Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA HÁN - NÔM Ở ĐÀ NẴNG<br />
? PHẠM VĂN THANH<br />
<br />
*<br />
<br />
DI SẢN VĂN HÓA HÁN - NÔM LÀ NHỮNG<br />
THƯ TỊCH, TÀI LIỆU ĐƯỢC VIẾT BẰNG CHỮ<br />
HÁN VÀ CHỮ NÔM, LÀ KHO TÀNG TƯ LIỆU<br />
THÀNH VĂN VÔ CÙNG PHONG PHÚ CỦA NƯỚC<br />
TA. DI SẢN VĂN HÓA HÁN - NÔM ĐÃ TRỞ<br />
THÀNH MỘT BỘ PHẬN QUAN TRỌNG TRONG<br />
HỆ THỐNG DI SẢN VĂN HÓA QUÝ GIÁ CỦA<br />
DÂN TỘC, LÀ SỢI DÂY LIÊN KẾT GIỮA QUÁ<br />
KHỨ VỚI HIỆN TẠI, LÀ NGUỒN TƯ LIỆU QUAN<br />
TRỌNG GIÚP CHO THẾ HỆ HÔM NAY VÀ MAI<br />
SAU CÓ CƠ HỘI TÌM HIỂU VỀ CỘI NGUỒN LỊCH<br />
SỬ - VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC. HIỆN NAY, KHỐI<br />
TÀI LIỆU NÀY ĐANG ĐỨNG TRƯỚC NGUY CƠ<br />
BỊ THẤT THOÁT NÊN VIỆC BẢO TỒN VÀ KHAI<br />
THÁC CHÚNG MỘT CÁCH CÓ HIỆU QUẢ LÀ<br />
VIỆC LÀM HẾT SỨC CẤP THIẾT, NHẰM GÓP<br />
PHẦN XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM<br />
TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC.<br />
<br />
1. Căn cứ vào các ký tự lạ được khắc trên rìu đồng,<br />
trống đồng, lưỡi cày đồng thuộc nền văn hóa Đông<br />
Sơn và trên vách đá cổ ở Sa Pa (Lào Cai) vào giai đoạn<br />
văn hóa đồng thau phát triển - văn hóa Gò Mun, các<br />
nhà nghiên cứu cho rằng, trước thời kỳ Bắc thuộc,<br />
người Việt đã có chữ viết gọi là chữ Khoa đẩu (chữ<br />
viết hình con nòng nọc) thuộc văn tự ghi âm.1<br />
Đến năm 111 trước Công nguyên, nhà Hán đô hộ<br />
nước ta, và từ đó người Việt đã tiếp nhận chữ Hán.<br />
Nhà khoa học Tiệp Khắc là Cesmir Loukotca trong tác<br />
phẩm Lịch sử chữ viết thế giới xuất bản trước năm 1945<br />
đã cho biết: “Phía nam đế quốc Trung Hoa, trong vùng<br />
Đông Dương hiện nay, có nhà nước An Nam ngay từ thế<br />
kỷ thứ nhất trước Công nguyên đã bị người Hán thống<br />
trị. Chữ Trung Quốc do viên thái thú du nhập vào đây<br />
trước Công nguyên. Trước đó, hình như người An Nam<br />
đã đọc bằng chữ ghi âm riêng, chữ đó không còn đến<br />
*<br />
<br />
ngày nay”. Còn nhà nghiên cứu Terrien de la Couperie<br />
viết trong tạp chí Hàn lâm của Hoàng gia Anh, xuất<br />
bản năm 1887, đã cho rằng, Sĩ Nhiếp buộc người<br />
Việt học chữ Hán và cấm dùng chữ tượng thanh của<br />
mình.2<br />
Phải đến thế kỷ VIII - IX, nhân dân ta đã dựa trên<br />
cách cấu tạo hình thể của chữ Hán, cùng với cách đọc<br />
Hán - Việt để sáng tạo ra chữ Nôm, nhưng lúc này vẫn<br />
còn lẻ tẻ, chưa thịnh hành nên nhiều nhà nghiên cứu<br />
cho rằng, đây chỉ là giai đoạn đồng hóa chữ Hán, tức<br />
là dùng chữ Hán để phiên âm một số từ Việt lẻ tẻ.<br />
Nhưng dưới các triều đại nhà Lý (1009 - 1225), nhà<br />
Trần (1226 - 1400), chữ Nôm theo thời gian thịnh<br />
hành và phát triển song song cùng chữ Hán. Chữ<br />
<br />
Nhà nghiên cứu, thành phố Đà Nẵng.<br />
<br />
Phaùt trieån<br />
<br />
Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
<br />
33<br />
<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
Nôm được dùng để sáng tác văn học với tác phẩm<br />
thuần Nôm sớm nhất là Thiền tông bản hạnh thời Trần<br />
hiện vẫn còn lưu giữ được. Đến thế kỷ XVIII - XIX, chữ<br />
Nôm đã phát triển đến giai đoạn cực thịnh của nó và<br />
trên một vài phương diện thì nó còn lấn át cả địa vị<br />
của chữ Hán, các tác phẩm như: Hịch Tây Sơn, Truyện<br />
Kiều,… là ví dụ điển hình. Như vậy, chữ Nôm đã có<br />
một quá trình hình thành và sử dụng lâu dài ở Việt<br />
Nam, là phương tiện chuyển tải những giá trị truyền<br />
thống, biểu đạt những đặc trưng văn hóa, phản ánh<br />
nhân sinh quan và thế giới quan của lớp lớp người<br />
Việt qua hàng chục thế kỷ.3 Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ<br />
XIX, văn hóa phương Tây xâm nhập mạnh mẽ vào đời<br />
sống của người dân nước ta, chữ Latin, chữ Pháp dần<br />
dần thay thế chữ Hán và chữ Nôm.<br />
2. Hiện nay nguồn thư tịch Hán - Nôm ở nước<br />
ta còn lại khá nhiều, trong đó, Đà Nẵng tuy là vùng<br />
đất mới được hình thành vào thế kỷ XIV, nhưng lại<br />
là một trong những tỉnh thành ở Trung Bộ có nhiều<br />
danh nhân đã có những đóng góp vô cùng to lớn<br />
cho nền lịch sử, văn hóa của dân tộc như: Nguyễn<br />
Văn Thoại, Lâm Nhĩ, Thái Phiên, Ông Ích Khiêm, Trần<br />
Quang Diệu, Đỗ Thúc Tịnh, Nguyễn Hanh, Huỳnh Bá<br />
Chánh,… Nhiều nhà nghiên cứu nhận định, Đà Nẵng<br />
là một trong những mảnh đất ở miền Trung Việt Nam<br />
đã hun đúc lên những chí sĩ yêu nước, những dòng<br />
họ khoa bảng và họ đã để lại nơi đây nguồn tư liệu<br />
Hán - Nôm vô cùng có giá trị. Tuy nhiên, chiến tranh<br />
và thời gian đã làm cho nhiều di sản Hán - Nôm ở Đà<br />
Nẵng bị hủy hoại.<br />
Có thể nói, những tư liệu Hán - Nôm hiện còn lưu<br />
lại trên mảnh đất Đà Nẵng rất phong phú và đa dạng<br />
từ hình thức thể hiện đến nội dung, gồm: sắc phong<br />
thần cho các đình làng, điền bạ, trát văn, gia phả, thần<br />
phả, đơn khai, văn tế, văn cúng, di chúc, thơ văn, văn<br />
bia, văn chuông, hoành phi, câu đối, mộc bản,... phần<br />
nào đã phản ánh rõ nét tư duy khoa học, văn học<br />
nghệ thuật, tổ chức làng xã cũng như sinh hoạt xã<br />
hội của các bậc tiền nhân. Những thư tịch Hán - Nôm<br />
được viết hoặc khắc theo 4 kiểu chữ cơ bản là chữ<br />
Triện, chữ Lệ, chữ Hành và chữ Thảo trên các chất liệu<br />
đá, đồng, vải, gỗ, giấy,… Đây chính là nguồn di sản<br />
văn hóa thành văn vô cùng quý báu mà những bậc<br />
tiền nhân ở Đà Nẵng để lại.<br />
Ngày nay, bước vào những di tích cổ ở Đà Nẵng<br />
như các đình, chùa, lăng, miếu, hội quán, nhà thờ<br />
tộc họ, nhà cổ, mộ cổ,… hầu như chúng ta đều bắt<br />
<br />
34<br />
<br />
Phaùt trieån<br />
<br />
Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
<br />
gặp những di sản văn hóa Hán - Nôm. Những bức<br />
hoành phi, liễn đối, cuốn thư được viết với lối phóng<br />
bút mềm mại như thể rồng bay phượng múa hoặc<br />
kiểu chữ chân phương sắc sảo, thể hiện ước vọng của<br />
người xưa về một cuộc sống ấm no, yên vui, hạnh<br />
phúc. Hoặc qua các gia phả, sắc phong, tranh vẽ đã<br />
ngả màu theo năm tháng với màu giấy dó ố vàng rất<br />
mộc mạc, giản đơn nhưng những nét chữ viết bằng<br />
mực Tàu còn nổi bật trên nền giấy cũng toát lên được<br />
cái hồn của nó, tạo cho chúng ta sự tò mò muốn tìm<br />
về cội nguồn của những thư tịch cổ này.<br />
Một thực tế hiện nay là tại các đình, chùa, lăng,<br />
miếu, gia đình người dân, số người biết đọc chữ Hán,<br />
chữ Nôm còn lại không nhiều. Nhiều di tích lưu giữ<br />
trong mình một khối lượng di sản Hán - Nôm đồ sộ<br />
nhưng để giải mã ý nghĩa của nó thật khó khăn, nên<br />
ảnh hưởng đến việc bảo tồn và trùng tu di tích, cũng<br />
như phục vụ khách tham quan muốn tìm hiểu về<br />
<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
vùng đất và con người Đà Nẵng. Trước thực trạng đó,<br />
nhiều năm qua, một số nhà nghiên cứu đã có những<br />
nỗ lực trong việc biên dịch và giới thiệu văn hóa Hán<br />
- Nôm ở Đà Nẵng trên những phương tiện thông tin<br />
đại chúng, nhưng nhìn chung vẫn còn rời rạc, chưa<br />
tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, chưa<br />
tương xứng với nguồn tư liệu vốn có và lòng mong<br />
đợi của người dân Đà Nẵng. Tuy vậy, những hoạt<br />
động đó phần nào cũng đã để lại những giá trị nhất<br />
định về mặt học thuật, giúp cho việc nghiên cứu về<br />
lịch sử cũng như văn hóa của thành phố được tốt hơn.<br />
<br />
vụ cho việc tra cứu lịch sử hoặc trao lại cho các thế<br />
hệ con cháu mai sau biết về các thế hệ tiền nhân của<br />
dòng tộc mình. Năm 2003, trong Chương trình mục<br />
tiêu bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, ngành Văn hóa<br />
- Thông tin thành phố Đà Nẵng khi tổ chức xem xét,<br />
công nhận các di tích lịch sử văn hóa cũng đã kết hợp<br />
tiến hành bước đầu công tác sưu tầm tư liệu Hán Nôm nhưng cũng chỉ ở một số di tích lịch sử văn hóa<br />
trên địa bàn thành phố, trong khi đối tượng lưu giữ<br />
và nguồn tư liệu Hán - Nôm còn khá nhiều, chưa thể<br />
sưu tầm hết được.4<br />
<br />
Là di sản văn hóa vô cùng có giá trị, thế nhưng<br />
đến nay việc nghiên cứu, sưu tầm, lưu giữ di sản này<br />
của các cơ quan chức năng vẫn còn nhiều hạn chế.<br />
Việc điều tra, khảo sát nguồn tư liệu này mới chỉ tiến<br />
hành một cách đơn lẻ, dưới góc độ khai thác tư liệu<br />
nhằm phục vụ cho các bài viết nghiên cứu, tham luận<br />
theo chuyên đề hoặc tra cứu nhằm kiểm chứng tư<br />
liệu lịch sử có liên quan. Một số nhà nghiên cứu và<br />
các tộc họ trên địa bàn thành phố cũng đã tiến hành<br />
việc tổ chức ghi chép lại phả hệ các dòng họ để phục<br />
<br />
Ngoài ra, đây còn là nguồn tư liệu cổ xưa, quý hiếm<br />
nên những người làm công tác bảo tồn rất khó trong<br />
việc tiếp cận và sưu tầm, nhiều đình, chùa, dòng họ<br />
coi chúng là bảo vật truyền đời nên không hiến tặng<br />
hoặc bán. Ngoài những tư liệu Hán - Nôm được khắc<br />
trên các chất liệu bền vững thì những tư liệu còn lại<br />
được viết trên giấy, trên vải như các sắc phong thần<br />
đều được xếp cẩn thận vào tráp rồi khóa lại cất giấu<br />
kỹ hoặc để trên bàn thờ, đến ngày vía thần tại đình,<br />
miếu chúng mới được mở ra. Do đó, nếu không thiết<br />
lập được mối quan hệ với ban quý tế của các đình<br />
làng, tộc họ và cá nhân lưu giữ tài liệu Hán - Nôm,<br />
không có kế hoạch sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu,<br />
thì nhiều tài liệu cổ ở Đà Nẵng sẽ có nguy cơ biến mất.<br />
Trước tình hình đó, công tác bảo tồn và phát huy giá<br />
trị các di sản Hán - Nôm trên địa bàn thành phố là vấn<br />
đề hết sức cấp thiết.<br />
Trong những năm qua, để bảo tồn di sản văn hóa<br />
Hán - Nôm, Sở Văn hóa - Thông tin Đà Nẵng (nay là Sở<br />
Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đà Nẵng) đã tiến hành<br />
nghiên cứu, thống kê di sản Hán - Nôm trên địa bàn<br />
thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục sưu<br />
tầm trong dân gian để phân loại, xếp hạng, nhận diện<br />
loại hình nào có nguy cơ mất mát, hư hỏng để kịp<br />
thời đề ra cách thức bảo tồn và phát huy một cách<br />
hợp lý. Bên cạnh đó, cần hướng dẫn về nghiệp vụ<br />
chuyên môn cho chủ sở hữu di sản Hán - Nôm trong<br />
việc bảo quản, lưu giữ di sản để hạn chế tình trạng hư<br />
hỏng trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt.<br />
Đi đôi với việc thống kê nắm bắt thông tin về sự<br />
tồn tại của các loại hình di sản Hán - Nôm trong dân<br />
gian, các cơ quan có chức năng bảo tồn cần có nguồn<br />
tài chính nhất định để mua các văn bản gốc hoặc<br />
nhân bản, sao chép lại theo phương pháp truyền<br />
thống để bảo quản lâu dài. Phần lớn các tư liệu Hán<br />
- Nôm ở Đà Nẵng hiện nay đang đứng trước nguy cơ<br />
<br />
Phaùt trieån<br />
<br />
Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
<br />
35<br />
<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
hư hại bởi thời tiết và thời gian do chưa có phương<br />
pháp khoa học tối ưu để bảo quản. Đa số các sắc<br />
phong đựng trong ống tre, hộp gỗ, bên ngoài bọc<br />
giấy dễ bị mục nát, do đó việc bảo tồn lâu dài bằng<br />
công nghệ thông tin qua việc tư liệu hóa, số hóa, sử<br />
dụng bản mã chuẩn quốc tế là việc làm cấp thiết. Bên<br />
cạnh đó cần biên dịch toàn bộ tư liệu Hán - Nôm hiện<br />
có ra chữ Quốc ngữ để phục vụ đông đảo các tầng<br />
lớp nhân dân, nhất là giới trẻ để họ nắm được những<br />
nội dung trong tư liệu Hán - Nôm nhằm nâng cao<br />
tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Đặc biệt các<br />
hoành phi, câu đối, gia phả chứa đựng tính chất triết<br />
lý về cuộc sống nhân nghĩa, hướng con người đến các<br />
giá trị chân, thiện, mỹ vẫn còn nguyên giá trị trong<br />
cuộc sống hôm nay.<br />
Để bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hán - Nôm,<br />
thành phố Đà Nẵng cũng cần có chính sách đào tạo,<br />
khuyến khích những người làm công tác quản lý,<br />
nghiên cứu, sưu tầm văn hóa Hán - Nôm. Đặc biệt,<br />
đội ngũ cán bộ làm công tác bảo tồn - bảo tàng phải<br />
được đào tạo, trang bị kiến thức Hán - Nôm ở một<br />
trình độ nhất định, để khi tiếp cận loại hình di sản này<br />
ít ra phải đọc được nội dung cơ bản, biết được giá trị<br />
của từng tư liệu. Mặt khác, cần đẩy mạnh công tác xã<br />
hội hóa sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, đồng<br />
thời khuyến khích các đề tài nghiên cứu khoa học<br />
theo tính chất chuyên sâu về tác giả, văn hóa, kiến<br />
trúc, lịch sử đã gắn liền với hệ thống di sản văn hóa<br />
Hán - Nôm của Đà Nẵng.<br />
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước như Sở<br />
Khoa học và Công nghệ Đà Nẵng cũng cần triển khai<br />
nhiều hơn nữa các đề tài nghiên cứu khoa học có nội<br />
dung đề cập đến di sản văn hóa Hán - Nôm trên địa<br />
bàn thành phố. Có như vậy, công tác bảo tồn các di<br />
sản Hán - Nôm ở Đà Nẵng mới được tiến hành đồng<br />
bộ và có cơ sở vững chắc, tránh việc bỏ sót nhiều tư<br />
liệu quý.<br />
3. Di sản văn hóa Hán - Nôm ở Đà Nẵng ngày càng<br />
bị đe dọa. Vì thế, việc bảo tồn di sản văn hóa Hán Nôm chính là bảo tồn và phát huy di sản văn hóa<br />
của dân tộc nói chung, Đà Nẵng nói riêng. Hơn nữa,<br />
việc nghiên cứu Hán - Nôm còn biểu lộ sự trân trọng<br />
đối với di sản tinh thần của các bậc tiền nhân để lại,<br />
góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong tiến<br />
trình nước ta hội nhập với các nước trong khu vực và<br />
trên thế giới. Do đó, việc bảo tồn không chỉ quan tâm<br />
đến quá khứ, quên đi hiện tại và tương lai, mà trái lại,<br />
<br />
36<br />
<br />
Phaùt trieån<br />
<br />
Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
<br />
phải tăng thêm sự vững chắc của di sản nhằm phát<br />
triển các hình thức biểu hiện văn hóa mới. Mặt khác,<br />
những thành tựu của nghiên cứu Hán - Nôm ở Đà<br />
Nẵng sẽ là cơ sở khoa học và là tư liệu cần thiết cho<br />
các ngành nghiên cứu văn học, ngôn ngữ, lịch sử, văn<br />
hóa và những ai có nhu cầu tìm hiểu về vùng đất và<br />
con người Đà Nẵng trong lịch sử.<br />
P.V.T.<br />
<br />
CHÚ THÍCH<br />
GS. Lê Trọng Khánh, Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ<br />
thuộc loại hình Khoa đẩu, (Hà Nội: Từ điển Bách khoa - Trung<br />
tâm Văn hóa Tràng An, 2010), 20, 18.<br />
1, 2<br />
<br />
Phòng Quản lý di sản văn hóa phi vật thể (Cục Di sản<br />
Văn hóa), “Di sản chữ Nôm - Một vài phương hướng bảo tồn<br />
và phát huy giá trị”, Thời đại mới, Số 5, Tháng 7.2005.<br />
3<br />
<br />
Sở Văn hóa - Thông tin Đà Nẵng, Báo cáo tổng kết đề tài:<br />
“Khảo sát, sưu tầm tư liệu Hán - Nôm trên địa bàn thành phố<br />
Đà Nẵng”, (Đà Nẵng: Tháng 3.2008).<br />
4<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Hà Văn Tấn (Chủ biên). 1994. Văn hóa Đông Sơn ở Việt<br />
Nam. Hà Nội: Khoa học Xã hội.<br />
2. Lâm Giang. 2004. Lịch sử thư tịch Việt Nam. Hà Nội:<br />
Khoa học Xã hội.<br />
3. Nguyễn Q. Thắng. 2001. Quảng Nam - Đất nước và<br />
Nhân vật. Hà Nội: Văn hóa Thông tin.<br />
4. GS. Lê Trọng Khánh. 2010. Phát hiện hệ thống chữ Việt<br />
cổ thuộc loại hình Khoa đẩu. Hà Nội: Từ điển Bách khoa Trung tâm Văn hóa Tràng An.<br />
5. Phòng Quản lý di sản văn hóa phi vật thể (Cục Di sản<br />
Văn hóa). “Di sản chữ Nôm - Một vài phương hướng bảo tồn<br />
và phát huy giá trị”. Thời đại mới. Số 5. Tháng 7.2005.<br />
6. Sở Văn hóa - Thông tin Đà Nẵng. 2008. Báo cáo tổng<br />
kết đề tài: “Khảo sát, sưu tầm tư liệu Hán - Nôm trên địa bàn<br />
thành phố Đà Nẵng”. Đà Nẵng: Tháng 3.<br />
<br />