái Bình chưa có báo cáo   điều tra nghiên cứu về  các hoạt động chăm sóc SKSS  ở trẻ VTN, chưa có  nhiều số  liệu chính thức, đầy đủ  về nhu cầu giáo dục giới tính, cũng như  kiến thức và thái độ về hoạt động tình dục ở lứa tuổi học sinh. Trước thực   trạng trên cũng như dựa trên tổng quan tài liệu nghiên cứu về hiểu biết của   các em học sinh trường trung học phổ thông liên quan vấn đề giáo dục giới   tính, chúng tôi thực hiện nghiên cứu: “Kiến thức, thái độ và nhu cầu giáo   dục giới tính của học sinh hai Trường trung học phổ  thông Nguyễn   Đức Cảnh và Nguyễn Trãi, tỉnh Thái Bình năm 2016”, nhằm mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ của học sinh về giới tính ở 2   Trường trung học phổ  thông Nguyễn trãi và Trường trung học phổ  thông   Nguyễn Đức Cảnh năm 2016. 2. Mô tả  nhu cầu về  giáo dục giới tính của học sinh  ở  2 Trường  
  10. nêu trên năm 2016. Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Khái niệm về giáo dục giới tính và vị thành niên. 1.1.1. Một số khái niệm. GDGT là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh  dục, sinh sản, QHTD, SKSS, các quan hệ  tình cảm, quyền sinh sản và các  trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác của thái độ tình dục của con  người. Theo tác giả  Đỗ  Hà Thế  Bình “Giáo dục giới tính là một quá trình   hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng   cũng như  khuynh hướng phát triển của nhân cách, xác định thái độ  xã hội   cần thiết của con người đối với người khác.” [ 12]. Tác giả Bùi Ngọc Oánh  đã kết luận: “Giáo dục giới tính là quá trình giáo dục con người (thanh  thiếu niên), nhằm làm cho họ có nhận thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về  giới tính và quan hệ  giới tính, có nếp sống văn hoá giới tính, hướng hoạt   động của họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân cách toàn diện, phù hợp   với giới tính, giúp cho họ  biết tổ  chức tốt nhất cuộc sống riêng cũng như  xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển.” [9]. GDGT gồm nhiều nội dung: sự  phát triển của giới tính, SKSS, các   mối quan hệ  cá nhân, tình cảm, về  ngoại hình, về  vai trò của giới. GDGT   giúp trẻ  VTN có một quan điểm tích cực về  tình dục, đồng thời cung cấp  
  11. các thông tin và kỹ năng để trẻ VTN có được thái độ và hành vi đúng, hiểu   biết và có trách nhiệm về những quyết định của mình [15]. Theo tổ chức y tế thế giới, VTN là những người trong độ  tuổi 10­19,   đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh về  mặt thể chất và hoàn thiện bộ  máy sinh sản, trưởng thành về tâm lý xã hội và hình thành nhân cách. Cũng  theo WHO, thanh niên là những người  ở  độ  tuổi từ  15­24 tuổi và những  người trẻ tuổi là những người ở độ tuổi từ 10­24 tuổi [8], [11], [14]. Căn cứ  vào tình hình thực tế  của Việt Nam, một số  tác giả  chia tuổi của VTN  thành hai nhóm tuổi: tuổi vị  thành niên sớm từ  10­14 tuổi và vị  thành niên  mộn từ 15­19 tuổi [13]. VTN là một quá trình chuyển tiếp từ tuổi  ấu thơ thành người trưởng   thành. Tuổi từ 10 đến 19 là một khoảng thời gian thay đổi nhanh chóng cả  về  thể  chất, tâm lý cũng như  bắt đầu phát triển các mối quan hệ  xã hội.  Mặc dù không còn là trẻ  con, song những người  ở  độ  tuổi này cũng chưa  phải là người lớn, họ phải đối mặt với những thách thức về  sự  phát triển   thể  chất và tâm lý cũng như  sự  nhìn nhận và hòa nhập với xã hội xung   quanh, họ  có thể  đặt mình vào những nguy cơ  mà không suy xét đến hậu  quả. Về mặt sinh học, họ có thể trở thành những người làm cha  mẹ nhưng  chưa sẵn sàng về bổn phận. Họ tự cảm thấy tính độc lập của bản thân rất   cao, song phần lớn các  nhu cầu vật chất  ở  tuổi VTN vẫn lệ  thuộc vào  người lớn. Thông thường, người ta chia tuổi VTN làm 3 giai đoạn [5], [11]: ­ Giai đoạn VTN sớm (10­13 tuổi): Giai đoạn này đặc trưng bởi sự  phát triển nhanh chóng về  thể  chất và quá trình trưởng thành về  tính dục.   Ở độ tuổi này có sự phát triển tư duy trừu tượng rất rõ rệt. ­ Giai đoạn VTN trung bình (14­16 tuổi): Về thể chất vẫn tiếp tục  
  12. thay đổi với tốc độ  chậm hơn, nhưng những thay đổi về  tâm lý trở  nên  mạnh mẽ  hơn, các em có xu hướng tách khỏi gia đình để tìm đến các mối   quan hệ  với bạn bè đồng lứa. Các em  ở độ  tuổi này hay tò mò và bắt đầu  quan tâm, muốn khám phá năng lực bản thân trong QHTD. ­       Giai đoạn VTN muộn (17­19 tuổi): Sự  phát triển về  thể  chất và  tâm lý dần  ổn định hơn. Các em ở độ  tuổi này phát triển mạnh mẽ  tư duy  trừu tượng, đưa ra nhiều ý tưởng hơn cũng như có xu hướng bảo vệ chính   kiến của mình mạnh mẽ hơn. 1.1.2. Những biến đổi về thể chất [6], [8]. Ở  tuổi VTN, cơ  thể  biến đổi nhanh về  vóc dáng, cơ  quan sinh dục  phát triển, các đặc điểm giới tính khác như  lông, râu, ngực trở  nên rõ rệt,  các em gái bắt đầu có kinh nguyệt, em trai có hiện tượng xuất tinh. Chiều  cao có khác nhau giữa nam và nữ do thời kỳ dậy thì xảy ra ở độ  tuổi khác  nhau, thường gặp sớm hơn  ở các em gái. Đến cuối tuổi dậy thì, các em đã  trở  thành những chàng trai, cô gái với vóc dáng, khả  năng thể  chất và sức  mạnh khác nhau. Đôi khi những biến đổi quá nhanh gây tình trạng sốc hoặc  cảm giác e thẹn, xấu hổ, không yên tâm, thiếu tự  tin, lúng túng  ở  một số  VTN do các em chưa có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết đầy đủ  về  bản  thân. 1.1.3. Những biến đổi về sinh lý [8]. Ở nữ giới xảy ra hiện tượng kinh nguyệt, là dấu hiệu thông báo sự  trưởng thành của bộ máy sinh sản ở nữ. Nam giới thường dậy thì muộn  hơn nữ  khoảng 2 năm, biểu hiện là sự  hoạt động của tinh hoàn. Hiện  
  13. tượng cương dương vật và xuất tinh ban đêm (giấc mộng ướt hay còn gọi   là mộng tinh) cho thấy khả năng sinh sản của nam giới đã bắt đầu. Nhưng từ tuổi VTN đến tuổi hôn nhân cũng còn trên dưới 10 năm. Vì  vậy, trẻ VTN cần hiểu điều này mà tăng cường việc học tập, rèn luyện để  tránh những hành động sai lầm đáng tiếc làm tổn hại đến sức khoẻ và hạnh  phúc, tương lai như QHTD sớm, tảo hôn… 1.1.4. Những biến đổi về tâm lý [8]. Ở tuổi này, các em bắt đầu phát triển ý thức tự trọng, tính độc lập  trong suy nghĩ và hành động. Các em cần được tiếp cận với các hệ thống hỗ trợ cũng như cơ hội  để phát triển những mối quan hệ gần gũi, gắn bó với gia đình, nhà trường,   bạn bè và cộng đồng… Nếu thiếu sự hỗ trợ này, các em sẽ bị người khác   lạm dụng và bóc lột. Sự  hỗ  trợ  của gia đình, trường học, bạn bè, người   thân… sẽ  tạo ra một môi trường an toàn trong đó các em vừa được bảo   vệ, vừa có khả năng chủ động và độc lập. Các em đã có những xúc cảm giới tính, bắt đầu quan tâm đến bạn  khác giới. Tâm trạng cũng thay đổi rất nhanh và biến động mạnh. Nhưng  thời gian này, lý trí chưa đủ  giúp các em làm chủ  được bản thân. Vì vậy,  các em cần được rèn luyện những kỹ năng sống để giúp các em xây dựng   được các mối quan hệ  bạn bè, giải quyết mâu thuẫn, biết cách cùng hợp   tác với người khác trong nhóm, hình thành lòng tự trọng cũng như biết kìm  chế trước sức ép từ bạn bè cùng lứa và người lớn khác để không tham gia  vào những hành vi  nguy cơ có hại cho sức khoẻ và an toàn của bản thân  và của người khác. Có sự mất cân bằng trong tâm lý và sinh lý, tuy rằng chỉ là tạm thời,   song một số hành vi và sự chọn lựa của tuổi VTN có thể gây hậu quả suốt 
  14. đời nếu các em thiếu sự  hướng dẫn và hỗ  trợ  của người lớn, đồng thời   thiếu kiến thức và kỹ năng tự bảo vệ. 1.2. Khái niệm về sức khỏe sinh sản. ̣ ̃ ̉ ̉ ưc y tê thê gi Theo đinh nghia cua tô ch ́ ́ ́ ới WHO­ Sức khỏe là tình trạng  phát triển hài hòa của mỗi người về thể lực, trí tuệ  và khả  năng hòa nhập  cộng đồng, chứ  không phải chỉ  là không có bệnh tật,  ốm đau hoặc không  tàn phế. Từ  đó, sức khỏe sinh sản là một trạng thái hoàn hảo về  mặt thể  chất, tinh thần chứ  không chỉ  đơn thuần là không có bệnh tật trong mọi  vấn đề  liên quan đến hệ  thống sinh sản, chức năng sinh sản và quá trình  sinh sản [10], [13], [14]. Như  thế  SKSS cũng có thể  hiểu là mọi người có  thể  có cuộc sống TDAT, hài lòng, họ  có khả  năng sinh sản, tự  do quyết   định có sinh con hay không, sinh con khi nào và sinh bao nhiêu con. Chương  trình hành động của Hội nghị  Cairo cũng đã đề  cập đến nội dung cơ  bản   của chăm sóc SKSS là:  ­ Tư vấn, giáo dục, truyền thông và dịch vụ KHHGĐ an toàn, hiệu quả  và chấp nhận tự do lựa chọn của khách hàng, kể cả nam giới.  ­ Chú trọng sức khỏe VTN ngay từ lúc bước vào tuổi hoạt động tình  dục và sinh sản.  ­ Giáo dục sức khỏe và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ  sơ  sinh, bao  gồm cả chăm sóc trong lúc có thai, khi đẻ và sau đẻ.  ­ Phòng ngừa và điều trị  bệnh viêm nhiễm đường sinh dục và các   BLTQĐTD. ­ Điều trị vô sinh. ­ Xử trí các vấn đề sức khỏe phụ nữ như các bệnh phụ khoa, giáo dục   tình dục học cho cả  nam và nữ, huy động nam giới có trách nhiệm trong 
  15. mỗi hành vi tình dục và sinh sản…[13] SKSS VTN là những nội dung về  SKSS liên quan đến lứa tuổi VTN,  bao gồm sức khỏe và dinh dưỡng, nhất là đối với vị thành niên gái. Những   hiểu biết về  cách giữ  gìn sức khỏe khi có thai, biến đổi của cơ  thể  trong  giai đoạn phát triển quan trọng này của mỗi con người, phát triển hiểu biết   về  tình dục học và sức khỏe tình dục là những mặt quan trọng của SKSS  trong suốt đời người. Ngoài ra, những vấn đề khác của tuổi VTN hiện còn  là những bất cập như tình yêu, quan hệ tình dục, phòng tránh thai, nạo hút  thai, sinh đẻ ở tuổi VTN, viêm nhiễm đường sinh sản, các BLTQĐTD, bao  gồm cả HIV/AIDS [13]. Hội nghị  Quốc tế  về  dân số  và phát triển cũng thu hút sự  chú ý đến  những nhu cầu về  SKSS của VTN đã và đang bị  các dịch vụ  SKSS hiện  hành  ở phần lớn các nước bỏ quên. Chương trình hành động của Hội nghị  tuyên bố rất rõ ràng rằng cần phải cung cấp rộng rãi các thông tin và dịch  vụ  cho vị  thành niên để  giúp họ  hiểu được các nhu cầu tình dục của bản  thân và bảo vệ họ trước nguy cơ có thai ngoài ý muốn va BLTQĐTD. Làm ̀   mẹ khi ở tuổi VTN thì người mẹ có nguy cơ tử vong cao hơn rất nhiều so   với mức bình thường và tăng rủi ro đau ốm/bệnh tật và tử vong cho con cái  họ. Ở nhiều nước, vị thành niên bị ép buộc hoặc bị thúc bách phải có hoạt   động tình dục. Phụ nữ trẻ, đặc biệt là thanh thiếu niên nghèo, là nhóm dễ  gặp rủi ro nhất. VTN (cả trai và gái) sớm bắt đầu QHTD càng dễ gặp nguy   cơ  lây nhiễm các bệnh lây truyền qua QHTD kể  cả  HIV/AIDS, bởi họ  thường không được ai chỉ bảo cách tự bảo vệ mình như thế nào [4]. 
  16. 1.3. Những vấn đề liên quan đến giáo dục giới tính ở vị thành niên trên  thế giới. Theo thống kê của WHO, hiện nay còn khoảng 120 triệu cặp vợ  chồng trẻ chưa được hưởng dịch vụ KHHGĐ và khoảng 60 ­ 80 triệu cặp   vợ chồng trẻ bị vô sinh, mà nếu biết được sớm từ khi VTN thì có thể khắc  phục được. Ngoài ra, hàng năm còn có 20 triệu trường hợp nạo hút thai   (NHT) không an toàn, trong đó có nhiều người mang thai ngoài ý muốn vì  không có thông tin từ thời VTN. Mỗi năm có khoảng 10% số trẻ được sinh  ra từ các bà mẹ ở tuổi VTN. Mỗi năm còn có 585.000 phụ nữ chết do thai   nghén hoặc sinh đẻ  và 25 triệu trẻ  em sinh ra thiếu cân vì mẹ  thiếu dinh   dưỡng và thiếu kiến thức chăm sóc thai nghén [30]. Theo  ước tính của Văn phòng thông tin dân số  Mỹ  về  SKSS của lớp   người trẻ, thì có ít nhất 80% số người bước vào tuổi 20 ở vùng cận sa mạc  Sahara đã trải qua hoạt động tình dục. Đó là một trong những nguyên nhân   xã hội làm cho BLTQĐTD và nhất là HIV/AIDS phát triển rất nhanh  ở  vùng này. Thống kê của Quỹ  Liên hiệp quốc về  phòng chống AIDS cho   biết, số người bị nhiễm HIV/AIDS ở khu vực này chiếm 2/3 tổng số người  nhiễm HIV/AIDS trên toàn thế giới [29]. Hiện nay, hàng năm có khoảng 15 triệu VTN nữ sinh con, chiếm 10%  số phụ nữ sinh con trên thế giới, trong đó, số mang thai trước khi cưới và   không có ý định cưới ngày một tăng. Một điều tra  ở  Kenia đưa ra tỷ  lệ  phụ  nữ  15­19 tuổi có thai ngoài ý muốn chiếm 47% phụ  nữ  có chồng và  74% phụ nữ chưa chồng.  Ở Peru, có tỷ lệ  tương tự là 51% và 69%. Tổng  hợp số liệu từ các nước và các khu vực khác cho thấy [29]: ­ Bắc Phi và Tây Á, 15% ­ 23% số VTN sinh con ngoài ý muốn. ­ Ấn Độ và Pakistan có số sinh con ngoài dự định khoảng 16%.
  17. ­ Philippin,   Bangladesh,   Srilanka   và   Thái   Lan   có   tỷ   lệ   sinh   con  ngoài dự định là 23% ­ 41%. ­ Ở một số nước thuộc châu Mỹ Latinh, số VTN mang thai ngoài ý   muốn từ 20% ­ 52%. Tình hình trên khiến cho  mức  độ  NHT của VTN rất cao. Ví dụ   ở  Tanzania có 71% VTN NHT, trong khi số  VTN chỉ  chiếm 24% mẫu điều  tra. Hàng năm, thế giới có khoảng 4,4 triệu trường hợp NHT của VTN [29].  Đây là con số đáng báo động về SKSS do các hoạt động tình dục không an  toàn, thiếu chủ động và thiếu hiểu biết mang lại. 1.4. Tình hình kiến thức, thái độ và nhu cầu về giáo dục giới tính của vị  thành niên Việt Nam. Giai đoạn VTN là thời kỳ  chuyển tiếp từ  trẻ  em thành người lớn,  được đánh dấu bằng những thay đổi đặc tính về  mặt thể  chất cũng như  tâm tư, tình cảm. Những vấn đề  sức khỏe của VTN có ảnh hưởng và để  lại hậu quả  nặng nề  cho cả  cuộc đời họ  về  sau. Vì vậy sức khỏe của   nhóm người trẻ  tuổi này là yếu tố  then chốt cần đầu tư  vì sự  tiến bộ  và  phát triển kinh tế­xã hội cho mỗi quốc gia và toàn cầu. Để  thích  ứng với  sự phát triển về thể chất và bảo vệ SKSS ở VTN là rất quan trọng. Chính   vì vậy, GDGT cho đối tượng VTN là một vấn đề vô cùng cấp thiết. Nhiều công trình nghiên cứu về SKSS VTN đã được tiến hành ở  các  nước phát triển và các nước đang phát triển. Trong vài thập kỷ nay, cũng  đã có nhiều công trình nghiên cứu tiến hành ở nhiều nước khác nhau thuộc  cả châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Kết quả nghiên cứu đã được phổ  biến rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới [26]. Nhiều nghiên cứu về  chỉ  tiêu hình thái cơ  thể  người như  chiều cao,   cân nặng, vòng ngực và chỉ số phát triển thể lực như Pignet, BMI của các 
  18. tác giả  Trần Thị  Loan [24], Vương Thị  Thu Thủy [34],... cho thấy trong  những năm gần đây có sự  gia tăng so với số  liệu nghiên cứu trước năm   1975 và trong thập niên 80, điêu nay liên quan đ ̀ ̀ ến điều kiện sống ngày   càng tốt  hơn. Về  tuổi dậy thì chính thức ở VTN, một số nghiên cứu đã đưa ra kết  quả là tuổi dậy thì chính thức trung bình của VTN ở thành thị và nông thôn   đồng bằng có chiều hướng sớm hơn trước đây; tuổi dậy thì chính thức   trung bình của VTN  ở một số dân tộc ít người: nữ là 14,29 ± 1,25, nam là  15,42 ± 1,08 (ở  Vĩnh Phúc và Phú Thọ) [20], muộn hơn so với thành thị,  nhưng tương đương so với vùng nông thôn; hoặc nữ  là 14,38 tuổi, nam là  15,4 tuổi, muộn hơn so với đồng bằng nhưng không khác biệt so với học   sinh miền núi khác (trường nội trú tỉnh Sơn La) [19].  Theo kết quả  điều tra cơ  bản của Quàn Lệ  Nga và cộng sự  tại Hà   Nội, Vĩnh Phú và Thái Bình mô tả khía cạnh liên quan đến kiến thức, thái  độ  và hành vi của VTN về  SKSS cho thấy, tỷ lệ  hiểu biết của VTN về  BPTT cũng hạn chế, chỉ có khoảng một nửa biết về  bao cao su (BCS) và   1/3 biết về dụng cụ tử cung [22]. 1.4.1. Kiến thức và thái độ của vị thành niên về các vấn đề giới tính và  sức khỏe sinh sản. Theo báo cáo Savy (Bộ Y tế­2003) thì các vấn đề liên quan đến sức  khỏe thường gặp ở VTN bao gồm [33]: ­ Còn thiếu kiến thức về SKSS: thiếu kiến thức về các biện pháp  tránh thai, đặc biệt là về các BLTQĐTD và thời điểm dễ thụ thai trong chu   kỳ  kinh nguyệt của nữ  thanh niên. Tỷ  lệ  phá thai  ở  độ  tuổi VTN và vấn   đề mang thai ngoài ý muốn, phá thai không an toàn được coi là vấn đề sức  khỏe nghiêm trọng, ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần, ảnh hưởng đến 
  19. giống nòi cũng như các quan niệm về giá trị trong xã hội. ­ Thiếu tiếp cận với các nguồn thông tin chính xác: VTN phần  nào được cung cấp thông tin về  SKSS, về  các biện pháp tránh thai. Tuy   nhiên, những thông tin này chưa được đầy đủ, đặc biệt là các thông tin về  bệnh nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục. Nguồn thông tin chính  xác và tin cậy thì khó tiếp cận. Ví dụ như: VTN thiếu cả những thông tin   cơ  bản về  tình dục an toàn và phòng tránh thai ngoài ý muốn. Việc triển  khai các chương trình giáo dục, các mô hình can thiệp cho VTN về SKSS,   an toàn tình dục và phòng chống HIV/AIDS còn ít và chưa đầy đủ. Phần   lớn các chương trình can thiệp chỉ  nhằm vào yếu tố  nguy cơ  và bệnh tật   hơn là quan tâm xây dựng môi trường lành mạnh để từ đó giảm thiểu các   yếu tố nguy cơ và khuyến khích các yếu tố bảo vệ. ­ QHTD   trước   hôn  nhân  ở  VTN:  Tình  trạng  QHTD   trước   hôn  nhân đã trở nên khá phổ biến ở VTN. Tuy nhiên, môi trường xã hội không  ủng hộ khiến cho các bạn trẻ gặp phải khó khăn khi cần được tư vấn, hỗ  trợ cụ thể để quyết định hành vi tình dục của mình. Bên cạnh đó, tình dục  đồng giới là vấn đề  rất nhạy cảm, thậm chí còn là điều cấm kỵ, khiến   cho việc thảo luận và chia sẻ các quan điểm về sở thích, hành vi tình dục   của VTN càng trở nên khó khăn hơn. ­ Ít tiếp cận với BCS: Hầu hết VTN đều biết được tác dụng của   BCS nhưng thái độ đối với BCS còn khá tiêu cực, đồng nhất việc sử dụng   BCS với QHTD không đúng đắn và vấn đề mại dâm, điều này cũng là một   sự cản trở cho VTN trong việc sử dụng BCS. ­ Thiếu hiểu biết về HIV/AIDS: Có mối liên hệ giữa trình độ học  vấn của VTN và hiểu biết về HIV/AIDS. Trong số VTN chưa bao giờ đến  trường thì có gần ¼ chưa bao giờ  nghe nói về  HIV/AIDS. Mặc dù đa số 
  20. VTN có nhận thức cao về  HIV/AIDS, nhưng mức độ  nhận thức không  đồng  nghĩa   với  tính  chính  xác  của  kiến  thức.  Với  khoảng  70%  người   nhiễm HIV trong độ  tuổi dưới 30 là bằng chứng cho thấy sự  thiếu kiến  thức và thiếu kỹ năng đã khiến cho VTN chưa có khả năng thực hành hành   vi TDAT và  không biết cách tự bảo vệ mình tránh lây nhiễm HIV/AIDS.   Bên cạnh đó, sự  kỳ  thị  với người nhiễm HIV cũng là một vấn đề  khiến  cho việc phòng lây nhiễm HIV/AIDS trong nhóm VTN trở  nên khó khăn  hơn. ­ Thiếu tiếp cận với các dịch vụ  y tế  có chất lượng: Tình hình  tiếp cận các dịch vụ y tế, nhất là các dịch vụ y tế công ở tất cả các nhóm  VTN rất thấp, đặc biệt  ở  những nhóm thiệt thòi như  VTN đường phố,  khuyết tật, VTN dân tộc thiểu số…[6]. Theo một nghiên cứu của Lê Huỳnh Thị Cẩm Hồng và Trương Trọng  Hoàng năm 2008, những kiến thức về những thay đổi bình thường  ở tuổi  dậy thì và kiến thức về điều kiện tiếp xúc giữa nam và nữ  có thể  có thai  là được biết đến nhiều nhất vì đây là những kiến thức phổ thông và tương   đối dễ  tiếp cận hơn so với một số chủ đề  tế  nhị  khác như  thủ  dâm, nạo   phá thai (NPT), các BPTT và các BLTQĐTD có ít học sinh có kiến thức   đúng. Tỷ  lệ  học sinh có kiến thức chung đúng về  các vấn đề  giới tính  không cao (31,5%). Điều này cho thấy việc cung cấp kiến thức cho các em  học sinh hiện nay là vô cùng cần thiết [17]. Nhìn chung phần lớn học sinh không chấp nhận việc QHTD trước   hôn nhân nhưng vẫn còn một tỷ lệ khá cao (20,3%) coi việc QHTD ở tuổi   VTN là bình thường trong tình yêu. Cuộc khảo sát cũng cho thấy những   học sinh nam có thái độ đồng ý việc QHTD  ở tuổi VTN cao gấp 2,87 lần   so với học sinh nữ. Có đến gần phân nửa số học sinh tham gia nghiên cứu 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1