TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 8, Số 3, 2018 113–124<br />
<br />
BƯỚC ĐẦU THỬ NGHIỆM TRỒNG CÂY TRÔM<br />
TRÊN VÙNG KHÔ HẠN THUỘC KHU VỰC BIÊN GIỚI<br />
TỈNH ĐĂK LĂK<br />
Phạm Trọng Nhâna*, Lê Hồng Éna, Huỳnh Thị Kiều Trinha, Lưu Thế Trunga<br />
Viện Khoa học Lâm nghiệp Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Lâm Đồng, Việt Nam<br />
*<br />
Tác giả liên hệ: Email: ptnhan@vafs.gov.vn<br />
<br />
a<br />
<br />
Lịch sử bài báo<br />
Nhận ngày 06 tháng 09 năm 2018<br />
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 09 năm 2018 | Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 09 năm 2018<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Trong nghiên cứu này, các kết quả bước đầu cho thấy cây Trôm có khả năng sinh trưởng<br />
tốt trên các địa điểm có lập địa khác nhau, đất nghèo dinh dưỡng và pH thấp tại khu vực<br />
khô hạn thuộc vùng biên giới của tỉnh Đăk Lăk. Sau bốn tháng gây trồng, cây Trôm có tỷ lệ<br />
sống cao, trung bình đạt 93.80% và không có sự khác biệt về mặt ý nghĩa thống kê giữa các<br />
địa điểm gây trồng. Tuy nhiên, kết quả phân tích về chiều cao trung bình và đường kính<br />
trung bình có sự khác biệt rõ nét, chiều cao trung bình và đường kính trung bình đạt 0.4m<br />
và đường kính gốc trung bình đạt 1.3cm. Phẩm chất cây trồng chủ yếu là loại A (tỷ lệ trung<br />
bình chiếm 53.33%) và loại B (tỷ lệ trung bình chiếm 41.33%). Kết quả thử nghiệm tại<br />
điểm ĐL3 (thôn 6, xã Ia R’ve, huyện Ea Soup, tỉnh Đăk Lăk) cho thấy cây Trôm sinh<br />
trưởng và phát triển tốt nhất với tỷ lệ sống 92.38%, chiều cao cây 0.49m, đường kính gốc<br />
1.92cm và phẩm chất cây trồng loại A, B, và C tương ứng là 86%, 14%, và 0%.<br />
Từ khóa: Cây Trôm; Chiều cao; Đất; Đường kính gốc; Tỷ lệ sống.<br />
<br />
Mã số định danh bài báo: http://tckh.dlu.edu.vn/index.php/tckhdhdl/article/view/499<br />
Loại bài báo: Bài báo nghiên cứu gốc có bình duyệt<br />
Bản quyền © 2018 (Các) Tác giả.<br />
Cấp phép: Bài báo này được cấp phép theo CC BY-NC-ND 4.0<br />
113<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ]<br />
<br />
PRELIMINARY TEST TO PLANTING STERCULIA FOETIDA<br />
AT ARID BORDER AREAS OF DAKLAK PROVINCE<br />
Pham Trong Nhana*, Le Hong Ena, Huynh Thi Kieu Trinha, Luu The Trunga<br />
a<br />
<br />
The Forest Science Institute of Central Highlands and South of Central Vietnam, Lamdong, Vietnam<br />
*<br />
Corresponding author: Email: ptnhan@vafs.gov.vn<br />
Article history<br />
Received: September 06th, 2018<br />
Received in revised form: September 25th, 2018 | Accepted: September 28th, 2018<br />
<br />
Abstract<br />
In this study, initial results showed that Sterculia foetida were able to grow well on<br />
different soil sites, low nutrient soil and low pH in dry areas along the border of Daklak<br />
province. After 4 months of cultivation, Sterculia foetida has a relatively high average<br />
survival rate of 93.80% and there is no statistically significant difference between planting<br />
sites. However, the mean analysis results for the height and the stump diameter were<br />
significantly different: The height was 0.40m and the diameter was 1.30cm. Type A and<br />
type B plants are primarily in the trial. The results of testing at DL3 (Hamlet 6, Ia R've<br />
commune, Easoup district, Daklak province) showed that Sterculia foetida grows best with<br />
a survival rate of 92.38%, a mean height of 0.49m and a mean stump diameter of 1.92cm.<br />
The quality of the plants was 86%, 14%, and 0% for types A, B, and C, respectively.<br />
Keywords: Diameter at stump height; Height; Soil; Sterculia foetida; Survival percentage.<br />
<br />
Article identifier: http://tckh.dlu.edu.vn/index.php/tckhdhdl/article/view/499<br />
Article type: (peer-reviewed) Full-length research article<br />
Copyright © 2018 The author(s).<br />
Licensing: This article is licensed under a CC BY-NC-ND 4.0<br />
114<br />
<br />
Phạm Trọng Nhân, Lê Hồng Én, Huỳnh Thị Kiều Trinh, và Lưu Thế Trung<br />
<br />
1.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
Trôm Sterculia foetida L. thuộc họ Trôm (Sterculiaceae), còn có tên gọi khác là<br />
Trôm quạt, Trôm hôi, Trôm thối, Quả mõ, Chim chim rừng, Mạy trôm (theo cách gọi<br />
của người dân tộc Tày). Cây Trôm là cây gỗ lớn, rụng lá hàng năm, có thân hình trụ<br />
thẳng, cao 25-30m, đường kính 60-80cm, vỏ xám nhạt, nứt nhẹ, cành mập, thô, có nhiều<br />
sẹo lá hình tim. Lá cây Trôm kép chân vịt, mọc so le, có cuống dài, lá chét 5-9, hình<br />
mác, mặt trên nhạt, mặt dưới màu lục xám, lá kèm dễ rụng (Đỗ & ctg., 2003; Trần,<br />
2002; Võ, 1997). Trôm là cây gỗ của vùng khô hạn, chịu được khí hậu khắc nghiệt,<br />
nắng nóng, lượng mưa thấp 600-700mm/năm, nhiệt độ đất và không khí cao có khi đến<br />
40-45oC với 6-7 tháng mùa khô, đất trống đồi trọc, nghèo xấu trên các loại đá mẹ thô<br />
như feralit vàng đỏ, đất xám trên granit, phù sa cổ, sa thạch, thậm chí có 80-90% là cát<br />
hay có nhiều đá lẫn hoặc đá lộ đầu. Cây Trôm mọc tốt trên vùng có khí hậu mưa ẩm,<br />
lạnh rét hơn trên đất phù sa, đất hình thành trên các loại đá mẹ hạt mịn, tầng dày, chua<br />
đến ít chua. Trôm có khả năng chịu nắng, chịu nóng, chịu hạn rất cao trong điều kiện<br />
môi trường đất rất nghèo xấu, thiếu mùn và dinh dưỡng (Nguyễn, Nguyễn, & Đặng,<br />
2009). Trong tự nhiên ở Việt Nam, Trôm thường mọc ở các tỉnh Tây Nguyên như Kon<br />
Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng và các tỉnh miền duyên hải Nam Trung Bộ như<br />
Khánh Hòa, Ninh Thuận, và Bình Thuận. Trôm có thể trồng thuần loài hoặc trồng hỗn<br />
giao với một số cây nông nghiệp như: Dứa; Chuối; Điều,... Báo cáo kết quả đề tài của<br />
Phạm, Phùng, và Trần (2010) cho thấy cây Trôm là cây có thể sinh trưởng và phát triển<br />
tốt tại Bình Thuận và Ninh Thuận. Tại Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk,… Trôm có nhiều<br />
ứng dụng trong đời sống như trong y học, mỹ phẩm, thực phẩm, thuốc bảo vệ thực vật,<br />
dầu sinh học, gỗ sử dụng làm đồ gia dụng (Kale, Vijaya, & Thakur, 2011; Nguyễn &<br />
Vũ, 2014; Pierangeli, Rogelio, Josemaria, & Windell, 2010; Prakash, Gopal, &<br />
Kaviarasan, 2011; & Võ, 1997). Theo Nguyễn và Vũ (2014) thì đất trồng rừng Trôm<br />
phải chọn loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước tốt, tầng đất dày hơn 40cm,<br />
không trồng Trôm vào nơi kém thoát nước, úng nước.<br />
Khu vực biên giới tỉnh Đăk Lăk là vùng khô hạn được đặc trưng bởi mùa khô<br />
nắng nóng, mùa mưa ngập úng. Do vậy chỉ có hệ sinh thái rừng khộp tồn tại và phát<br />
triển trên vùng khí hậu khắc nghiệt này. Nhìn chung, khí hậu và lập địa khu vực biên<br />
giới có những điều kiện tương đồng như vùng khô hạn ven biển Ninh Thuận và Bình<br />
Thuận. Tuy nhiên, sự khắc nghiệt về điều kiện lập địa và khí hậu cụ thể cho từng vùng<br />
là khác nhau. Về đất đai ở khu vực huyện Buôn Đôn và Ea Soup, đa phần là đất xấu,<br />
tầng đất mỏng, trơ sỏi đá, nghèo dinh dưỡng. Tầng đất mặt thường bị chai cứng vào<br />
mùa khô, mùa mưa bị úng nước, do khi xuống sâu 0.5-1m gặp tầng đá mẹ. Có nơi tầng<br />
đất dày 20-30cm không có khả năng giữ ẩm. Đất có tỷ lệ cát cao và kết vón bề mặt lớn,<br />
làm cho khả năng giữ ẩm kém, dễ mất nước trong mùa khô, mặt khác mùn và các dinh<br />
dưỡng khác cũng rất dễ bị rửa trôi trong mùa mưa. Đất có hàm lượng mùn và dinh<br />
dưỡng thấp cùng với khí hậu khắc nghiệt nên việc lựa chọn cây trồng hợp lý là một thử<br />
thách. Đồng thời, phải có đầu tư về qui trình kỹ thuật mới mang lại hiệu quả. Qua một<br />
số thử nghiệm theo chính sách của tỉnh Đăk Lăk triển khai trồng các loài cây để cải<br />
thiện kinh tế địa phương như Điều; Keo lai; Cao su. Tuy nhiên, các cây trồng này không<br />
mang lại hiệu quả kinh tế cao do các nhân tố sinh thái quá khác biệt cho nhu cầu phát<br />
triển của cây. Trong khi đó, Trôm được xem là cây trồng có thể sinh trưởng và phát<br />
115<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ CÔNG NGHỆ]<br />
<br />
triển tốt ở vùng khô hạn. Do đó, việc thử nghiệm trồng cây Trôm trên vùng đất thuộc<br />
khu vực biên giới tỉnh Đăk Lăk có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm kiếm loại cây<br />
trồng bổ sung vào cơ cấu cây trồng mới có giá trị kinh tế cho vùng đất khắc nghiệt này.<br />
2.<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
2.1.<br />
<br />
Địa điểm và thời gian thực hiện<br />
2.1.1. Địa điểm<br />
<br />
Các nghiên cứu được thực hiện tại xã Ea Wer, huyện Buôn Đôn và xã Ia R’ve,<br />
huyện Ea Soup của tỉnh Đăk Lăk. Bao gồm các hộ như sau: i) Hộ Bùi Văn Thắng, thôn<br />
4, xã Ia R’ve, huyện Ea Soup, tỉnh Đăk Lăk (Kí hiệu: ĐL1): 10.000m2; ii) Hộ Hà Xuân<br />
Tình, thôn 4, xã Ia R’ve, huyện Ea Soup, tỉnh Đăk Lăk (Kí hiệu: ĐL2): 10.000m2; iii)<br />
Hộ Lê Đình Huế, thôn 6, xã Ia R’ve, huyện Ea Soup, tỉnh Đăk Lăk (Kí hiệu: ĐL3):<br />
10.000m2; iv) Hộ Đỗ Thị Nhi, thôn 4, xã Ia R’ve, huyện Ea Soup, tỉnh Đăk Lăk (Kí<br />
hiệu: ĐL4): 6.000m2; v) Hộ Lê Bá Chúc, thôn 3, xã Ea Wer, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk<br />
Lăk (Kí hiệu: ĐL5): 10.000m2; và vi) Hộ Nguyễn Sỹ Vinh, thôn 4, xã Ea Wer, huyện<br />
Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk (Kí hiệu: ĐL6): 10.000m2.<br />
2.1.2. Thời gian<br />
Tất cả các hộ bắt đầu trồng từ tháng 8 năm 2016 đến tháng 2 năm 2017.<br />
2.2.<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
<br />
Cây Trôm có chiều cao 18-20cm, đường kính cổ rễ 3-4mm, không sâu bệnh và<br />
không cụt ngọn.<br />
2.3.<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
2.3.1. Đánh giá phân tích đất tại các địa điểm xây dựng mô hình<br />
<br />
Mẫu đất được thu bằng cách khoan lấy đất ở hai tầng tại độ sâu 0-30cm và 30-60cm.<br />
Mỗi tầng quan sát, mô tả tính chất vật lý đất, sau đó trộn đất ở hai tầng thành một mẫu. Tại mỗi<br />
ô khảo sát tiến hành khoan và lấy mẫu đất ở bốn điểm ở bốn góc và một điểm trung tâm. Sau đó<br />
trộn lẫn đất ở năm điểm thành một mẫu để đưa về Phòng Thí nghiệm Trung tâm Phân tích, Viện<br />
Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt xử lý và phân tích. Mẫu đất được phân tích hữu cơ (%) theo<br />
phương pháp thử TCVN 6642-2000; pH theo phương pháp thử TCVN 5979:1995; Tỷ lệ hạt (%)<br />
theo phương pháp thử TCVN 4198:1995 với một số chỉ tiêu sau: Hạt sạn sỏi (các kích thước<br />
hạt: >10mm, 10-5mm, 5-2mm); Hạt cát (các kích thước hạt: 2-1mm, 1-0.5mm, 0.5-0.25mm,<br />
0.25-0.1mm, 0.1-0.05mm); Hạt bụi (các kích thước hạt: 0.05-0.01 mm, 0.01-0.005 mm); và Hạt<br />
sét (kích thước hạt 10<br />
<br />
0.00<br />
<br />
0.83<br />
<br />
0.00<br />
<br />
0.00<br />
<br />
1.69<br />
<br />
1.42<br />
<br />
10-5<br />
<br />
0.00<br />
<br />
4.12<br />
<br />
0.00<br />
<br />
3.63<br />
<br />
4.39<br />
<br />
5.09<br />
<br />
5-2<br />
<br />
2.58<br />
<br />
8.33<br />
<br />
3.75<br />
<br />
7.10<br />
<br />
9.63<br />
<br />
10.37<br />
<br />
Tổng hạt sạn sỏi<br />
<br />
2.58<br />
<br />
13.28<br />
<br />
3.75<br />
<br />
10.73<br />
<br />
15.71<br />
<br />
16.88<br />
<br />
Hạt sạn sỏi (%)<br />
<br />
117<br />
<br />