intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ca hát chuyên nghiệp Việt Nam những chặng đường phát triển

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:10

42
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ca hát là loại hình nghệ thuật xuất hiện sớm nhất trong tiến trình phát triển của đời sống nhân loại, ca hát là phương tiện bộc lộ và giãi bày tình cảm, là tiếng nói đời sống nội tâm của con người, là công cụ đấu tranh để tồn tại và phát triển. Mời các bạn cùng tìm hiểu vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ca hát chuyên nghiệp Việt Nam những chặng đường phát triển

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 26, 2005<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> CA HÁT CHUYÊN NGHIỆP VIỆT NAM<br /> NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN<br />                                                                                               Trương Ngọc Thắng<br />                                                                           Tr ường Đại học Nghệ thuật,  Đại học Huế<br /> <br /> <br /> Ca hát là loại hình nghệ  thuật xuất hiện sớm nhất trong tiến trình phát triển  <br /> của đời sống nhân loại, ca hát là phương tiện bộc lộ và giãi bày tình cảm, là tiếng nói  <br /> đời sống nội tâm của con người, là công cụ đấu tranh để tồn tại và phát triển. Không  <br /> những thế, nó còn được coi là một loại hình nghệ  thuật hữu hiệu và tích cực góp  <br /> phần giáo dục công dân, bồi dưỡng và xây dựng nhân cách, đạo đức cho con người.<br /> Ca hát là loại hình nghệ  thuật đặc thù với hình thức diễn tấu là thông qua cơ <br /> quan phát âm của cơ  thể  con người. Sự  liên quan trực tiếp tới quá trình hoạt động  <br /> sinh ­ lý ­ sống của con người càng làm cho ca hát có mối quan hệ trực tiếp, hữu cơ <br /> tới mọi khía cạnh thuộc đời sống nội tâm, tình cảm mà không một thứ nhạc cụ nào,  <br /> dù hiện đại nhất, dù tinh tế nhất mà nhân loại hiện có có thể thay thế được.<br /> Nghệ  thuật ca hát chuyên nghiệp của nhân loại mà đỉnh cao là dòng ca hát <br /> thuộc trường phái thanh nhạc cổ  điển belcanto châu Âu, đã hình thành và phát triển <br /> từ  nhiều thế  kỷ  qua. Hệ  thống lý luận sư  phạm cùng với những quy trình và giáo  <br /> trình đào tạo mang tính khoa học cao của trường phái thanh nhạc  belcanto châu Âu đã <br /> và đang tiếp tục ảnh hưởng, chi phối và dẫn dắt toàn bộ các hoạt động đào tạo thanh  <br /> nhạc chuyên nghiệp của toàn nhân loại. Vai trò, vị  trí của người nghệ sĩ thanh nhạc  <br /> ngày càng được nâng cao, đóng góp ngày càng to lớn vào đời sống âm nhạc chuyên <br /> nghiệp hàn lâm toàn cầu. <br /> Được hình thành và phát triển trên dưới nửa thế kỷ qua, nghệ thuật thanh nhạc  <br /> chuyên nghiệp Việt Nam tuy còn  rất non trẻ với những  ảnh hưởng không nhỏ  của <br /> chiến tranh và hoàn cảnh kinh tế ­ xã hội, song đã biết tuân thủ các tiêu chí thẩm mỹ <br /> và kỹ thuật chung của thế giới kết hợp với những đặc thù về tâm ­ sinh lý cũng như <br /> văn hóa, ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam. Sự kết hợp nhuần nhuyễn ấy đã khiến cho <br /> sự  nghiệp xây dựng và phát triển nghệ  thuật ca hát chuyên nghiệp nước ta giành  <br /> được những thành tựu rất đánh khích lệ, rất đáng tự hào.<br /> Đã có nhiều nhà sư phạm đúc rút nhiều lĩnh vực khoa học về đào tạo đội ngũ  <br /> ca hát chuyên nghiệp bằng các tác phẩm  bao gồm:  Phương pháp sư  phạm Thanh  <br /> 99<br /> nhạc, Phương pháp học hát của PGS. NSND Nguyễn Trung Kiên, Sách học Thanh  <br /> nhạc của GS. NSND Mai Khanh, Giáo trình Thanh nhạc ­ Bậc đại học, Ca hát Việt  <br /> Nam 1945 ­1975 của PGS. NGƯT Lô Thanh, Tính khoa học trong giảng dạy và Giáo  <br /> trình Thanh nhạc của ThS. NGƯT Trần Diệu Thúy Công tác đào tạo nghệ sĩ Thanh  <br /> nhạc Quân  đội  của NSƯT Dương Minh  Đức,  Công tác  đào tạo Thanh nhạc tại  <br /> Trường Đại học Nghệ thuật Huế của Ths Trương Ngọc Thắng...<br />   Nhiều nghệ sĩ đã bảo vệ thành công các Luận án Thạc sĩ về  biểu diễn và sư <br /> phạm biểu diễn thanh nhạc như NSND Quang Thọ, NSƯT Rơ Chăm Phieng, NSƯT <br /> Ngọc Lan, Thu Lan... Đã tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa ca hát  <br /> Việt Nam trong quá trình tiếp thu và lĩnh hội những tinh hoa kỹ thuật thanh nhạc tiên  <br /> tiến của nền thanh nhạc thế giới.<br /> PHẦN I:  CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ KHOA HỌC VỀ MỘT NỀN <br /> NGHỆ THUẬT CA HÁT HIỆN ĐẠI VIỆT NAM <br /> Ca hát là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống của xã hội nhằm phục <br /> vụ con người, phục vụ xã hội, nâng cao đời sống tinh thần, văn hóa cho con người, là  <br /> vũ khí đấu tranh chống kẻ thù để tồn tại và phát triển. <br /> Ca hát nói chung, ca hát mới chuyên nghiệp Việt Nam nói riêng tính từ  1945 <br /> đã đóng góp vai trò rất to lớn trong các cuộc cách mạng chống ngoại xâm giải phóng <br /> dân tộc, ca hát đã trở thành vũ khí đấu tranh của các tử tù trong các nhà lao của giặc.  <br /> Ca hát chuyên nghiệp đã theo bước các đoàn quân trong các chiến dịch Đông Xuân,  <br /> Biên giới, Điện Biên Phủ, Đường Trường Sơn, Chiến dịch Hồ  Chí Minh..., trong <br /> công cuộc xây dựng và bảo vệ  tổ  quốc Việt Nam xã hội chủ  nghĩa, công cuộc đổi <br /> mới đất nước, trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.<br /> Ca hát Việt Nam bắt nguồn và phát triển từ  nghệ  thuật ca hát dân gian giàu <br /> bản sắc phong phú, từ lối hát giao duyên, hát đối đáp, hò vè, hát ru, các vùng dân ca, <br /> dân nhạc tiêu biểu của Miền núi phía Bắc, của Đồng bằng Bắc bộ, của Quan họ <br /> Bắc Ninh, ví dặm Nghệ Tĩnh, hò Thanh Hóa, dân ca miền Trung, ca Huế, hò Bài chòi  <br /> Khu V, tuồng Bình Định, từ Lý, hò vè đồng bằng Nam Bộ, Đờn ca tài tử ­ cải lương,  <br /> dân ca các vùng dân tộc Tây Nguyên, Khơ me, Chăm Pa.<br /> Ca hát chuyên nghiệp Việt Nam bắt nguồn từ ca hát Cửa đình hay còn gọi là <br /> hát   Ả đào, hát Chèo, ca Huế. Trào lưu âm nhạc Tân nhạc trong thời kỳ Pháp thuộc, <br /> trào lưu học tập nhạc cụ phương Tây, trào lưu hát lời ta theo điệu Tây, trào lưu sáng <br /> tác ca khúc mới, nhạc cải cách, ca hát theo phim ảnh, hình thành các ban, nhóm nhạc  <br /> với  người   đi tiên  phong là  Ông Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Khoát.  Chính <br /> <br /> <br /> 100<br /> quyền thực dân Pháp đã đỡ  đầu để  thành lập "Nhạc viện Viễn Đông" theo đề  nghị <br /> của Poincignon, mặc dù chỉ tồn tại 3 năm.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 101<br /> PHẦN II: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT CA HÁT <br /> CHUYÊN NGHIỆP  VIỆT NAM<br /> Giai đoạn 1945 ­ 1954:  Đây là thời kỳ  thực dân Pháp xâm lăng toàn diện <br /> nước ta gây những biến động lớn và sâu sắc trong xã hội nước ta. Phong trào chống  <br /> thực dân Pháp  ngày càng quyết liệt và cho đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời  <br /> đã lãnh đạo nhân dân ta giành những thắng lợi to lớn. Mặc dù vậy nhưng do đội ngũ  <br /> còn non trẻ  nên Đảng ta chưa thể  giành được độc lập toàn vẹn lãnh thổ, vì vậy có  <br /> hai vùng được hình thành, một vùng do thực dân Pháp chiếm đóng, một vùng do Việt  <br /> minh kiểm soát.<br /> a. Tại các đô thị tạm chiếm:<br /> Phong trào âm nhạc cải cách, học nhạc Âu Tây hình thành và phát triển từ  Hà <br /> Nội rồi lan ra toàn quốc. Ca hát mới chuyên nghiệp Việt Nam thời kỳ này là tự  phát <br /> phục vụ  nhu cầu sinh hoạt và hưởng thụ, nhu cầu thưởng thức âm nhạc của công  <br /> chúng và quan quyền ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn.<br /> b. Tại các vùng tự do, vùng kháng chiến:<br /> Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập <br /> bất hủ trước quốc dân đồng bào và thế giới, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng  <br /> hòa. Nhưng Thực dân Pháp rắp tâm chiếm nước ta một lần nữa. Tháng 12 năm 1946 <br /> toàn quốc kháng chiến, từ  đây hình thành hai vùng: Vùng cơ sở kháng chiến và vùng  <br /> tạm chiếm. Tại các vùng tự do kháng chiến các đơn vị văn công quân đội và dân sự,  <br /> các đơn vị văn nghệ xung kích  ở  chiến khu Việt Bắc, khu IV, Khu V, Khu VI, Nam  <br /> Bộ  được hình thành và phát triển với tên tuổi các ca sĩ nổi tiếng như  Trần Khánh, <br /> Quốc Hương, Mai Khanh.<br /> Với phương châm "Khoa học, Dân tộc, Đại chúng" trong đề cương Văn hóa <br /> của Đảng ta năm 1943 đã tạo điều kiện để ca hát mới chuyên nghiệp Việt Nam tiếp  <br /> cận với nền ca hát chuyên nghiệp, hàn lâm của các nước xã hội chủ  nghĩa  ở  Châu <br /> Âu, Trung Quốc và Bắc Triều tiên bằng cách tuyển chọn thanh thiếu niên có năng  <br /> khiếu cử  đi đào tạo  ở  Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên để  bổ  sung đội ngũ ca hát  <br /> chuyên nghiệp Việt Nam. Đã bắt đầu có kế  hoạch xây dựng nền nghệ  thuật và âm <br /> nhạc chuyên nghiệp trong đó có nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp và đã chứng tỏ đây  <br /> là những chủ trương đúng đắn của Đảng ta.  <br /> Giai đoạn sau 1954 ­ 1975: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7 tháng <br /> 5 năm 1954 đã mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam. Hội nghị Giơnevơ <br /> được ký kết. Hòa bình được lập lại và miền Bắc Việt Nam tiến lên xây dựng chủ <br /> nghĩa xã hội, miền Nam Việt Nam tạm thời bị chia cắt từ vĩ tuyến 17 trở  vào nằm <br /> dưới ách kềm kẹp của Mỹ ­ Ngụy. Nền ca hát mới chuyên nghiệp Việt nam lúc này <br /> 102<br /> được hình thành và phát triển ở mỗi miền của đất nước khác nhau. Đó là  Nền ca hát  <br /> cách mạng yêu nước ở miền Bắc XHCN và các vùng giải phóng miền Nam. Ở miền <br /> Bắc xã hội chủ nghĩa là thời kỳ xây dựng cuộc sống mới, là thời kỳ ruộng đất về tay  <br /> nông dân, là phong trào bình dân học vụ, là tuần lễ vàng, các hợp tác xã nông nghiệp  <br /> hình thành, các khu công nghiệp như  Gang thép Thái Nguyên, Phốt phát Lâm Thao,  <br /> Dệt Nam Định... ra đời.<br />  Năm 1956 Trường Âm nhạc Việt Nam ra đời (nay là Nhạc viện Quốc gia Hà <br /> Nội) xây dựng quy trình đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp trong đó có ca hát mới theo  <br /> mô hình các Nhạc viện quốc tế với các trường phái belcanto của Châu Âu. <br /> Cùng với việc gửi đi đào tạo các ca sĩ từ các nước xã hội chủ nghĩa, việc hình  <br /> thành Nhạc viện Hà Nội đã cung cấp một đội ngũ ca sĩ đông đảo cho cách mạng Việt  <br /> Nam trong lĩnh vực văn hóa nghệ  thuật với tên tuổi các nghệ  sĩ, ca sĩ nổi tiếng tiêu  <br /> biểu như: Quốc Hương,Trần Khánh, Thương Huyền, Trần Thụ, Quý Dương, Trần <br /> Hiếu, Mai Khanh, Lô Thanh, Trung Kiên, Kiều Hưng, Thúy Huyền, Mộ  La, Tường  <br /> Vy, Bích Liên, Thanh Trì, Gia Khánh, Kim Oanh, Thanh Huyền, Tuyết Thanh, Gia  <br /> Hội, Thanh Đính, Thúy Liễu, Hữu Nội, Quang Phác, Quốc Trụ, Diệu Thúy, Mỹ Bình, <br /> Thu Hiền, Lê Dung, Thanh Hoa, Quang Thọ, Quang Huy, Doãn Tần, Minh Đức, Bích  <br /> Việt,  Kim  Phúc,  Đăng  Dương,  Trọng  Tấn,  Việt  Hoàn,  Lan  Anh, Anh Thơ,   Bích  <br /> Thủy...  và còn rất nhiều các thế  hệ  ca sĩ trẻ   thuộc các dòng ca hát chuyên nghiệp <br /> khác. <br /> Hầu hết các ca sĩ nổi tiếng này đã từng cất lên tiếng hát phục vụ quân và dân  <br /> miền Bắc trong thời kỳ đế quốc Mỹ ném bom phá hoại với Phong trào "Tiếng hát át  <br /> tiếng bom" nổi tiếng một thời đã để  lại những  ấn tượng tốt đẹp cho đến ngày nay  <br /> với     "Những bài ca đi cùng năm tháng" không bao giờ  quên. Các ca sĩ thanh nhạc <br /> chuyên nghiệp còn  đóng góp một phần tích  cực trong  đời sống  âm  nhạc chuyên <br /> nghiệp và xã hội, vừa có tính hàn lâm nhưng cũng mang tính xung kích. Đặc biệt <br /> trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước các thế hệ ca sĩ đã đến <br /> các chiến hào, mâm pháo, trận địa, chiến trường để phục vụ quân, dân ta với các tên  <br /> tuổi như: Tường Vi, Tô Lan Phương, Quốc Hương, Trần Khánh, Thanh Đính, Trần  <br /> Hiếu, Quý Dương, Trung Kiên, Lô Thanh, Mai Khanh, Trần Thụ, Thu Hiền...<br />  Nghệ thuật ca hát mới đã định hình và phát triển vững chắc trong cuộc kháng  <br /> chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng XHCN ở miền Bắc. <br /> Tại các vùng Mỹ  ­ Ngụy tạm chiếm, Nền ca hát mang tính chất  ủy mỵ, nỗi <br /> chán chường, thất vọng tình yêu đôi lứa, nền ca hát ẻo lả, nỉ non, sướt mướt phục vụ <br /> cho xã hội miền Nam lúc đó theo kiểu sống gấp, hưởng thụ kiểu Mỹ. Thời kỳ này đã <br /> hình thành Trường Quốc gia Âm nhạc Sài gòn và Trường Quốc gia âm nhạc Huế <br /> <br /> 103<br /> nhưng hầu như không có vai trò gì đáng kể trong hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp,  <br /> ca hát mới chuyên nghiệp trong khu vực. <br /> Ngày 30 ­ 4 ­1975 là một mốc son chói lọi trong cuộc cách mạng giải phóng  <br /> dân tộc, thống nhất đất nước thu giang sơn tổ quốc Việt Nam về một mối. Hệ thống  <br /> các Nhạc viện Hà nội, Nhạc viện Thành phố Hồ Chí  Minh ra đời, Trường Âm nhạc <br /> Huế, Hà Nội đã được củng cố  đã cùng với hai Nhạc viện Hà Nội và Nhạc viện <br /> Thành phố Hồ Chí Minh  đào tạo một đội ngũ ca sĩ chuyên nghiệp đông đảo phục vụ <br /> đắc lực cho công cuộc bảo vệ, xây dựng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  <br /> giàu mạnh. <br /> Ngoài việc sử  dụng có hiệu quả  về  mặt kỹ  thuật các hệ  thống tư  liệu giáo  <br /> trình cuả  các nước xã hội chủ  nghĩa trước đây và các nước tiên tiến khác trong khu <br /> vực và thế  giới, các Nhạc Viện, các Trường Âm nhạc, các trường Nghệ  thuật đã  <br /> hình thành một số  chương trình, giáo trình kết hợp một cách hài hòa giữa kỹ  thuật <br /> Châu Âu với nội dung, ca khúc và tác phẩm Việt Nam đã đem lại những kết quả rất  <br /> tự  hào trong quá trình đào tạo âm  nhạc nói chung và ca hát mới chuyên nghiệp nói  <br /> riêng. Các tác phẩm, ca khúc Việt Nam với nội dung và chủ  đề  phong phú viết về <br /> tâm hồn con người, lao động, tâm tư  tình cảm, sự  quyết tâm vượt qua gian khổ  hy  <br /> sinh với nhiều thể loại từ  Ca khúc, Hợp xướng, Romance, Aria, Nhạc kịch đã khai  <br /> thác các chất liệu âm nhạc đặc sắc, độc đáo trong kho tàng âm nhạc và  sức mạnh <br /> đặc biệt của ca từ Việt Nam, những  đặc điểm về ngôn ngữ và nghệ  thuật phát âm, <br /> nhả chữ, trong kỹ thuật ca hát Việt Nam với phương pháp  hát tròn vành, rõ chữ đã <br /> đóng một vai trò quan trọng trong đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp hiện đại.<br /> PHẦN III: KHÁI QUÁT NHỮNG THÀNH TỰU VÀ VAI TRÒ<br />  CỦA NGHỆ THUẬT CA HÁT CHUYÊN NGHIỆP ­ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG <br /> PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI<br /> Những thành tựu:<br /> Trong đào tạo: Ca hát mới chuyên nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển <br /> đã có những đóng góp quan trọng trong việc xác định chính xác và hợp lý những mục <br /> tiêu, mục đích đào tạo cho từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng đối tượng. Các cơ  sở <br /> đào tạo âm nhạc đã bám sát mục tiêu đào tạo ca hát chính quy chuyên nghiệp, áp  <br /> dụng các quy trình sư phạm, biện pháp sư phạm hợp lý, phù hợp nhằm đạt được tính <br /> chuyên nghiệp hàn lâm cao vừa đáp ứng tiêu chí thẩm mỹ truyền thống văn hóa, đặc <br /> điểm ngôn ngữ của người Việt Nam. Đã hình thành chương trình, giáo trình, tài liệu  <br /> một cách bài bản. đã cung cấp cho đất nước các thế hệ ca sĩ chuyên nghiệp có kiến  <br /> thức, đạo đức và ý thức phục vụ đất nước.<br /> <br /> 104<br /> Trong biểu diễn: Đã khẳng định phong cách,  ổn định kỹ  thuật, nội dung và <br /> hình thức tại các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, tại các Nhà hát ca múa nhạc trong  <br /> cả  nước. Các ca sĩ thanh nhạc chuyên nghiệp Việt Nam đã khẳng định khả  năng và  <br /> trình độ kỹ thuật và đạt được các giải cao tại các cuộc thi thanh nhạc quốc tế và khu  <br /> vực như: Dương Minh Đức, Quang Huy, Quang Thọ, cố NSND Lê Dung, Bích Việt, <br /> Quốc Hưng, Bích Thủy.<br /> <br /> Một số định hướng phát triển<br /> Về xây dựng đổi mới nội dung, phương thức đào tạo.<br /> Trong thời gian tới cần tập trung hoàn chỉnh chương trình giáo trình, sách giáo  <br /> khoa ở các cấp đào tạo để vừa mang tính dân tộc, bản sắc đồng thời vừa hiện đại và  <br /> hoà nhập với khu vực và thế giới. Nâng cao chất lượng công tác tuyển sinh hàng năm  <br /> để  lựa chọn được những học sinh năng khiếu về  thanh nhạc. Đa dạng hoá phương  <br /> thức đào tạo và loại hình đào tạo từ  chính quy, vừa học vừa làm, bồi dưỡng nâng <br /> cao... phục vụ  cho định hướng trong giáo dục đào tạo của Đảng ta là " cung cấp  <br /> nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài" <br /> Cục Biểu diễn nghệ thuật Bộ Văn hóa ­ Thông tin theo định kỳ  cần tổ  chức <br /> các cuộc thi hát chuyên nghiệp toàn quốc, từ  đó tuyển chọn các ca sĩ xuất sắc tham  <br /> gia các cuộc thi hát khu vực và quốc tế. Có kế  hoạch đầu tư  cho việc nghiên cứu,  <br /> sưu tầm dân ca, ứng dụng trong đào tạo. Chuẩn hóa và phát triển đội ngũ giảng viên  <br /> thanh nhạc về chuyên môn, ngoại ngữ, ứng dụng các tiến bộ KH ­ KT trong công tác  <br /> giảng dạy đáp  ứng với tình hình phát triển của khu vực và thế  giới. Tiếp tục phát  <br /> triển đào tạo thanh nhạc sau đại học, thành lập sân khấu thể  nghiệm nhạc kịch  ở <br /> Nhạc viện Quốc gia Hà Nội.<br /> Nâng cao chất lượng sáng tác các tác phẩm thanh nhạc, sử dụng các tác phẩm <br /> có chất lượng nghệ  thuật cao, nghiêm cấm và hủy bỏ  các tác phẩm phản văn hóa, <br /> các tác phẩm sao chép, đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ  bản quyền tác giả, tác <br /> phẩm.<br /> Chấn chỉnh các hoạt động biểu diễn, thông qua Luật Biểu diễn Nghệ thuật,  <br /> tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, cấp giấy <br /> phép hành nghề, quy định cụ thể các chế độ liên quan.<br /> Quy hoạch các đơn vị  nghệ  thuật ca múa nhạc, phát triển đồng thời hát dân <br /> tộc và hát cổ điển.<br /> Phát triển cân đối 3 dòng ca hát Dân tộc ­ Cổ điển ­ Nhạc nhẹ.<br /> Xây dựng, phát triển nghệ  thuật ca hát Việt Nam tiên tiến đậm đà bản <br /> sắc dân tộc đáp ứng với những yêu cầu của tình hình mới:<br /> <br /> 105<br /> a. Công tác đào tạo thanh nhạc: Hiện nay công tác đào tạo thanh nhạc tại các <br /> Nhạc viện, các Trường âm nhạc đã được các giáo sư, giảng viên đưa vào hệ  thống, <br /> quy cũ, đã xây dựng, đổi mới nội dung, phương thức đào tạo theo hướng hiện đại  <br /> hòa nhập khu vực và quốc tế bằng cách hoàn chỉnh chương trình, giáo trình, sách giáo  <br /> khoa ở các cấp đào tạo, nâng cao chất lượng công tác tuyển sinh đầu vào hàng năm,  <br /> nghiên cứu, sưu tầm dân ca, ứng dụng trong đào tạo thanh nhạc có hiệu quả.<br /> Các cơ sở đào tạo âm nhạc nói chung và đào tạo thanh nhạc nói riêng đã đề ra  <br /> kế  hoạch nhằm chuẩn hóa và phát triển đội ngũ giảng viên thanh nhạc về  chuyên  <br /> môn, ngoại ngữ,  ứng dụng các tiến bộ  KH ­ KT trong công tác giảng dạy làm cho  <br /> phương pháp đào tạo ca sĩ chuyên nghiệp ngày càng phong phú.<br /> Nhạc viện Hà Nội, Nhạc viện Thành phố  Hồ  Chí Minh đã được Thủ  tướng <br /> Chính phủ giao nhiệm vụ đào tạo thanh nhạc sau đại học. Nhạc viện Hà Nội đang có  <br /> kế  hoạch thành lập sân khấu thể nghiệm nhạc kịch tạo cơ hội cho các ca sĩ chuyên <br /> nghiệp tham gia biểu diễn các vở nhạc kịch kinh điển của thế giới.<br /> Nâng cao chất lượng sáng tác các tác phẩm thanh nhạc, sử dụng các tác phẩm <br /> có chất lượng nghệ thuật cao là những chủ trương của ngành Văn hóa, các cơ sở đào  <br /> tạo âm nhạc nhằm đưa công tác này ngày càng quy cũ, phù hợp với các chuẩn mực  <br /> khu vực và quốc tế.<br /> KẾT LUẬN<br /> Trên dưới 50 năm, nền ca hát mới chuyên nghiệp hiện đại Việt Nam hình <br /> thành và phát triển bắt nguồn từ  nền ca hát chuyên nghiệp dân tộc, Đặc biệt từ  khi <br /> Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã có những định hướng đúng đắn về  đường lối  <br /> văn hoá văn nghệ đã tạo cho ca hát chuyên nghiệp Việt Nam phát triển đầy đủ, toàn <br /> diện đóng góp một phần quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và <br /> bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Đường lối văn hóa văn nghệ  của Đảng Cộng sản Việt Nam. NXB Văn hóa ­ <br /> Thông tin Hà Nội (1996)<br /> 2. Kỷ yếu 30 năm thành lập Nhạc viện Hà Nội. Lưu hành nội bộ. Nhạc viện Hà <br /> Nội (1978)<br /> 3. Trần Thu Hà.  Phát hiện đào tạo, bồi dưỡng năng khiếu tài năng. NXB Văn <br /> hóa Thông tin  (1993)<br /> 4. Nguyễn Trung Kiên. Nghiên cứu nội dung tác phẩm rèn luyện khả năng sáng  <br /> tạo. Nhạc viện Hà Nội<br /> 5. Nguyễn  Trung  Kiên.  Công   tác   đào  tạo  văn  hóa  nghệ   thuật.   Thực   chất   và  <br /> hướng phát triển. Tạp chí Văn hóa Văn nghệ, Số 6 (1997)<br /> 106<br /> 6. Nguyễn  Trung Kiên.  Phấn đấu vì một nền nghệ  thuật hát tiên tiến đậm đà  <br /> bản sắc dân tộc. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Số 10 (1996)<br /> 7. Nguyễn Thụy Loan.  Lược sử  âm nhạc Việt Nam. Nhạc viện Hà Nội, NXB <br /> Âm nhạc, Hà Nội (1995)<br /> 8. Tú Ngọc và nhóm biên soạn. Âm nhạc mới Việt Nam ­ tiến trình và thành tựu  <br /> ­ Viện Âm nhạc (2000)<br /> 9. Lô Thanh. Ca hát Việt Nam 1945 ­ 1975, Đại học Nghệ thuật Huế  (1998)<br /> 10. Lô Thanh.  Giáo trình Đại học Thanh nhạc 5 năm. Đại học Nghệ  thuật Huế <br /> (1996)<br /> 11. Lô Thanh. Xây dựng và phát triển nghệ thuật thanh nhạc Việt Nam (1991)<br /> TÓM TẮT<br /> Ca hát là loại hình nghệ thuật xuất hiện sớm nhất trong tiến trình phát triển của đời  <br /> sống nhân loại, là phương tiện bộc lộ  và giãi bày tình cảm, là tiếng nói đời sống nội tâm  <br /> của con người... Ca hát chuyên nghiệp mà đỉnh cao là các dòng ca hát thuộc trường phái  <br /> thanh nhạc cổ điển belcanto châu Âu đã và đang tiếp tục ảnh hưởng và dẫn dắt toàn bộ các  <br /> hoạt động đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp của toàn nhân loại. <br /> Được hình thành và phát triển trên dưới nửa thế  kỷ  qua, nghệ  thuật thanh nhạc  <br /> chuyên nghiệp Việt Nam đã biết tuân thủ  các tiêu chí thẩm mỹ  và kỹ  thuật chung của thế  <br /> giới kết hợp với những đặc thù về tâm ­ sinh lý, văn hoá, ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam. <br /> Năm 1956, Trường  Âm nhạc Việt Nam ra đời (nay là Nhạc viện Quốc gia Hà Nội) và  <br /> ngày nay cùng với Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Nghệ thuật Huế và  <br /> các cơ sở đào tạo âm nhạc khác trong cả nước đã đào tạo một đội ngũ ca sĩ chuyên nghiệp  <br /> đông đảo phục vụ  đắc lực cho công cuộc bảo vệ, xây dựng đất nước, thực hiện thắng lợi  <br /> việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.<br /> <br /> PROFESSIONAL SINGING IN VIET AND ITS STAGES OF DEVELOPMENT<br /> <br /> Truong Ngoc Thang<br /> College of Art, Hue University<br /> <br /> SUMMARY<br /> <br /> Singing, the first form of art to have appeared in the human developmental process, is a  <br /> means to show and express one’s feelings, and the echo of human internal life… Professional  <br /> singing the peak of which is the singing currents of the European belcanto classical vocal music  <br /> school has been influencing and guiding all professional vocal music training activities of the  <br /> whole world.<br /> Formed and developed in only about half of the past century, the professional vocal  <br /> music art in Vietnam has complied with the general aesthetic and technical criteria of the world  <br /> 107<br /> and at the same time combine them with the special psycho­physiological, cultural and lingual  <br /> characteristics of the Vietnam.<br /> In   1956   the   Vietnam   Music   School   was   founded   (now   named   Hanoi   National  <br /> Conservatoire), which, together with HCMC Conservatoire, Hue College of Arts, and other  <br /> music   training   institutions   in   the   whole   country,   has   so   far   trained   a   great   number   of  <br /> professional singers, who have been serving actively the task of defending and building the  <br /> nation as well as the task of building and developing successfully the national identity of the  <br /> Vietnamese culture.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 108<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0