intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo: Vi sinh vật gây độc trong thực phẩm

Chia sẻ: Võ Vương | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:50

183
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Báo cáo "Vi sinh vật gây độc trong thực phẩm" có mục đích chính như: Nâng cao hiểu biết về nguy hại của các loại thực phẩm, các khâu phân phối và chế biến không hợp vệ sinh làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người tiêu dùng, thực hiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở tất cả các khâu từ nguồn nguyên liệu đến chế biến và quản lý,..

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo: Vi sinh vật gây độc trong thực phẩm

  1. BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ Độc chất học môi trường Đề tài: 1
  2. MỤC LỤC DANH MỤC HÌNH 2
  3. DANH MỤC BẢNG BIỂU 3
  4.   A.  ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài  Vi sinh vật có khắp mọi nơi xung quanh chúng ta, chúng có thể  tồn tại  ở  bất cứ môi trường nào (đất, nước, không khí, bên trong cơ thể sống). Để tồn  tại được trong môi trường, chúng sẽ “ăn” tất cả  nguồn chất hữu cơ nào mà  chúng “gặp” phải. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong sự  phân giải các  chất. Tuy nhiên, đối với quá trình bảo quản thực phẩm thì sự  phân giải này  lại gây ra trở ngại to lớn, các chủng loại vi sinh vật trong quá trình sống của   mình sẽ gây hư hỏng, ôi thiu thực phẩm, ngoài ra các dịch thể mà chúng tiết  ra còn có thể gây ngộ độc cho con người.  Theo thống kê của Tổ  chức Y tế  thế  giới (WHO), mỗi năm thế  giới ghi  nhận có 420.000 người chết vì các vấn đề liên quan đến thực phẩm không an  toàn. Đó là những thực phẩm chứa chất độc hại như vi khuẩn, virus, ký sinh  trùng, các chất hóa học.... , là nguyên nhân gây ra hơn 200 loại bệnh tật khác  nhau từ tiêu chảy đến bệnh ung thư.  Hiểu   được   sự   nguy   hiểm   của   vấn   đề   trên   nhóm   sinh   viên   Khoa   Môi   trường và Tài nguyên trường Đại học Nông Lâm TP. HCM quyết định thực   hiện tiểu luận với đề tài “VI SINH VẬT GÂY ĐỘC TRONG THỰC PHẨM”   dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Lê Quốc Tuấn nhằm mục đích phục vụ cho   việc nghiên cứu, học tập.  Mặc dù có nhiều sự cố gắng nhưng do thời gian học tập tương đối ngắn  và kiến thức chuyên môn chưa vững chắc, bài làm sẽ không tránh khỏi thiếu   sót, mong thầy và các bạn cùng xây dựng để hoàn thiện hơn. Xin cảm ơn! 2. Mục đích đề tài 4
  5.  Nâng cao hiểu biết về  nguy hại của các loại thực phẩm, các khâu phân  phối và chế  biến không hợp vệ  sinh làm  ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe   của người tiêu dùng.  Thực hiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở tất cả các khâu từ nguồn  nguyên liệu đến chế biến và quản lý.   Đưa ra những biện pháp xử lý thích hợp những vệ sinh an toàn thực phẩm  thích hợp nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và sức khỏe cộng   đồng. 3. Nội dung đề tài Nguồn gốc, nguyên nhân có sự xuất hiện của vi sinh vật trong thực   phẩm Ảnh hưởng của vi sinh vật đến thực phẩm Tác động  của một só độc chất sinh ra trong quá trình chế biến Cách phòng tránh thực phẩm chưa nhiễm vi sinh vật và an toàn cho  sức khỏe con người Vi sinh vật trong thực phẩm và cách phòng ngừa 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp tổng hợp biên dịch tài liệu: tổng hợp các tài liệu đã thu thập  liên quan đến đề tài đang nghiên cứu.  Phương pháp tham khảo ý kiến giảng viên. 5
  6. B.  NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC, NGUYÊN NHÂN CÓ SỰ  XUẤT HIỆN  CỦA VI SINH VẬT TRONG THỰC PHẨM 1. Vai trò của con người  Sự  hiểu biết của con người trong quá trình sống, lao động, phát triển đã  nhận biết nguồn thức ăn thiên nhiên rất phong phú từ  thực vật, động vật   luôn có sự  cộng sinh đã tàn phá và phân hủy một khối lượng khổng lồ  vật   chất hữu cơ  để  tạo thành năng lượng và các thành phần vô cơ  như  nitrat,   sulfat v.v... Nhận biết tiếp theo là khi theo dõi, khảo sát trong các phòng thí  nghiệm với các nguồn thức nă thiên nhiên nếu không có biện pháp xử lý bảo  quản chủ động đã nhận thấy có sự tác động của vi sinh vật  và được các nhà  khoa học phân loại thành ba nhóm: vi khuẩn (bacteria), nấm mốc (molds) và   nấm men (yeasts).   Một số loại vi khuẩn, nấm mốc, nấm men và động vật đơn bào theo thứ  tự  bảng chữ  cái được giới thiệu theo bảng 1 dưới đây. Mỗi loại vi sinh vật  thường có yêu cầu về thành phần chất dinh dưỡng và môi trường sống đặc  thù. Có tám nguồn đối tượng quan trọng có thể gây ô nhiễm vi sinh vào thực   phẩm. Bảng   1:   Một   số   chủng   loại   vi   sinh   vật   thường   gây   ô   nhiễm   thực  phẩm: A. Vi khuẩn (Bacteria) Acinetobacter Enterobacter Pediococcsu Aeromonas Erwnia Proteus Alcaligenes Escherichia Pseudomonas Alteromonas Flavobacterium Psychrobacter Bacillus Hafnia Salmonella Brochthrix Lactococcus Serratia Campylobacter Lactobacillus Shewanella Carnobaterium Leuconostoc Shigella Citrobacter Listeria Staphylococcus 6
  7. Clostridium Micrococcus Vagococcus Corynebacterium Moraxella Vibrio Enterococcus Pantoea Yersinia B. Nấm mốc (Molds) Alternaria Cladosporium Penicillium Aspergillus Colletotrichum Rhizopus Aureobasidium Fusarium Thanidium Botrytis Geotrichum Trichothecium Byssochlamys Monilia Wallemia Mucro Xeromyces C. Nấm men (Yeasts) Brettanomyces Issatchenkia Schizosaccharomyces Candida Kluyveromyces Torulaspora Cryptococcus Pichia Trichosporon Debaryomyces Rhodotorula Zygosaccharomyces Hanseniaspora Saccharomyces D. Động vật nguyên sinh (Protozoa) Cryptosporidium paryum Giardia lamblia Entamoeba histolytica Toxoplasma gondii (* Tên loài vi sinh vật gạch chân là loại thường gặp) 2.  Nguồn đối tượng gây ô nhiễm  Đất và nước Hai môi trường đất và và nước được xếp chung do có nhiều loài vi sinh vật đều  cư trú ở cả đất và nước. Các loài vi sinh vật sống trong đất và nước có thể theo  khí quyển phát tán khắp  bốn phương do tác động của gió và nước mưa. Một số  loài vi khuẩn sống trong nước có thể không sống được trong đất, đặc biệt là vi  khuẩn sống ở nước mặn như chủng Alteromonas spp. ưa sống trong nước mặn.  Cây ngũ cốc và sản phẩm rau quả Các loài vi sinh vật sống trong đất và nước thường gây ô nhiễm cho các cây thực  phẩm và sảm phẩm của chúng, chủ  yếu là vi khuẩn, nấm mốc, nấm men trong  đó   có   nhiều   chủng   gây   bệnh   như:  Cornybacterium,   Curtobacterium,   Pseudomonas và Xanthomonas. 7
  8.  Vật chứa thực phẩm Khi thu hoạch sản phẩm nông nghiệp hoặc trong quá trình chế  biến, thực phẩn  được chứa đựng trong bao bì hoặc vật chứa đựng hay qua các dụng cj chế biến   như dao, thớt, máy xay nghiền, nồi nấu rất dễ bị ô nhiễm bỡi các chủng vi sinh  vật.  Đường tiêu hóa của người và động vật Hệ vi khuẩn đường ruột dễ gây ô nhiễm thực phẩm từ phân người và động vậy   trong đó có vi khuẩn gây bệnh như  Salmonella  và cả  4 động vật nguyên sinh  được giới thiệu trong bảng 1. Các loài này thường gây ô nhiễm nguồn nước và  lan rộng do sử dụng các nguồn nước không sạch để rửa thực phẩm.  Tay người chế biến Nguồn ô nhiễm từ  tay người dich vụ  ăn uống và trang phục nhà ăn tại các xí   nghiệp thực phẩm thường phản ánh điều kiện vệ  sinh của môi trường và dễ  nhiễm vi khuẩn gây bệnh từ  đất, nước, bụi trong không khí hoặc qua lỗ  mũi,  miệng, tay và da của người qua quá trình thực hành thiếu vệ sinh.  Thức ăn gia súc Thức ăn gia súc là nguồn nhiễm   Salmonella  phổ  biến cho gia súc và gia cầm.   Nếu là cỏ rơm khô có thể  là nguồn gây nhiễm Listeria monoacytogenes cho sản  phẩm sữa và thịt. Thức ăn biến ở dang khô cũng tiềm ẩn nhiều loài vi sinh vật có   khả năng phát tán cao.  Cơ thể động vật Trong trường hợp là sữa bò các chủng vi sinh vật được phát hiện thường phản  ảnh từ môi trường chăn nuôi, nguồn thức ăn gia súc và cơ thể động vật sẽ gây ô   nhiễm trở lại môi trường, vật chứa đựng, sữa và người chăn nuôi, thu gom, vắt  sữa... 8
  9.  Không khí và bụi Phần lớn các chủng vi sinh vật được ghi trong bảng 1 đều có thể gặp trong bụi   và không khí sẽ gây ô nhiễm trong quá trình chế biến, bảo quản thực phẩm, chủ  yếu là các vi khuẩn gram dương. 9
  10. CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA VI SINH VẬT ĐẾN THỰC PHẨM 1. Quá trình lên men a. Ưa ấm (Mesophilic) Trong quá trình lên men sữa  ở các vi sinh vật  ưa  ấm, acid được tạo ra   dẫn đến sự biến tính protein. Để thực hiện quá trình này, người ta thường bổ  sung vào sữa giống khởi động mong muốn, ủ chúng ở điều kiện nhiệt độ tối   ưu (20°C­30°C), sau đó ngăn cản sinh trưởng của vi khuẩn bằng việc làm  lạnh. Chủng Lactobacillus. spp và Lactococcus lactis được nuôi cấy để  tạo  hương và tạo acid. Lactococcus lactis subsp. diacetilactis có khả  năng chuyển  hóa citrate trong sữa thành diacetyl, chất này làm nên hương vị  bơ  đặc biệt  của sản phẩm cuối cùng. b. Ưa nhiệt (Thermophillic) Quá trình lên men được tiến hành ở nhiệt độ 45°C. Một ví dụ điển hình   của dạng lên men này là sản xuất sữa chua. Sữa chua được tạo ra nhờ  sử  dụng  giống   khởi   động   là S.thermophilus và L.bulgaricus theo  tỷ   lệ   1:1.   Sự  phối   hợp   hài   hòa   2   chủng   vi   khuẩn   này,   trong   đó   acid   được   tạo   ra  nhờ Streptococcus, còn hương liệu lại được tạo ra nhờ Lactobacillus sẽ  tạo  ra sản phẩm cuối là sữa chua có chứa 109 vi khuẩn trên 1 gam. c. Chữa bệnh (Therapeutic)  Các loại sữa lên men được cho là có nhiều hiệu quả  chữa bệnh. Sữa   Acidophilus được sản xuất nhờ Lactobacillus acidophilus. Vi khuẩn này có  thể biến đổi quần thể vi sinh trong ruột già, tiêu hóa. Nhiều loại vi sinh vật   trong sản phẩm lên men bơ  sữa trở  nên  ổn định trong các quần thể  vi sinh   đường ruột, và một số loại xuất hiện có các đặc tính kháng khuẩn.  Về bản chất của việc bảo vệ sức khỏe vẫn chưa thực sự rõ ràng, nhưng   có thể do khả năng kích thích sự hấp thu lactose, qua đó giảm cholesterol, và  10
  11. các hoạt động chống ung thư. Nhiều Lactobacillus có các hợp chất chống sự  tạo thành u trong các thành tế  bào của chúng. Như  vậy, chế độ  ăn bao gồm   các vi khuẩn sinh acid lactic, đặc biệt L.acidophilus, có thể đóng góp vào việc  kiểm soát ung thư ruột kết.  Một   nhóm   đáng   chú   ý   khác   được   sử   dụng   trong   lên   men   sữa   là  bifidobacteria. Bifidobacterium là các trực khuẩn Gram dương, không sinh bào  tử, có dạng chùy hoặc hình chữ chi ở tận cùng. Bifidobacteria không di động,  kị  khí, và lên men lactose cùng các loại đường khác thành acid axetic và acid  lactic. Chúng cư trú đặc biệt trong ruột người và được phát hiện từ năm 1906.   Nhiều đặc tính có lợi của vi khuẩn này là duy trì sự  cân bằng bình thường   trong ruột, và cải thiện khả năng chịu lactose, có các hoạt tính chống ung thư;   giảm thiểu nồng độ cholesterol trong máu. Thêm vào đó, một số giả thiết cho   rằng chúng kích thích sự hấp thu canxi và tổng hợp phức hệ vitamin B. Nhóm  vi khuẩn này cũng được cho là có khả năng làm giảm và ngăn cản sự bài tiết  các rotavirus, một nguyên nhân gây ra bệnh tiêu chảy  ở  trẻ  nhỏ. Các sản  phẩm sữa lên men hiện nay đang có rất nhiều loại trên thế giới . d. Sản xuất phomat  Phomat là một trong số thực phẩm lâu đời nhất đã làm ra được cách đây   gần 8000 năm. Có khoảng 2000 loại phomat khác nhau được sản xuất trên  thế giới và khoảng 20 loại thông dụng. Các loại phomat thường được phân   loại dựa trên kết cấu hoặc độ rắn như: phomat mềm (phomat, kem, phomat   mềm   của   Pháp),   phomat   bán   mềm   (Muenster,   Limburger,   phomat   xanh),   phomat cứng (cheddar, Colby, Thụy Sỹ), hoặc rất cứng (Parmesan). Tất cả  các loại phomat là kết quả  của sự  lên men acid lactic từ sữa, quá trình này   làm cho các protein sữa đông tụ  và hình thành nên sữa đông. Rennin, một  loại từ  dạ  dày bê, hiện nay đã được sản xuất bởi các vi sinh vật nhờ  kĩ   thuật di truyền, được sử  dụng để  thúc đẩy quá trình hình thành sữa đông.  Sau khi sữa đông được hình thành, đun nóng rồi ép để loại bỏ nước, sau đó   bổ sung muối và làm chín. 11
  12. Hình 1: Sản xuất phomat Chedda.  Cheddar là một làng của nước Anh, được lấy tên để đặt cho loại phomat  mà nhiều nơi trên thế giới sản xuất (Theo Prescott­Harley­Klein, 2002)  Sữa đông có thể được đóng gói để làm chín mà không cần bổ sung vi sinh   vật. Quá trình  ủ  sữa đông để  sản xuất phomat Roquefort thường được bổ  sung nấm sợi Penicillium roqueforti trước công đoạn cuối cùng. Đôi khi bề  mặt của phomat được hình thành tại thời điểm bắt đầu của việc làm chín ví  dụ,   phomat   Camembert   được   bổ   sung   bào   tử   của   nấm   sợi  Penicillium  camemberti.Độ  cứng cuối cùng của phomat một phần quyết định thời gian  làm chín. Các loại phomat mềm được làm chín chỉ trong 1 đến 5 tháng, trong  khi đó phomat cứng cần từ 3 đến 12 tháng, và loại rất cứng thì từ 12 đến 16   tháng như Parmesan.  Quá trình làm chín cũng là yếu tố  quyết định chất lượng của phomat  Thụy Sỹ. Sự tạo khí nhờ Propionibacterium góp phần tạo nên hương vị cuối  cũng như  hình thành các lỗ  và tạo mắt của phomat. Một vài loại phomat   được ngâm trong nước muối để  kích thích sự  phát triển của một số loại vi  khuẩn và nấm đặc thù; Limburger là một loại phomat như vậy. e. Thịt và cá Bên cạnh sự  lên men của các sản phẩm phomat, nhiều sản phẩm khác  12
  13. như thịt, đặc biệt là xúc xích cũng có thể được lên men: thịt lợn hun khói, xúc   xích mùa hè, xúc xích Ý, xúc xích ngắn, xúc xích Lebanon, nước mắm (được  tạo thành bởi vi khuẩn Bacillus ưa mặn), izushi và katsuobushi. Pediococcus  cerevisiae và Lactobacillus plantarum hầu hết có liên quan đến quá trình lên  men xúc xích. Izuzhi là sản phẩm lên men cá tươi, gạo và rau xanh bởi vi   khuẩn Lactobacillus spp; katsuibushi là kết quả  của sự  lên men của cá ngừ  nhờ vi khuẩn Aspergillus glaucus. Cả hai loại lên men thịt này đều có nguồn  gốc từ Nhật Bản. f.  Sản xuất đồ uống chứa cồn  Nhiều   nguồn   thực  vật có chứa hàm lượng carbonhydrat phong phú được sử dụng để  sản xuất   đồ uống chứa cồn. Chẳng hạn, nước nho ép được sử dụng để lên men rượu  vang. Người ta sử dụng phương pháp diệt khuẩn Pasteur hoặc dùng sunfua  dioxit, sau đó bổ  sung các vi sinh vật mong muốn vào nước nho ép để  lên   men.  Ngược lại, trước khi ngũ cốc và các nguồn tinh bột khác được sử  dụng   cho sản xuất rượu, hợp chất carbonhydrat phải được thủy phân. Các hợp  chất này được trộn với nước và được  ủ, quá trình này được gọi giai đoạn  đường hóa (mashing). Sau đó, những nguyên liệu không tan được loại ra để  tạo thành hèm rượu ­ một dung dịch trong có chứa đường được lên men.  Nhiều thủ thuật được sử dụng trong việc kiểm soát sự thủy phân protein và   carbonhydrate để tạo ra hương vị mong muốn của sản phẩm cuối cùng. g. Rượu vang và Sâm banh  Sự sản xuất rượu vang bắt đầu bằng việc thu thập nho, ép lấy dịch, rồi   lên men nhờ  các vi sinh vật, tiếp đến là giai đoạn bảo quản và làm chín   rượu (hình 19). Rượu vang (vin) là rượu lên men không chưng cất từ  nước   ép nho (hay sau này mở rộng ra là nước chiết xuất bằng đường một số loại   hoa quả  khác). Rượu vang tuỳ  loại mà có nồng độ  êtanol thay đổi từ  8%  13
  14. đến 13%. Không có nước nào (trừ một số công ty ở nước ta!) có chuyện bổ  sung cồn (etanol nồng độ  cao) là rượu vang để  điều chỉnh nồng độ  êtanol   lên 12­13% (giúp bảo quản được ổn định). Hình 2: Sơ đồ quá trình làm rượu vang (Theo Prescott­Harley­Klein,  2002)  Tất cả dịch nho ép đều có màu trắng, do đó để làm rượu vang đỏ thì vỏ  nho phải được tiếp xúc với nước ép trước khi lên men để các hợp chất tạo   màu được chiết ra từ  vỏ. Rượu vang có thể  được tạo thành bằng cách sử  dụng vi sinh vật có sẵn trong vỏ  nho. Hỗn hợp tự  nhiên của vi khuẩn và  nấm men có thể tạo thành những sản phẩm lên men không mong muốn. Để  tránh vấn đề  này, có thể  xử  lý nước ép nho với sulfur dioxide và bổ  sung   chủng Saccharomyces cerevisiae hoặc S. elipsoideus đã lựa chọn. Sau khi  ủ,  14
  15. nước ép được lên men từ  3­5 ngày  ở  nhiệt độ  20­28oC. Tùy theo mức độ  chịu cồn của từng chủng nấm men, sản phẩm cuối cùng có thể  chứa từ  10   ­18% rượu etanol. Sự làm trong và tạo hương vị xảy ra trong suốt quá trình   làm chín rượu.  Một phần quan trọng của quá trình sản xuất rượu là việc lựa chọn đẻ  tạo ra rượu vang khô (dry wine – không chứa đường tự do) hay là rượu vang   ngọt (sweeter wine – chứa một lượng đường tự  do). Việc này có thể  được  kiểm soát khi điều chỉnh nồng độ  ban đầu của đường trong nước nho ép.  Trong sản xuất rượu vang ngọt, với hàm lượng đường cao hơn, rượu sẽ  tích lũy do đó kìm hãm sự lên men trước khi đường được sử dụng hoàn toàn.  Trong suốt thời gian lên men cuối cùng của giai đoạn làm chín, những hợp  chất có mùi thơm thường được tích lũy và tạo ra hương vị của rượu.  Sự  sinh trưởng của vi sinh vật trong suốt quá trình lên men tạo ra chất  lắng cặn, sau đó được loại bỏ trong quá trình chắt rượu. Công đoạn này có  thể  được tiến hành  ở  thời điểm rượu đã được lên men và chuyển vào chai  hoặc thùng để làm chín, hoặc thậm chí sau khi rượu đã được đóng chai.  Nước Pháp nổi tiếng với rất nhiều loại rượu vang mang tên các vùng  trồng   nho   như   Bordeaux,   Alsace,   Bergerac,   Mâcon,   Beaujolais,   Côtes   du  Rhône, Coteaux du Lyonnais, Clairette de Die, Anjou, Touraine, Corse, Jura  và Champagne. Ngoài rượu vang của Pháp cũng còn có nhiều loại vang nổi   tiếng của các nước khác. Có thể  kể  đến vang Kendall ­ Jackson của vùng  California / Mỹ (giá 12­220 USD/chai), vang Vitiano của vùng Lazio / Ý (giá   9­30   USD/chai,   vang   Kendal­Jackson   của   New   Zealand   (giá   13­160  USD/chai), vang Santa Cristina của vùng Toscana /Ý (giá 7­12 USD/chai),  vang  Monte  Anticio cũng  của  vùng  Toscana/Ý  (giá  9­22 USD/chai),  vang  Ruca Malen của Argenetina (giá 5­10 USD/chai), vang Borgo Maddalena của   vùng Nimis/Ý (giá 13­30 USD/chai)... Các loại rượu vang này gần đây được  mua bán rất nhiều qua mạng Internet. 15
  16.  Champagne (Sâm banh) là rượu vang nổi tiếng đã được sản xuất cả  tại   nhiều nước  khác. Riêng vùng Champagne (Pháp) sản xuất mỗi năm 200  triệu chai. Napoléon Bonaparte đã từng có câu nói nổi tiếng: “Khi thắng trận  ta uống Champagne để ăn mừng, khi thua trận ta uống Champagne để tự  an  ủi mình”. Đặc biệt , Champagne là loại rượu sủi bọt và nổ  mạnh khi mở  nút (được gọi là Sparkling Wine). Chất lượng cao của rượu Champagne   quyết định bởi nhiều nhân tố: loại nho trắng Chardonnay, nho đỏ Pinot Noir,  Pinot Meunier, lên men hai lần ­ một lần trong các thùng lớn làm bằng gỗ  sồi có nút bật lên bật xuống kêu rầm rập (để cho CO2thoát ra mà không cho  O2 lọt vào) và một lần trong các chai thành dầy và cắm ngược lên giá gỗ có  xoay bằng tay theo các độ  nghiêng khác nhau. Cả  nấm men sẽ lắng dầu  ở  đầu cổ  chai, sau đó có thiết bị  mở  và đóng nắp thật nhanh để  làm bật cặn   ra. Cuối cùng đóng chặt lại bằng nút bần (liège), khí CO2  (gas) trong chai  Champagne là CO2 sinh ra trong quá trình lên men lâu dài chứ  không phải   CO2 nén từ  ngoài vào như  cái gọi là Sâmbanh sản xuất tại nhà máy... phân   đạm Bắc Giang. Lượng bọt tiêu chuẩn phải khoảng 56. 000. 000 bọt trong 1  chai! (750ml). Trước khi uống cần chuẩn bị ly cao (để bọt có đường đi dài   từ  đáy cốc lên miệng). Rót rượu vào ly không nên rót quá nửa ly và phải  chuẩn bị  chậu chứa nửa nước đá, nửa nước để  ngâm chai 20­30 phút. Độ  rượu của Champagne thường chỉ  ở mức 12% mà thôi. Các chữ  VS, VSOP,   VVSOP   trên  nhãn  chai  là   biểu  thị   thời   gian  bảo  quản  lâu  dài  của   rượu   Champagne (Very superior, Very Superior Old Pale,Very, Very superior Old  Pale). Giá một chai 22 năm tuổi hiện nay là khoảng 300 euros (khoảng 5,6   triệu đồng) 16
  17.  Rượu sâm banh tự  nhiên được sản xuất bằng cách duy trì lên men trong  chai để tạo ra rượu vang sủi tăm tự nhiên. Những chất cặn lắng tập trung ở  phần cổ  chai, sau khi cổ chai được đảo ngược một cách cẩn thận, rồi làm  lạnh, sau đó nút chai được mở để đổ những chất cặn bã đã tích tụ. Các chai  này được rót đầy lại bằng sâm banh đã lọc trong từ  chai đã được đổ  chất  cặn bã ra, và sản phẩm sẵn sàng cho đóng hộp cuối cùng và dán nhãn. Hình 3: Champagne  Bánh men là một sáng tạo độc đáo của nhân dân ta (và một số nước Đông   Nam Á khác). Trong bánh men thuốc bắc (phối trộn bột với một số  thuốc   bắc) hay men lá (phối trộn với một số loại lá cây được lựa chọn theo kinh   nghiệm)   luôn   luôn   thuộc   chiSaccharomycopsis có   khả   năng   chuyển   bột  thành   đường   và   một   là   nấm   men   thuộc   chi  Saccharomyces  có   khả   năng  chuyển đường thành rượu.  Rượu Sake cũng là một loại rượu không chưng cất nổi tiếng của Nhật.  Công nghệ sinh học của Nhật có thể coi như bắt đầu từ các ngfhiên cứu về  rượu sakê và người đi tiên phong là nhà khoa học Jokichi Takamine. 2. Hư hỏng thực phẩm  Vì thực phẩm là nguồn dinh dưỡng dồi dào, cho nên nếu có điều kiện bên   trong và bên ngoài thích hợp, vi sinh vật sinh sẽ  sinh trưởng nhanh chóng,   biến những thực phẩm bổ  dưỡng và ngon miệng trở  nên có vị  chua, có mùi  hôi hay được bao phủ  bởi nấm. Sự  sinh trưởng của vi sinh vật trên thực  phẩm có thể dẫn tới sự thay đổi dễ nhìn thấy bởi các màu sắc phong phú do   17
  18. vi sinh vật sinh ra. Một trong những thông báo nổi tiếng về  chuyện này đã   được công bố  từ  năm 1263. Năm 1870, Bartolomeo Bizio miêu tả  loại vi   khuẩn   là   tác   nhân   của   hiện   tượng   tạo   màu   này.   Đó   là   vi   khuẩn  Serratia  marcescens.  Sữa vón cục do trải qua 4 giai đoạn tự nhiên của các vi sinh vật làm hỏng  sữa. Kết quả là tạo ra các cục sữa và dịch sữa. (Theo Prescott­Harley­Klein,   2002)  Thịt   và   những   sản   phẩm   bơ,   với   giá   trị   dinh   dưỡng   cao,   chứa   các  carbohydrat dễ sử dụng, lipid và protein, là điều kiện lý tưởng cho vi sinh vật  phát triển. Phân giải protein và thối rữa là kết quả điển hình của sự phá hỏng  thực phẩm ở các nguyên liệu giàu protein đó. Khi sữa không được tiệt trùng,  quá   trình   làm   hỏng   sữa   sẽ   trải   qua   4   bước,   sự   sản   xuất   ra   acid  bởi Lactococcus lactis subsp.lactis có liên quan đến sự sinh trưởng của vi sinh  vật chịu được acid. Nấm men và nấm sợi do có khả  năng phân giải các acid   lactic tích tụ  làm cho lượng acid giảm đi. Cuối cùng, các vi khuẩn phân giải  protein bắt đầu hoạt động, dẫn tới phá hủy mùi vị  thực phẩm. Sữa đó ban  đầu mờ đục, cuối cùng có thể trở nên trong suốt (hình 2) 18
  19.  So với thịt và bơ sữa, hầu hết hoa quả, rau xanh có ít protein và lipid hơn   nên sẽ bị hư  hỏng theo kiểu khác. Rau xanh bị  hư hỏng là do vi khuẩn, đặc   biệt   là   vi   khuẩn   gây   thối Erwinia   carotovora tiết   enzym   thủy   phân  carbohydrate. Khi thế oxi hóa khử cao và thiếu điều kiện khử cho phép thì vi   khuẩn hiếu khí và hiếu khí không bắt buộc sẽ  tham gia vào quá trình phân  hủy. Vi khuẩn dường như không đóng vai trò quan trọng trong sự  phá hỏng   ban đầu của hầu hết trái cây mà chính là vi nấm. Những loại nấm này tiết  enzym và xâm nhập qua lớp vỏ bảo vệ bên ngoài.  Việc làm hư hỏng cũng xảy ra tương tự như vậy với những sản phẩm từ  cam quýt được chế biến đông lạnh. Những sản phẩm này dường như ít hoặc   không   trải   qua   xử   lý,   việc   làm   hỏng   chính  do Lactobacillus và Leuconostoc gây ra,  những  vi khuẩn  này  tạo mùi  thơm  của   diacetyl.   Nấm   men Saccharomyces và Candida cũng   có   thể   làm   hỏng  nước ép trái cây. Nước ép trái cây cô đặc có hoạt độ của nước giảm (aw  = 0.  8 đến 0. 83), và khi giữ  trong tủ  lạnh khoảng ­9 oC, chúng có thể  được bảo  quản trong một thời gian dài. Tuy nhiên, khi nước ép cô đặc được pha loãng  với nước có chứa vi sinh vật, hoặc là nước ép được bảo quản trong vật chứa  rửa không sạch thì sẽ bị hư hỏng. Tương tự như vậy, vi sinh vật trong nước   ép cô đặc làm lạnh có thể bắt đầu quá trình làm hỏng sau khi thêm nước vào.  Nước ép dùng ngay cũng xuất hiện các vấn đề khác, như giá trị aw  đủ cao sẽ  cho phép vi sinh vật sinh trưởng. Điều này đặc biệt đúng khi cất giữ nước ép  ở  nhiệt độ  lạnh. Mặc dù có thể  dùng biện pháp khử  trùng, nhưng hầu hết   những người tiêu dùng nhạy cảm với sự mất vị thơm ngon tự nhiên do khử  trùng gây ra. 19
  20. Hình 5: Sự làm hỏng thực phẩm khi thực phẩm không được bảo quản thích hợp,  các vi sinh vật có thể gây hư hỏng. Ví dụ: (a) bánh mỳ, (b) ngô  (Theo Prescott­Harley­Klein, 2002)  Vi nấm là vấn đề  đặc biệt của cà chua. Thậm chí khi chỉ  thấy vết thâm  tím nhẹ nhất trên vỏ cà chua, nhưng nếu bóc ra, sẽ thấy sự sinh trưởng của   nấm.   Những   chi   nấm   được   gặp   thường   xuyên   bao   gồm Alternaria,  Cladosporium,   Fusarium và Stemphylium.   Sự   sinh   trưởng   của   chúng   ảnh  hưởng tới chất lượng của sản phẩm cà chua, bao gồm nước ép cà chua và   nước sốt cà chua nấm.  Vi nấm có thể  sinh trưởng nhanh trên những hạt ngũ cốc nếu bảo quản   trong điều kiện  ẩm  ướt (hình 3). Sự  xâm nhập của   Claviceps purpura vào  hạt gây ra sự nhiễm độc ergotin. Chất gây ảo giác alkaloid được sinh ra bởi   nấm này có thể dẫn tới biến đổi tập tính, phát triển không đầy đủ, và có thể  chết nếu ăn phải hạt bị nhiễm khuẩn.  Các tác nhân gây ung thư  từ  nấm bao gồm các aflatoxin và các fumonisin.  Aflatoxin  được tạo ra  ở  hầu hết các sản phẩm quả  và hạt  ẩm  ướt thông  thường. Aflatoxin được phát hiện vào năm 1960, khi 100,000 con gà tây chết   do ăn phải bột xay lạc (đậu phộng) bị nhiễm độc bởi nấm  Aspergillus flavus.  Những hợp chất vòng phẳng hai chiều xen vào giữa acid nucleic và hoạt  động như  một đột biến dịch khung­ chất gây ung thư. Điều này xảy ra đầu  tiên trong gan, chúng được chuyển sang dạng dẫn xuất không ổn định. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2