CÁC CHÍNH SÁCH THỰC HIỆN HIỆU QUẢ CỦA VIỆT NAM<br />
KHI THAM GIA VÀO CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)<br />
<br />
<br />
NCS. Huỳnh Tấn Hưng<br />
Trường Đại học Kinh tế - Luật<br />
Tóm tắt<br />
Trọng tâm của Cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community, viết<br />
tắt là AEC) là phát triển kinh tế khu vực dựa trên sự kết nối sức mạnh của thị trường<br />
mười nước ASEAN (Brunei Darussalam, the Philippines, Indonesia, Malaysia,<br />
Singapore, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Cambodia và Myanmar). Cho tới nay, mục tiêu đưa<br />
ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất đang được ASEAN thúc<br />
đẩy mạnh với mục đích hiện thực hóa AEC để AEC là tâm điểm giao thoa của hàng chục<br />
thỏa thuận thương mại song phương và đa phương khác mà ASEAN đang triển khai hoặc<br />
tham gia đàm phán với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Tân Tây Lan, Ấn Độ, …<br />
AEC sẽ trở thành mục tiêu hợp tác kinh tế cốt lõi của ASEAN, đóng vai trò xương sống<br />
trong nỗ lực liên kết ASEAN. Quá trình xây dựng AEC sẽ giúp thay đổi dần cơ cấu kinh<br />
tế theo hướng thích nghi, hỗ trợ quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam.<br />
Với sự chung sức của cộng đồng, sự quan tâm thỏa đáng của Nhà nước, AEC chắc chắn<br />
sẽ mang lại lợi ích đối với nền kinh tế Việt Nam.<br />
Từ khóa: AEC, cơ sở sản xuất thống nhất, cơ cấu kinh tế theo hướng thích nghi, mô hình<br />
tăng trưởng.<br />
<br />
<br />
Abstract<br />
The ASEAN Economic Community’s most important point is the regional<br />
economic development based on the power link of ten ASEAN nations including Brunei<br />
Darussalam, the Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, Thailand, Vietnam, Laos,<br />
Cambodia and Myanmar. So far, the target that making the ASEAN becomes a single<br />
market and a united production base has been promoted strongly with a view to realizing<br />
ASEAN Economic Community’s ambition of being an interference centre of tens of other<br />
bilateral and multilateral trade agreements. At present, these agreements are being<br />
developed or negotiated by China, Korea, Japan, Australia, New Zealand and India<br />
recently … The ASEAN Economic Community (AEC) will become an ASEAN bloc’s main<br />
economic cooperation target, play a backbone role in doing its utmost to link ASEAN<br />
together. The process of building AEC will help change Vietnam’s economic structure in<br />
the suitable direction and growth model with the co-power of the community and the<br />
satisfactory concern of the State, AEC will definitely bring benefits to Vietnam’s<br />
economy.<br />
Key words: AEC, united production base, economic structure in the suitable direction,<br />
growth model.<br />
1. Mở đầu<br />
<br />
1<br />
Để xây dựng ASEAN thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, các nước<br />
trong khối như Brunei Darussalam, Thailand, Indonesia, Malaysia, the Philippines,<br />
Singapore, Việt Nam, Cambodia, Myanmar và Laos hiện đang hướng tới xây dựng Đông<br />
Nam Á thành một khu vực hòa bình, đoàn kết và thịnh vượng. Tuy nhiên, với tính năng<br />
đa dạng của Hiệp hội các nước Đông Nam Á về chính trị, văn hóa và sự chênh lệch đối<br />
với trình độ phát triển kinh tế, Việt Nam phải có năng lực thực sự về xuất khẩu, phải tìm<br />
được mặt hàng chuyên biệt để xuất khẩu được trong quá trình cạnh tranh. Trước sự cạnh<br />
tranh quyết liệt của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản trong xu hướng toàn cầu hóa nền<br />
kinh tế - thương mại, AEC phải vượt qua những thách thức trong tương lai như di chuyển<br />
lao động, xây dựng thể chế, cải cách quy định và các vấn đề thể chế nhằm xây dựng<br />
AEC.<br />
Trong thập kỷ tới, tổ chức ASEAN phải tiến tới một Liên hiệp thống nhất như EU<br />
để mở rộng sự hợp tác với các nước trên thế giới, đặc biệt với những quốc gia có tiềm lực<br />
kinh tế chính trị mạnh. Do đó, mười quốc gia trong cộng đồng ASEAN phải luôn nỗ lực<br />
tạo nên một sức mạnh kinh tế hùng hậu cùng với chiến lược chính trị đúng đắn, có niềm<br />
tin để sẵn sàng ứng phó mọi gây hấn thù địch của bất cứ nước hùng hậu nào. Riêng Việt<br />
Nam cần có những biện pháp thích ứng xử lý những tình huống có thể xảy ra ở Biển<br />
Đông, nhất là vùng kinh tế đặc quyền của nước ta.<br />
Để tránh gặp phải nhiều thách thức khi Việt Nam tham gia Cộng đồng kinh tế<br />
ASEAN (viết tắt AEC) sẽ hình thành vào năm 2015, Nhà nước cần tranh thủ các cơ hội<br />
để xây dựng và phát triển những ngành hàng xuất khẩu còn yếu kém để xây dựng và phát<br />
triển những ngành hàng xuất khẩu còn yếu kém để tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài đối với<br />
những ngành hàng chủ lực của nước ta như nông - lâm - ngư nghiệp, khai khoáng, thực<br />
phẩm - thức uống - thuốc lá, dệt may - da giày, bán buôn - bán lẻ, nhà hàng - khách sạn.<br />
Trước đây, Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA: ASEAN Free<br />
Trade Area) là một Hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong<br />
khối ASEAN. Theo đó, Hiệp định này sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống<br />
0-5%, loại bỏ dần các hàng rào thuế quan đối với đa phần các món hàng và hài hòa hóa<br />
thủ tục hải quan giữa các nước.<br />
Sáng kiến về FTA vốn là Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết vào<br />
năm 1992 tại Singapore. Lúc đầu chỉ có Brunei Darussalam, Indonesia, the Philippines,<br />
Malaysia, Singapore và Thái Lan (gọi chung ASEAN-6). Sau thêm Cambodia, Laos,<br />
Myanmar và Việt Nam gọi là CLMV vào AFTA.Mục đích AFTA là nâng cao năng lực<br />
cạnh tranh của ASEAN với tư cách là một cơ sở sản xuất trên thế giới, đồng thời tăng<br />
cường tính hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.<br />
Về sau khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Trung Quốc (ASEAN - China Free<br />
Trade Area tức ACFTA hay CAFTA là khu vực mậu dịch tự do được ký giữa các nước<br />
ASEAN và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) và thành lập tháng 1/2010 được<br />
nêu ra và ký Nghị Định khung vào ngày 4/10/2002 tại Thủ đô Phnom Penh của<br />
Cambodia. Hiệp Định ký kết bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1/1/2010. Đây là khu vực Mậu<br />
dịch Tự do lớn nhất thế giới xét về diện tích và dân số (1,9 tỉ người trong đó Trung Quốc<br />
là hơn 1,3 tỉ người) nhưng đứng thứ ba về tổng thu nhập quốc dân sau Khu vực Mậu dịch<br />
Tự do của Bắc Mỹ và Khu vực Mậu dịch Tự do của Châu Âu. Bước đầu, theo thỏa thuận<br />
chung, các quốc gia thành viên (gồm Trung Quốc và 6 nước sáng lập ASEAN là Brunei<br />
2<br />
Darussalam, Indonesia, Malaysia, the Philippines, Singapore và Thái Lan) sẽ gỡ bỏ 90%<br />
hàng rào thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu của nhau kể từ 2010. Những thành viên<br />
khác của ASEAN như Việt Nam, Cambodia, Lào và Myanmar sẽ tham gia khu vực này<br />
theo một lộ trình kéo dài trong 5 năm (2015).<br />
Tuy nhiên, ngay sau đó Indonesia suy tính lại, và chỉ trong vài ngày sau khi hiệp<br />
ước có hiệu lực ngày 5/1/2010, Bộ Thương mại Indonesia đã đưa ra đề nghị hoãn việc áp<br />
dụng chế độ cắt giảm thuế nhập khẩu trong khuôn khổ hiệp định, đồng thời muốn “đàm<br />
phán lại” để “hàng hóa nhập khẩu rẻ” không tràn vào làm tràn ngập thị trường mà không<br />
thể bị ngăn chặn được. Các báo chí và doanh nghiệp trong vùng cũng quan ngại là hiệp<br />
định sẽ gây nhiều bất lợi cho họ, và sẽ càng làm tăng chênh lệch mậu dịch trong cán cân<br />
thương mại với Trung Quốc và làm mất khả năng công nghiệp hóa của các nước đi sau.<br />
Đây là một bài học kinh tế - thương mại đầy xương máu mà các quốc gia ASEAN cần rút<br />
ra một bài học đáng nhớ mãi về sau này.<br />
Cho đến tháng 10/2012, hàng hóa Trung Quốc và ASEAN đang tràn ngập thị<br />
trường Việt Nam.Đây là nỗi lo thật sự của nước ta về hàng hóa ASEAN+1. Để cân bằng<br />
hơn, Việt Nam phải đầu tư mạnh mẽ vào sản xuất, cải thiện sức cạnh tranh về chất lượng<br />
và giá hàng hóa so với khu vực.<br />
Hàng hóa Trung Quốc và ASEAN tràn ngập thị trường Việt Nam và tình hình sẽ<br />
nghiêm trọng hơn khi Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN (ASEAN +1)<br />
hoàn toàn có hiệu lực vào năm 2015. Trước hết các nhập khẩu ASEAN, Trung Quốc sẽ<br />
làm khó các nhà xuất khẩu Việt Nam về giá, hợp đồng, khối lượng hàng hóa.Đặc biệt là<br />
thị trường Trung Quốc rất thường xuyên xảy ra rủi ro cho các yếu tố trên.Riêng thị<br />
trường Mỹ, EU ít khi xảy ra ép giá hay bỏ hàng. Trái lại hàng Việt Nam vào thị trường<br />
Mỹ, EU với kim ngạch tăng liên tục. Chẳng hạn, Việt Nam xuất siêu vào Mỹ 10 tỉ USD<br />
trong 8 tháng đầu năm 2012 và vào Đức 1,1 tỉ USD (theo Tổng cục Hải quan). Đối với<br />
thị trường gần như ASEAN và Trung Quốc, Việt Nam phải nhập siêu liên tục.Tất cả các<br />
nước này đều áp dụng kỹ thuật khá chặt chẽ đối với hàng nhập khẩu. Chẳng hạn, sản<br />
phẩm Casumina phải rất gần 1 năm mới xin được giấy chứng nhận và chi phí cho việc<br />
gửi mẫu, việc cán bộ của nước sở tại đến tận công ty lấy mẫu … Vì vậy, nhiều doanh<br />
nghiệp ta nản chí khi đi tiếp cận thị trường. Nói chung, Việt Nam xuất siêu vào Mỹ, Đức,<br />
Nhật trái lại nhập siêu rất lớn từ Trung Quốc và một số nước ASEAN, những nền kinh tế<br />
sẽ cạnh tranh gay gắt với ta khi Hiệp định ASEAN+1 có hiệu lực hoàn toàn vào năm<br />
2015. Vì vậy, về phía Việt Nam, Nhà nước cần đầu tư trọng điểm một số lĩnh vực, ngành<br />
hàng có khả năng cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập AEC.Ngoài ra, các doanh nghiệp<br />
Việt Nam phải phấn đấu hạ giá thành trong cuộc cạnh tranh mói đầy gay go và quyết liệt<br />
này. Tóm lại, nước ta phải nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả 3 cấp: nhà nước, doanh<br />
nghiệp và sản phẩm. Hơn nữa, Việt Nam cần chú trọng đặc biệt đến công tác quản lý<br />
nhập khẩu, kiểm soát hàng hóa chặt chẽ hơn, tăng cường hàng rào kỹ thuật nhằm đối phó<br />
hàng Trung Quốc, đặc biệt hàng kém chất lượng.<br />
2. Khái quát về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).<br />
Các nguyên tắc nền tảng của Cộng đồng ASEAN như sau:<br />
- Thúc đẩy hình thành một ASEAN hướng về nhân dân nhưng chủ yếu ở trong đó<br />
khuyến khích mọi thành phần xã hội tham gia và hưởng lợi từ tiến trình liên kết và xây<br />
dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.<br />
3<br />
- Tôn trọng các quy định thương mại nhiều bên và các quy định của ASEAN dựa<br />
trên các chế độ cho sự áp dụng hiệu quả các cam kết kinh tế và dần dần giảm bớt hướng<br />
tới loại bỏ tất cả các rào cản với sự hội nhập kinh tế của khu vực, trong một nền kinh tế<br />
định hướng thị trường.<br />
Chính vì thế ASEAN đã ký kết các thỏa thuận tự do thương mại với Trung Quốc,<br />
Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Tân Tây Lan (New Zealand) và gần đây nhất là Ấn Độ.<br />
Xuất phát từ nền tảng cơ bản nói trên, một Cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN<br />
Economic Community được viết tắt là AEC) sẽ hình thành dự định vào năm 2015 và dần<br />
dần lớn mạnh trở thành một khối kinh tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN.<br />
Cộng đồng kinh tế ASEAN là một trong ba trụ cột quan trọng của Cộng đồng ASEAN<br />
nhằm mục đích thực hiện các mục tiêu đề ra trong tầm nhìn ASEAN 2020. Hai trụ cột<br />
còn lại là Cộng đồng An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN.<br />
Mục đích các nước ASEAN thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm<br />
hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh<br />
cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do và vốn được lưu<br />
chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, sự đói nghèo và sự chênh lệch phát triển<br />
kinh tế được giảm bớt dần đến năm 2020. Theo kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của<br />
ASEAN (2004-2010). Chương trình hành động Vientiane đã xác định rõ hơn mục đích<br />
của AEC là: tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua sự hội nhập nhanh hơn nhằm thúc<br />
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của ASEAN.<br />
Hiện nay, bối cảnh quốc tế mới đầy biến động của thời kỳ khủng hoảng tài chính<br />
và suy thoái kinh tế toàn cầu ngày càng lan rộng trên thế giới. Điều này cũng đã và đang<br />
tác động nhiều đến sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015.Đặc biệt<br />
vùng “Biển Đông mới nổi sống” gần đây đã tác động không nhỏ tới tiến trình hội nhập<br />
của khu vực Đông Nam Á.<br />
Thực tế, kinh tế thế giới đang có tốc độ tăng trưởng chậm, đặc biệt ở các nền kinh<br />
tế mới nổi như Ấn Độ, Brasil, Trung quốc, … Bối cảnh này làm cho các nhà đầu tư, các<br />
hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạch định lại chính sách phát triển kinh tế,<br />
thương mại theo chiều hướng phát triển bền vững chậm lại, theo lộ trình tăng trưởng<br />
mạnh và vững chắc. Ngoài ra, tình hình an ninh ở Nga, Ukraine, Syrie, Iraq, Palestine,<br />
Israel, … ngày càng xấu đi do tranh chấp lãnh thổ leo thang, bạo động, nội chiến, … Do<br />
đó, các tiến trình hội nhập của ASEAN thiếu liên kết và chậm lại. Trong bối cảnh kinh tế<br />
như thế, nhiều nhà kinh tế khuyến nghị các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt ở Cộng<br />
đồng ASEAN nên cố gắng tìm cách tái cơ cấu lại nền kinh tế để cân đối các nguồn tăng<br />
trưởng nhằm hướng tới phát triển kinh tế bền vững, ưu tiên phát triển ngành công nghiệp<br />
hỗ trợ, nâng cao mức tiêu thụ hàng hóa nội địa để phục vụ dân nghèo ở nông thôn và tầng<br />
lớp trung lưu ở thành thị. Đây là hướng phát triển thị trường nội địa trong tư thế chuẩn bị<br />
tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm mục đích đưa cộng đồng các nước<br />
ASEAN trở nên tâm điểm hội nhập khu vực châu Á - Thái Bình Dương.<br />
3. Thời cơ mang lại cho Việt Nam từ Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).<br />
Cộng đồng kinh tế ASEAN thực tế là một khối kinh tế trong khu vực có quy mô<br />
cam kết rộng và sâu hơn các hiệp định mà Việt Nam đã từng tham gia từ trước đến nay.<br />
<br />
<br />
4<br />
Vì vậy, việc tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015 sẽ tạo nhiều cơ hội<br />
cho Việt Nam, cụ thể như sau:<br />
Thứ nhất, AEC giúp Việt Nam có cơ hội tận dụng tốt nhất kết quả tái cấu trúc thị<br />
trường thế giới và khu vực Đông Nam Á để tham gia tích cực chuỗi sản xuất và cung ứng<br />
khu vực 10 quốc gia thuộc Cộng đồng ASEAN. Điều này sẽ tác động mạnh đến việc giải<br />
quyết việc làm ở nước ta, và tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế lẫn giải quyết<br />
việc làm ở các quốc gia Đông Nam Á khác. Hơn nữa, chiến lược phát triển kinh tế xã hội<br />
nước ta trong giai đoạn 2011-2020 xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt từ 7-8% năm.<br />
Do đó, Nhà nước phải tạo ra nhiều việc làm cho thanh niên lao động, đặc biệt ở nông<br />
thôn (vùng sâu vùng xa), để góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông nghiệp,<br />
nông thôn. Đây là một bài toán nan giải hiện nay của Đảng và Nhà nước, đặc biệt vùng<br />
Đồng bằng Sông Cửu Long có dân tộc người Khmer, người Chăm sinh sống. Ngoài ra,<br />
Nhà nước cũng cần đưa ra chính sách giải quyết việc làm của nền kinh tế nói chung và<br />
các khu vực kinh tế nói riêng trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.<br />
Ngoài ra, Việt Nam cần tập trung vào các giải pháp cụ thể như:<br />
- Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định.<br />
- Thực hiện chính sách tài chính chặt chẽ.<br />
- Giảm chi ngân sách.<br />
- Tăng cường vốn vào những công trình trọng điểm quốc gia.<br />
- Thúc đẩy thị trường bất động sản giảm dần bị đóng băng.<br />
- Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ gia đình tăng cường sản xuất<br />
hiệu quả …<br />
- Cần có những biện pháp cấp thiết để huy động các nguồn lực tài chính, các<br />
nguồn lực tự nhiên nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế bền vững.<br />
Thứ hai, AEC thúc đẩy nước ta quan tâm nhiều hơn các doanh nghiệp nhỏ và vừa,<br />
hộ gia đình sử dụng công nghệ sản xuất thâm dụng lao động để tạo việc làm của người<br />
lao động ở khu vực nông thôn, đồng thời hoàn chỉnh các trang trại sản xuất, phát triển<br />
doanh nghiệp tư nhân …<br />
Thứ ba, AEC giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình đào tạo nghề cho người lao động<br />
ở thành thị và nông thôn để biết tiếp cận công nghệ, tổ chức quản lý … nhằm tăng năng<br />
suất lao động. Việc đào tạo nghề do chính các doanh nghiệp tự đào tạo tại chỗ, hoặc gửi<br />
các công nhân đến những trung tâm dạy nghề ở địa phương …<br />
Thứ tư, AEC tạo cơ hội cho nước ta thực hiện tích cực chiến lược chủ động hội<br />
nhập khu vực để nâng cao vị thế địa lý chính trị của Việt Nam ở Biển Đông nhằm mục<br />
đích củng cố môi trường hòa bình, ổn định khu vực và đảm bảo an ninh, quốc phòng đất<br />
nước.<br />
Thứ năm, AEC tạo môi trường thuận lợi cho Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng<br />
chủ lực như dệt may, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản, túi xách, … tới Brunei<br />
Darussalam, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Myanmar, …<br />
Thứ sáu, AEC giúp Việt Nam quyết liệt tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước để thúc<br />
đẩy tăng trưởng trong cả ba khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nhằm phấn đấu<br />
5<br />
đạt mức tăng trưởng cả năm là 5,8% (2014). Như thế, sang năm 2015 nước ta mới tự tin<br />
vào AEC vì không còn doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Ngoài ra,<br />
Việt Nam cũng phải mạnh dạn thực hiện tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém và cần thiết<br />
thì sát nhập, giải thể theo đúng pháp luật vì lợi ích nhân dân và vì sức cạnh tranh của nền<br />
kinh tế nước ta khi tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự kiến vào năm tới.<br />
Thứ bảy, AEC tạo cơ hội tốt cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam sang các nước<br />
như Myanmar, một thị trường rất chuộng hàng “made in Vietnam” vì chất lượng, mẫu mã<br />
tốt hơn hẳn hàng Trung quốc, giá cạnh tranh hơn hàng Thái Lan. Theo ước tính, 70%<br />
hàng hóa tại Myanmar phải nhập khẩu (dân số Myanmar khoảng 60 triệu người), nên đây<br />
là cơ hội tốt cho doanh nghiệp Việt Nam để có những kế hoạch tiếp cận thị trường này<br />
một cách phù hợp và hiệu quả nhất. Myanmar đang trong giai đoạn mở cửa nên rất cần<br />
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, thực phẩm chế biến, hàng tiêu dùng,<br />
vật liệu xây dựng cho nhu cầu xây dựng khách sạn, khu phức hợp, văn phòng cho thuê,<br />
nhà ở, … Ngoài ra, các công ty du lịch Việt Nam cũng phải nhanh chóng khai thác ngành<br />
du lịch đầy tiềm năng ở Myanmar.<br />
Thứ tám, AEC thúc đẩy các nhà làm chính sách công phù hợp với điều kiện kinh<br />
tế nước ta để đầu tư công nhiều hơn vào những lĩnh vực có tỷ suất sinh lợi cao với mục<br />
đích đưa đến các mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn trong dài hạn. Ngoài ra, nền<br />
kinh tế mở nước ta rất dễ tiếp cận công nghệ mới và ý tưởng mới của thế giới. Như vậy,<br />
nền kinh tế mở giúp nước ta phân công lao động hợp lý hơn và quá trình sản xuất phù<br />
hợp hơn về lợi thế cạnh tranh, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam nhanh<br />
hơn và hàng hóa nước ta trong AEC mới đủ sức cạnh tranh những sản phẩm có thương<br />
hiệu từ lâu của Thái Lan, Singapore, Malaysia, …<br />
Thứ chín, việc gia nhập AEC của Việt Nam sẽ giúp các nhà đầu tư ngoại khối để<br />
tìm đến nước ta nhiều hơn vì họ có thể tận dụng được nguồn lực có chi phí thấp và có thể<br />
tiêu thụ hàng hóa bên trong AEC với những cơ chế thương mại tự do nội khối. Ngoài ra,<br />
Việt Nam lại ở gần Trung quốc nên những nhà đầu tư ngoại khối luôn luôn muốn tiếp cận<br />
thị trường khổng lồ này để tiêu thụ hàng hóa của mình với lợi nhuận cao hơn. Như vậy,<br />
Việt Nam là môi trường tốt đối với các nhà đầu tư ngoại khối ASEAN và họ luôn tìm<br />
cách góp phần xây dựng nền kinh tế Việt Nam phát triển những ngành nghề xuất khẩu<br />
cho tiêu thụ ở bên trong lẫn bên ngoài AEC. Chẳng hạn, gần đây vào chiều ngày<br />
11/8/2014, ông Pascal Lamy, nguyên Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới<br />
(WTO) có buổi tọa đàm với các doanh nghiệp nhân chuyến thăm và làm việc tại Việt<br />
Nam. Ông Pascal Lamy đánh giá cao những thành tựu kinh tế mà Việt Nam đạt được sau<br />
nhiều năm gia nhập WTO, nhất là những thành công về tăng trưởng kinh tế, thương mại,<br />
thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và du lịch. Ngoài ra, ông cũng phát biểu là<br />
thương mại thế giới là vấn đề bảo vệ người tiêu dùng thay vì bảo vệ người sản xuất, xoay<br />
quanh vấn đề chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩnsản phẩm, … Ngoài ra, đến thăm Thành<br />
phố Hồ Chí Minh ngày 26/8/2014, Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Jose Manuel Barroso<br />
khẳng định ông có niềm tin lớn đối với vào tiềm năng kinh tế và thương mại của Việt<br />
Nam. Theo Chủ tịch EC, để duy trì đà tăng trưởng kinh tế và phát triển, Việt Nam cần<br />
tiếp tục cải cách thị trường theo hướng tự do hóa, cần thêm sự minh bạch và cởi mở. Tuy<br />
nhiên, nếu trong thời gian ngắn tới FTA với EU đạt được thì Việt Nam sẽ có ảnh hưởng<br />
lớn trong quá trình hồi phục kinh tế sau ba năm suy giảm và sẽ giúp Việt Nam có nhiều<br />
lợi thế cạnh tranh hơn trong khối AEC. EU là đối tác thương mại quan trọng của Việt<br />
6<br />
Nam.EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam.Thương mại song phương tăng<br />
gần 20% mỗi năm, đạt 27 tỉ Euro (37 tỉ USD) trong năm 2013.EC và các nước thành viên<br />
EU cũng là nhà cung cấp viện trợ không hoàn lại lớn nhất của Việt Nam. Trong giai đoạn<br />
2014-2020, EC đã cam kết viện trợ không hoàn lại 400 triệu Euro cho Việt Nam, nhiều<br />
hơn 100 triệu Euro so với giai đoạn 2007-2013. Đây là một lợi thế to lớn tác động mạnh<br />
đối với việc nước ta gia nhập AEC dự kiến thành lập vào năm 2015.<br />
4. Những thách thức của Việt Nam khi tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN(AEC)<br />
Khi tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) có nhiều cơ hội mang đến cho<br />
nước ta như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều thách thức như<br />
sau:<br />
Một là, Việt Nam cần sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp theo thông lệ quốc tế:<br />
Nước ta phải nỗ lực nhiều để hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, nhất là hệ thống thể<br />
chế kinh tế thị trường và đồng thời thực hiện cam kết xây dựng chính quyền các cấp một<br />
cách minh bạch.<br />
Hai là, Việt Nam hiện nay phải quyết tâm triển khai tái cơ cấu nền kinh tế nông<br />
nghiệp: Việc này tiến triển rất chậm, chưa căn bản, chưa tạo thành hệ thống, chưa phân<br />
bổ sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Các thể chế chính sách nhằm mục đích tạo môi<br />
trường thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp không kịp thời sửa đổi, bổ sung đồng bộ. Do<br />
đó, từ năm 2010 đến nay, mức đầu tư của ngân sách nhà nước vào nông nghiệp nông thôn<br />
rất thấp, trên dưới 1,5% GDP. Đây là khu vực rất quan trọng luôn luôn giúp ổn định nền<br />
kinh tế.Vì thế, nhà nước cần tăng mức đầu tư chế độ nông nghiệp, nông thôn nhiều hơn.<br />
Ba là, Việt Nam cần chấn chỉnh doanh nghiệp nhà nước:<br />
Vấn đề chấn chỉnh này theo hai hướng sau để thúc đẩy kỹ thuật cao - mới “tân<br />
kinh tế hóa” các ngành truyền thống:<br />
- Thu hẹp quyết liệt bằng cách giảm đầu tư công từ khu vực này để giảm bớt bộ<br />
máy doanh nghiệp nhà nước với mục đích chuyển nguồn lực cho khu vực tư nhân nhằm<br />
đạt hiệu quả cao hơn. Việt Nam khuyến khích nguồn vốn tư nhân đầu tư vào các xí<br />
nghiệp kỹ thuật cao, động viên các xí nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình tham gia kế hoạch<br />
phát triển và đổi mới của AEC.<br />
- Trong dài hạn, đầu tư tư nhân mới là yếu tố tác động mạnh nhất đến tăng trưởng<br />
kinh tế Việt Nam. Đầu tư công đã tác động tích cực tới tăng trưởng của Việt Nam nhưng<br />
chỉ tác động trong khoảng thời gian năm năm, sau đó giảm dần.<br />
Theo Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Kế hoạch - đầu tư), năm 2011 ước tính theo<br />
quốc tế thì nợ công của Việt Nam là 128,9 tỉ USD, tương đương 106% GDP, nhưng theo<br />
Bộ Tài chính công bố chỉ 66,8 tỉ USD và bằng 55% GDP.Ngân sách nhà nước luôn bị<br />
thâm hụt, cán cân thương mại cũng bị thâm hụt. Điều này dẫn đến cứ vay nợ rồi không sử<br />
dụng hiệu quả thì chắc chắn cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ xảy ra.<br />
- Tái cấu trúc lĩnh vực bất động sản hiện nay theo đúng quy luật thị trường, chấp<br />
nhận cho phá sản, rồi ngân hàng siết nợ, bán theo giá người dân chấp nhận được.<br />
Bốn là, Việt Nam cần có vai trò cầu nối, liên kết giữa các chủ trang trại với nhà<br />
khoa học, trung tâm nghiên cứu khoa học: Điều này sẽ đẩy nhanh quá trình ứng dụng<br />
khoa học kỹ thuật, đưa công nghệ mới vào chăn nuôi, sản xuất; tư vấn hỗ trợ chủ trang<br />
7<br />
trại, đặc biệt chủ trang trại trẻ; xây dựng thương hiệu sản phẩm; tìm thị trường tiêu thụ<br />
nhất là ở Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Do đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh<br />
doanh … cũng sẽ có cơ hội phát triển hơn và đưa sản phẩm của mình vào AEC.<br />
Năm là, bất cứ doanh nghiệp Việt Nam nào muốn đầu tư vào Cộng đồng kinh tế<br />
ASEAN (AEC) cũng phải hội nhập về cả văn hóa, phong tục, tập quán của quốc gia đó:<br />
Thực tế, những hành vi, cử chỉ đôi khi nhỏ nhưng lại có ảnh hưởng lớn. Vì thế, người<br />
đứng đầu một doanh nghiệp cũng phải hiểu về những văn hóa giao tiếp dù là nhỏ nhất.<br />
Khó khăn về ngôn ngữ cũng là một rào cản lớn khi đầu tư ra vào Laos, Cambodia,<br />
Indonesia, Singapore, Thái Lan và gần đây là Myanmar. Chẳng hạn, để hướng dẫn sử<br />
dụng, giới thiệu và truyền đạt kiến thức về trồng trọt một cách rõ ràng đến những người<br />
nông dân Cambodia thì cần phải sử dụng ngôn ngữ của họ. Điều này thể hiện đảm bảo độ<br />
chính xác đồng thời thể hiện sự hoàn thiện, thành ý của nhà sản xuất đối với người tiêu<br />
dùng thuộc Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) ngay trên mảnh đất quê hương của họ.<br />
Sáu là, hiện nay điểm đến chủ yếu của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn là những<br />
thị trường lân cận như Lào, Cambodia, Singapore, Indonesia,…:Ngoài ra, các doanh<br />
nghiệp Việt Nam phải nghiên cứu kỹ thị trường, phải suy nghĩ cẩn thận và thấu đáo về kế<br />
hoạch đầu tư nước ngoài ở AEC. Đôi khi một số doanh nghiệp Việt Nam chỉ nhìn thấy<br />
mặt tích cực mà chưa thấy mặt trái. Việc phân tích và đánh giá các cơ hội đầu tư không<br />
chỉ dựa vào chủ quan của nhà đầu tư mà còn cần có sự tư vấn, những ý kiến phản biện<br />
trái chiều của luật sư, cố vấn pháp luật, … . Đối với những dự án đầu tư có giá trị lớn,<br />
nhà đầu tư Việt Nam cần có sự tư vấn về thuế, về pháp lý của nước sở tại trong Cộng<br />
đồng kinh tế ASEAN (AEC). Ngoài ra, các nhà đầu tư Việt Nam phải có những khảo sát<br />
nghiên cứu khá sâu về thị trường trước khi quyết định đầu tư vào AEC.Nếu nhà đầu tư<br />
nước ta thiếu hiểu biết về môi trường đầu tư ở AEC thì việc đầu tư ra nước ngoài có thể<br />
dẫn đến mất hết tài sản lẫn tiền bạc. Chẳng hạn, ngày nay doanh nghiệp Việt Nam muốn<br />
đầu tư vào Indonesia mà không tham khảo luật sư sở tại thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong<br />
việc mua nhà, văn phòng … .Khung pháp lý của Indonesia hoàn toàn khác với các nước<br />
khác trong AEC, kể cả việc muốn sửa chữa nhà cũng không dễ dàng.<br />
Bảy là, trước khi Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)hình thành cuối năm 2015,<br />
Việt Nam và các nước thành viên khác trong khối ASEAN có nhiều thách thức đã và<br />
đang đặt ra trước mắt: Các nước thành viên ASEAN đang tăng tốc và đẩy mạnh các nỗ<br />
lực để AEC hình thành đúng kế hoạch, tìm giải pháp giải quyết những thách thức như<br />
chênh lệch trong trình độ phát triển giữa các nước thành viên, thách thức về kết nối, giao<br />
thông, những quan ngại về an ninh phi truyền thống khi khu vực hội nhập … . Trước<br />
thềm AEC, có nhiều ý kiến trái chiều về cơ hội và thách thức trong thời gian tới vì hơn<br />
một nửa dân số trong khối ASEAN là hơn 600 triệu người vẫn chưa nhận thức được điều<br />
gì đang xảy ra. Người ta còn quan ngại về kỹ năng và sự nhận thức của doanh nghiệp<br />
trong khu vực về AEC. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay không nhận thức<br />
được đầy đủ những thách thức của AEC, hoặc chưa sẵn sàng đầu tư vào các cơ hội. Hầu<br />
hết các doanh nghiệp Việt Nam lạc quan về sự linh hoạt trong nguồn lao động, hàng rào<br />
thương mại được nới lỏng, dòng đầu tư chảy tự do … nên chưa có chính sách về sự sẵn<br />
sàng đối mặt với cạnh tranh được tạo nên từ một thị trường lao động hội nhập khu vực.<br />
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), chỉ có 46% doanh nghiệp hiểu toàn diện về tác<br />
động của AEC đối với việc kinh doanh của họ. Với tài nguyên kinh tế phong phú khắp<br />
khu vực, ASEAN sẽ có sự dịch chuyển lớn của những lao động tay nghề thấp từ những<br />
8<br />
nước nghèo sang những nước giàu hơn. Từ đó sẽ có những tác động xã hội tiêu cực.Xu<br />
hướng này thật khó giải quyết. Ngoài ra khu vực ASEAN sẽ thiếu hụt lao động lành<br />
nghề, nguồn nhân lực chất lượng cao, ở một số lĩnh vực cụ thể. Khi tham gia vào Cộng<br />
đồng kinh tế ASEAN, nguồn nhân lực Việt Nam có năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển<br />
đất nước, nhất là ở ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao để có thể đưa GDP tăng lên<br />
14,5%, sẽ thiếu trầm trọng.Khi tham gia AEC, tăng trưởng việc làm lên 10,5% …<br />
Tám là, điều đáng quan tâm hiện nay là các doanh nghiệp Việt Nam chưa chuẩn bị<br />
nhiều để bắt đầu chiến dịch nâng cao nhận thức về AEC: Ngay trong ASEAN, quá trình<br />
liên kết kinh tế cũng được tăng cường theo chiều sâu với việc lập AEC, làm cho ASEAN<br />
thay đổi một cách mạnh mẽ vào năm 2020. Để tránh bớt lo lắng của dân ta về Cộng đồng<br />
kinh tế ASEAN (AEC), Nhà nước và doanh nghiệp nên có chiến dịch nâng cao nhận thức<br />
về AEC một cách rầm rộ khắp Việt Nam.Chẳng hạn, các trường Đại học, các trung tâm<br />
ngoại ngữ nên quảng cáo liên tục các khóa học tiếng Anh và ngôn ngữ các nước ASEAN.<br />
Ngoài ra, đài truyền hình, đài phát thanh nước ta luôn có những bộ phim truyền hình,<br />
những bài quảng bá AEC trên đài phát thanh để nhân dân ta có thêm nhận thức về Cộng<br />
đồng kinh tế ASEAN.<br />
Chính phủ hiện cũng rất quan ngại các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa<br />
và nhỏ, không thể cạnh tranh trong môi trường mới vì nhiều lý do: khả năng nói tiếng<br />
Anh yếu và thiếu kiến thức về các nước láng giềng. Vì vậy, chiến dịch nâng cao nhận<br />
thức cho người dân cần được thực hiện một cách nghiêm chỉnh.Thực tế, nếu một chiến<br />
dịch về AEC được tổ chức tốt thì nó sẽ đem lại nhiều lợi ích và kiến thức hơn.Chính phủ<br />
nên thực hiện nhiều biện pháp để chuẩn bị cho AEC ở cả khối nhà nước và tư nhân, mặc<br />
dù dân chúng chưa được tuyên truyền tốt lắm. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần nâng cao<br />
nhận thức của người dân về Việt Nam, vì nước ta là một bộ phận không thể tách rời của<br />
ASEAN do có vị thế địa - chính trị quan trọng ở Đông Nam Á, đặc biệt ở vùng Biển<br />
Đông. Chính nhận thức của từng người dân về ASEAN sẽ là thành tố cơ bản để Việt<br />
Nam bước vào ASEAN vào năm 2015 một cách năng động hơn bao giờ hết. Hơn nữa,<br />
theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới công bố ngày<br />
3/9/2014, Việt Nam tăng hai hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu, xếp thứ 68 trên 148 nền<br />
kinh tế. Kinh tế vi mô tiếp tục cải thiện và lạm phát giảm còn 6,6%. So với năm 2013,<br />
các vấn đề như tham nhũng tiếp tục giảm đáng kể trong khi chất lượng giao thông vận tải,<br />
hạ tầng năng lượng chỉ cải thiện nhẹ. Ngoài ra, trong khi thị trường lao động nhiều nước<br />
gặp nhiều vấn đề thì Việt Nam xếp ở vị trí khá ổn định, thứ 49. Đặc biệt các doanh<br />
nghiệp Việt Nam lại chậm trong việc áp dụng các công nghệ mới nhất. Thành thử, Việt<br />
Nam thuộc nhóm năm nền kinh tế lớn nhất là Malaysia, Thái Lan, Indonesia, the<br />
Philippines cần phải tận dụng hiệu quả cao những cơ hội mà Cộng đồng kinh tế ASEAN<br />
(AEC) mang lại, cần phải thường xuyên nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng<br />
xuất khẩu, đổi mới mặt hàng, đáp ứng các tiêu chí về quy tắc xuất xứ để được hưởng các<br />
ưu đãi về thuế quan. Hội nhập AEC là cơ hội để các doanh nghiệp cải cách và hình thành<br />
khu vực doanh nghiệp đủ mạnh hướng về xuất khẩu mặt hàng chuyên biệt trong quá trình<br />
cạnh tranh trong bối cảnh các rào cản thuế quan sẽ về 0% vào cuối năm 2015.<br />
Chín là, Việt Nam phải nâng cao chất lượng cạnh tranh của nền kinh tế: Nâng cao<br />
năng lực cạnh tranh đã trở thành nhiệm vụ “sống còn” đối với cả nền kinh tế và đối với<br />
mỗi doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền<br />
vững khi tham gia vào AEC, Việt Nam cấp thiết phải hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể<br />
9<br />
chế, đổi mới tư duy để phát huy vai trò tích cực của cơ chế thị trường; nâng cao năng suất<br />
lao động; tích cực đổi mới công nghệ sản xuất ở các doanh nghiệp; tập trung đầu tư và<br />
phát triển bền vững khu vực nông nghiệp, nông thôn, dựa trên cơ sở nâng cao năng suất<br />
lao động và sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp trong nền kinh tế khi bắt đầu<br />
gia nhập vào AEC vào năm 2015.<br />
5. Gợi ý giải pháp tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức của Cộng đồng kinh tế<br />
ASEAN (AEC) đối với Việt Nam<br />
Để có thể tận dụng tốt nhất các cơ hội và vượt qua các thách thức mà AEC mang<br />
đến cho Việt Nam, trong thời gian tới Việt Nam cần phải thực hiện các giải pháp sau:<br />
- Đối với nhà nước. Nhà nước phải đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị<br />
trường, xóa bỏ mọi phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, bằng<br />
cách quốc hội mạnh dạn thay đổi cách làm luật, tích cực ban hành các luật, bộ luật phù<br />
hợp với thể chế kinh tế thị trường. Trong thời gian qua, có nhiều luật phải bị mất rất<br />
nhiều thời gian để luật đó có thể đi vào cuộc sống vì các nghị định của chính phủ, các<br />
thông tư hướng dẫn thực hiện luật của các bộ, ngành liên quan chưa được ban hành, hoặc<br />
các thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành không phù hợp với nội dung luật. Điều này<br />
gây khó khăn cho việc thực hiện luật.<br />
- Đối với chính phủ. Trước hết chính phủ cần đẩy mạnh cải cách hành chánh ở các<br />
cấp để minh bạch hóa hoạt động của chính quyền nhằm xây dựng chính quyền trong sạch<br />
với mục đích thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, nâng cao sức cạnh tranh quốc<br />
gia đối với những nước khác trong AEC.<br />
- Đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam trước hết chủ động tìm hiểu<br />
thông tin về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự kiến thành lập vào năm 2015, tiếp xúc<br />
các nhà nghiên cứu AEC để trao đổi những vấn đề cụ thể mà doanh nghiệp quan tâm để<br />
tận dụng cơ hội do AEC mang lại. Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam cũng có những biện<br />
pháp nâng cao tính cạnh tranh, và chủ động tham gia vào chuỗi cung ứng trong khu vực<br />
ASEAN. Để hội nhập AEC dễ dàng, doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao chất lượng<br />
nhân lực, xây dựng chiến lược hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và tận dụng<br />
cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp trong khối ASEAN để tranh thủ lợi thế về vốn, kỹ<br />
thuật, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao của AEC. Riêng các tổ chức, doanh<br />
nghiệp sản xuất nông nghiệp phải đổi mới theo hướng tăng quy mô sản xuất, tập trung<br />
chuyên canh, áp dụng kỹ thuật sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất lao động và chất<br />
lượng sống ở khu vực nông thôn.<br />
- Đối với công nghiệp hỗ trợ.Tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là<br />
cơ hội lớn nếu nắm bắt được. AEC là cơ sở để Việt Nam phát triển nền sản xuất và tạo<br />
điều kiện thuận lợi gắn kết các doanh nghiệp nước ta vào chuỗi sản xuất toàn cầu nói<br />
chung và khối ASEAN nói riêng, để dần nâng cao công nghệ của đất nước … . Hiện<br />
ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chưa phát triển, phải dựa vào linh kiện và phụ<br />
tùng nhập khẩu (chủ yếu từ Trung quốc) đã làm tăng chi phí sản xuất, tăng nguy cơ nhập<br />
siêu và tính cạnh tranh thấp. Đứng trước nhu cầu vô cùng cấp thiết phải phát triển công<br />
nghiệp hỗ trợ trước khi Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) thành lập vào năm 2015,<br />
Chính phủ và Bộ công thương đẩy nhanh Chương trình quốc gia phát triển công nghiệp<br />
hỗ trợ để thống nhất chỉ đạo điều hành sớm thành lập các trung tâm phát triển công<br />
nghiệp hỗ trợ ở các vùng kinh tế trọng điểm. Các trung tâm này sẽ hỗ trợ chuyên gia,<br />
10<br />
thiết kế mẫu mã, sản xuất thử nghiệm sản phẩm, kết hợp kiểm nghiệm và kiểm tra chất<br />
lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn để doanh nghiệp kịp điều chỉnh, đáp ứng yêu cầu của các<br />
tập đoàn. Ngoài ra, các trung tâm này cũng giúp thúc đẩy kết nối mạng lưới tiêu thụ để<br />
làm giảm chi phí cho doanh nghiệp. Vai trò của những trung tâm hỗ trợ rất quan trọng đối<br />
với doanh nghiệp Việt Nam mà năng lực còn hạn chế, và thiếu các trung tâm này thì các<br />
doanh nghiệp Việt Nam khó phát triển nổi. Ngành công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi chi phí cho<br />
máy móc công nghệ lớn hơn bất cứ ngành công nghiệp nào. Tuy nhiên, để được vay ưu<br />
đãi, theo quy định hiện nay, phải qua hội đồng thẩm định do các bộ, ngành thực hiện … .<br />
Ngoài ra, nước ta đang đứng trước tình cảnh cấp bách vì đến năm 2018, cơ bản tất cả các<br />
dòng thuế theo lộ trình cam kết thương mại tự do AFTA sẽ về 0%. Khi đó, Việt Nam sẽ<br />
khó lòng phát triển công nghiệp hỗ trợ nữa. Ngày 28/8/2014, Hiệp hội doanh nghiệp<br />
ngành công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hà Nội (HANSIBA) đã tổ chức hội thảo “Giải pháp<br />
tài chính và hạ tầng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ” để tìm gói tín dụng với lãi suất<br />
ưu đãi từ 8% và đặc biệt là không phải thế chấp tài sản …<br />
6. Kết luận<br />
Qua 45 năm hình thành và phát triển ASEAN, sự ra đời của AEC là sự tiếp nối của<br />
các chương trình hợp tác kinh tế nội khối ASEAN với khoảng 600 triệu người tiêu dùng<br />
và tổng GDP hơn 1.850 tỷ USD. AEC sẽ hướng tới việc đưa ASEAN thành một thị<br />
trường và cơ sở sản xuất thống nhất, một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao, phát<br />
triển kinh tế cân bằng và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.<br />
Với những mục tiêu đã đặt ra nhằm hiện thực hóa AEC, các nước thành viên<br />
ASEAN sẽ có những lợi ích như tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, tạo ra nhiều việc làm<br />
hơn, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ hơn, phân bố nguồn lực chất<br />
lượng cao tốt hơn, tăng cường năng lực sản xuất và tính cạnh tranh cao hơn.<br />
Mục tiêu của AEC là hình thành thị trường chung, trong đó có sự di chuyển tự do của<br />
các yếu tố sản xuất như các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, vốn, lao động có tay nghề. Sự<br />
thành công của AEC sẽ giúp cho ASEAN tăng GDP từ 720 tỷ USD hiện nay lên 2,6 ngàn tỷ<br />
USD, thu nhập bình quân đầu người tăng từ mức 1.400USD lên 3.000 USD.<br />
Tóm lại, liên kết kinh tế quốc tế là xu hướng chủ yếu trong những thập kỷ đầu của<br />
thế kỷ XXI.Các liên kết kinh tế quốc tế - một cơ cấu kinh tế lớn - sẽ có quyền độc lập tự<br />
chủ và ảnh hưởng tới nền kinh tế thế giới.Hiện nay, châu Á - Thái Bình Dương dù còn<br />
tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định nhưng vẫn có khả năng trở thành khu vực phát triển<br />
năng động nhất.Ngoài ra, chính quá trình toàn cầu hóa và tác động của cách mạng khoa học<br />
công nghệ hiện đại đã và đang mang lại những thay đổi trong quá trình quản lý kinh tế đối<br />
với Việt Nam trước khi tham gia vào AEC năm 2015./.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
11<br />
Tài liệu tham khảo<br />
1. GS. Vũ Dương Ninh (chủ biên), 2004 “Việt Nam - ASEAN: Quan hệ đa<br />
phương và song phương”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.<br />
2. PGS. TS Nguyễn Văn Trình, 2014, “Các giải pháp thực hiện hiệu quả Hiệp<br />
định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”, Tạp chí Phát triển nhân lực,<br />
UBND Thành phố Hồ Chí Minh.<br />
3. Lê Nam, 2013, “Đa dạng hàng Việt vào Myanmar”, Báo Tuổi Trẻ ngày<br />
18/4/2014.<br />
4. TS. Phạm Đỗ Chí (chủ biên), 2012, “Từ bình ổn vĩ mô đến tái cơ cấu kinh<br />
tế”, NXB Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh.<br />
5. PGS. TS. Kim Ngọc, 2004, “Kinh tế Thế giới 2020 - Xu hướng và thách<br />
thức”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.<br />
6. GS. Trần Văn Thọ, 2006, “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công<br />
nghiệp hóa Việt Nam”, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
12<br />