intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các mô hình khoán trong xây dựng

Chia sẻ: Ba To City | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:7

99
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu "Các mô hình khoán trong xây dựng" trình bày về khái niệm và nguồn gốc của công tác giao, nhận khoán trong xây dựng, các hình thức giao khoán và thanh toán giao khoán trong xây dựng, căn cứ thực hiện công tác kế toán giao khoán và thanh toán giao khoán,... Với các bạn đang học chuyên ngành Xây dựng thì đây là tài liệu tham khảo hữu ích.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các mô hình khoán trong xây dựng

  1. 1.2. Khoán trong xây dựng. 1.2.1.  Khái niệm và nguồn gốc của công tác giao, nhận khoán  trong xây dựng. 1.2.1.1. Khái niệm. Giao khoán sản phẩm xây lắp là một biện pháp kinh tế cần thiết, là sự  thoả thuận giữa bên giao khoán và bên nhận khoán để hoàn thành khối lượng  công tác xây lắp đảm bảo chất lượng và thời gian thi công tương ứng với sè   chi phí đã quy định trong dự toán giao khoán. Biện pháp kinh tế này được xây   dựng trên cơ  sở  khống chế  các khoản chi phí theo định mức để  đạt được   khoản lãi định trước. Khoản lãi này được xác định bằng sự chênh lệch giữa giá nhận thầu với giá thành giao khoán, nó phản ánh sự vượt trội hay hao hụt về mặt nhân lực, công nghệ, kỹ thuật trong thi công giữa các doanh nghiệp. Khoản lãi càng cao, chứng tỏ trình độ công nghệ sản xuất của doanh nghiệp càng vượt trội và ngược lại. Trên   góc   độ   quản   lý,   khoán   trong   xây   dựng   được   đánh   giá   là   một  phương thức quản lý hữu hiệu, trong đó bên giao khoán giao quyền quản lý  các yếu tố của quá trình thi công xây lắp cho bên nhận khoán, bên nhận khoán  có nghĩa vụ thực hiện mét sè chỉ tiêu, đảm bảo các điều kiện và được hưởng   các quyền lợi như  đã quy định trong hợp đồng giao khoán. Như  vậy, khoán  trong xây dựng được nhìn nhận như một cách thức quản lý nhằm xác định rõ  chủ thể quản lý quá trình thi công thích hợp để đạt hiệu quả cao. Còng phải   thấy rõ, sù giao quyền trong giao khoán không đơn phải là sự  thả  lỏng việc  quản lý quá trình thi công cho bên nhận khoán. Trong quá trình thực hiện hợp  đồng giao khoán, bên giao khoán thực hiện các tác nghiệp quản lý bằng sù  theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình thi công, nghiệm thu chất lượng và quy  định trách nhiệm của bên thi công. Các chức năng quản lý của bên giao khoán  và bên nhận khoán được thực hiện song song và có sự phân định rõ ràng trên  cơ  sở  hợp đồng giao, nhận khoán. Chính vì thế, giao khoán trong xây dựng  được xem như là một phương thức quản lý, mét mô hình tổng hợp các chức   năng quản lý quá trình thi công trong các doanh nghiệp xây lắp. Trên phương diện pháp lý, giao khoán xây dựng là hình thức đàm phán,  thoả  thuận và ký kết hợp đồng trực tiếp giữa người giao khoán và người  nhận khoán để  thực hiện khối lượng xây lắp theo các điều khoản ghi trong  hợp đồng giao, nhận khoán.
  2. Giá trị hợp đồng giao, nhận khoán được xác định là giá giao khoán mà   người giao khoán có thể  chấp nhận và đặt giá khi quyết định giao khoán thi   công. Thanh toán giao khoán là việc thực hiện các điều khoản đã thoả thuận   trong hợp đồng giao, nhận khoán của bên giao cho bên nhận khoán. Hợp đồng   giao khoán phải được thanh toán toàn bộ khi thanh lý hợp đồng. heo kinh nghiệm của các nước cũng như thực tế ở Việt Nam cho thấy,   đối tượng nhận khoán hợp lý và có hiệu quả nhất là đội xây dựng và bên giao   khoán là doanh nghiệp hoặc các Công ty xây lắp. Giao khoán cho các đội thi công thực chất là trên cơ  sở  được doanh  nghiệp giao quyền, phân cấp quản lý và giao nhiệm vụ  thông qua các hợp   đồng kinh tế, các quy định và sự  kiểm soát của doanh nghiệp, các đội tự  tổ  chức quản lý, tù tổ  chức sản xuất kinh doanh theo các điều kiện như  ghi  trong hợp đồng giao, nhận khoán.   Việc giao khoán cho các đội làm nảy sinh mét hệ  thống các mối quan   hệ  kinh tế  giữa doanh nghiệp và đội nhận khoán. Các mối quan hệ  kinh tế  này thường làm nảy sinh các sự kiện kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp như: ­   Sù   vận   động,   chuyển   đổi   các   tài   sản   (nguyên   vật   liệu,   máy   thi  công…) tõ sù quản lý của doanh nghiệp sang cho các đội thi công. ­ Chuyển đổi mét sè tài sản, vật tư thành một hình thức vật chất khác Khi giao khoán cho các đội thi công, doanh nghiệp thường  ứng trước  cho các đội mét số  vốn nhất định để  các đội trang trải chi phí thi công công   trình, hạng mục công trình giao khoán. Điều này dẫn tới việc một phần tài  sản của doanh nghiệp bị tách rời khỏi sù quản lý của doanh nghiệp, mặc dù   về phương diện sở hữu thì số tài sản này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh  nghiệp. Bộ phận tài sản này được hạch toán như một khoản nợ phải thu của  doanh nghiệp và nó sẽ  chuyển dịch vào giá trị  công trình, hạng mục công  trình giao, nhận khoán hoàn thành bàn giao khi doanh nghiệp thực hiện việc  thanh toán giao khoán cho các đội. Ngoài các mối quan hệ bên trong, các đội thi công nếu được uỷ quyền   còn có các mối quan hệ  phát sinh với bên ngoài như  các mối quan hệ  với   người cung cấp, với lao động thuê ngoài… Mô hình giao khoán đội:
  3. 1.2.1.2. Nguồn gốc. Khoán là một hình thức tổ  chức quản lý sản xuất đã được áp dụng  trong nhiều ngành như  khoán diện tích trong Nông nghiệp, khoán sản phẩm  trong Công nghiệp, khoán doanh thu trong Dịch vụ… Khoán trong xây dựng khởi nguồn từ Liên Xô, gắn liền với tên tuổi của  anh hùng lao động N. A. Dơbôlin và phương pháp quản lý tiến độ  thi công  mới trong các doanh nghiệp xây dựng. Tõ năm 1954, trong các Nghị quyết của Hội nghị toàn thể Uỷ ban Trung   ương ĐCS Liên Xô đã hướng vào việc tăng cường các phương pháp điều   khiển sản xuất và các biện pháp kích thích vật chất thưởng phạt cho bộ phận  công nhân xây dựng trong các doanh nghiệp xây lắp. Trong đó quy định rõ các  kế  hoạch sản xuất do các doanh nghiệp tự  lập trên cơ  sở  năng lực thực tế  của công nhân sản xuất. Toàn bộ hoạt động của tổ chức xây dựng được đánh  giá theo kết quả thực hiện kế hoạch đưa năng lực sản xuất và công trình vào  sử  dụng và bàn giao công trình hoặc giai đoạn kết thúc công việc cho bên  giao thầu. Kết qủa thực hiện này được xác định trên cơ sở hạch toán kinh tế. Phương hướng của Nghị quyết mới đã làm nảy sinh nhu cầu cấp thiết   cần có hạch toán kinh tế  độc lập trong các bộ  phận thi công trong tổ  chức   xây lắp để xác định rõ chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch một các chính xác. Năm 1965, nảy sinh mét vướng mắc cho các doanh nghiệp xây lắp tại  Liên Xô. Đó là việc thanh toán cho các tổ  chức nhận thầu từ  trước đó đều  được thực hiện không phải theo sản phẩm hoàn thành mà theo khối lượng   công thác từng thành phần kết cấu, hoặc các loại công tác xây lắp trong mét  thời gian nhất định nào đó. Điều đó làm cho các đơn vị cơ sở trong các doanh  nghiệp xây lắp chạy theo khối lượng công việc hoàn thành, bỏ  qua chất  lượng công trình và giá thành sản phẩm. Các khoản chi phí không được đánh  giá đầy đủ, giá thành bị  đẩy cao tuy kế  hoạch luôn được đánh giá là hoàn   thành. Hơn nữa, việc thanh toán ngắt quãng theo từng thành phần kết cấu  công trình lại tạo ra chi phí tốn kém cho công tác hạch toán kế toán, bởi mỗi  lần thanh toán thường phát sinh nhiều loại giấy tờ, thủ tục… Năm 1970, ở thành phố Dêlenôrgat (thuộc tổng cục xây dựng Matxcơva  ), đội tổng hợp do anh hùng lao động N. A. Dơbôlin đã thực hiện thí điểm  hình thức mới về nhận khoán nội bộ và được gọi là “nhận thầu đội”. Sau khi   thoả  thuận về  khả  năng của mình, đội Dơbôlin đã ký kết hợp đồng với ban 
  4. chỉ huy công trường và nhận thi công công trình từ  cốt “0” tới khi bàn giao .   Toàn bộ giá trị công trình khi thanh toán được xác định theo các chỉ tiêu: khối   lượng giá trị và thời gian hoàn thành, tổng số tiền lương, tiền thưởng theo hệ  thống lương khoán có thưởng và mức độ  trách nhiệm nếu không thực hiện  đúng nhiệm vụ của mình. Kết quả, đội Dơbôlin đã xây dựng xong nhà trước   80 ngày so với kế hoạch, chất lượng công trình được đánh giá là tốt, tích luỹ  vượt kế hoạch là 13. 5 nghìn rúp, tiền thưởng cho đội là 28. 5 nghìn rúp. Những thành công của phương pháp Dơbôlin ngay sau đó đã được nhân  rộng trong toàn ngành xây dựng của Liên Xô, tiếp tục lan rộng sang các nước   XHCN khác. Việt Nam áp dụng mô hình khoán thi công cho các đội xây dựng   đầu tiên vào quãng năm 1986. Hiện nay, trong các doanh nghiệp xây lắp của  nước ta phổ biến áp dụng phương pháp này cho rất nhiều công tác thi công,  toàn bộ công trình, hạng mục công trình, khối lượng công việc… Vai trò của  nó được thể hiện như sau: ­         Gắn liền lợi Ých vật chất của người lao động, từng tổ  đội thi công  với khối lượng, chất lượng, tiến độ  thi công công trình. Khuyến khích  lợi Ých vật chất trong người lao động, khiến người lao động quan tâm  đến hiệu quả công việc hơn. ­         Xác định rõ trách nhiệm vật chất trong công tác xây lắp với từng tổ  đội, từng cán bộ  thi công, từng công nhân trực tiếp thực hiện công  việc. ­         Phát huy khả năng sẵn có trên nhiệu mặt ở các đơn vị cơ sở.  1.2.2. Các hình thức giao khoán và thanh toán giao khoán trong  xây dựng. Có nhiều hình thức giao khoán sản phẩm xây lắp nhưng thông thường  các doanh nghiệp sử dụng hai hình thức : khoán gọn công trình (khoán toàn bộ  chi phí) và khoán từng khoản mục chi phí. Khoán gọn công trình:       Theo hình thức này, đơn vị  giao khoán tiến hành khoán toàn bộ  giá  trị công trình cho bên nhận khoán (khoán trọn gói toàn bộ các khoản mục chi   phí của công trình). Đơn vị  nhận khoán sẽ  tổ  chức cung  ứng vật tư, thiết bị  kỹ  thuật, nhân công… để  tiến hành thi công. Khi công trình hoàn thành bàn  giao, bên giao khoán sẽ quyết toán toàn bộ giá trị công trình giao khoán. Khoán theo từng khoản mục chi phí:
  5. Trong hình thức này, đơn vị giao khoán sẽ khoán những khoản mục chi   phí khi thoả  thuận với bên nhận khoán như: chi phí vật liệu, chi phí nhân  công, chi phí sử dụng máy thi công… Bên nhận khoán sẽ chi các khoản mục   chi phí thuộc trách nhiệm của mình, bên giao khoán chịu trách nhiệm kế toán  và chi các khoản mục không khoán, đồng thời gián sát về  kỹ  thuật thi công,  về  chất lượng, tiến độ  thi công công trình. Khi quyết toán công trình hoàn  thành bàn giao, bên giao khoán thanh toán cho bên nhận khoán về khoản mục  chi phí giao khoán như đã ghi trong hợp đồng giao khoán theo đúng các điều  kiện ghi trong hợp đồng. Khoán theo từng khoản mục chi phí thường áp dụng trong trường hợp   công trình, hạng mục công trình phức tạp, cần sự  chuyên môn hoá của các   đội thi công. Những công trình này thường có giá trị  lớn, mức độ  chịu trách  nhiệm của doanh nghiệp cao, yêu cầu về chất lượng và thời hạn hoàn thành  tương đối chặt chẽ, mang tính trọng điểm. 1.3. Căn cứ thực hiện công tác kế toán giao khoán và thanh toán giao khoán.     1.3.1. dự  toán giao khoán (dự  toán chi tiết công trình, hạng  mục công trình giao khoán). dự  toán giao khoán thể  hiện tổng số  chi phí tối đa để  thực hiện công  trình, hạng mục công trình giao khoán. Dự toán giao khoán chính là khung giới  hạn tổng số chi phí thực tế phát sinh để hoàn thành sản phẩm giao khoán. Khi có bản thiết kế  công trình, hạng mục công trình giao khoán, bên  chủ  đầu tư  (bên giao khoán) sẽ  tiến hành lập các dự  toán luận chứng và sơ  bộ, từ đó lập các dự  toán chi tiết. Dự toán chi tiết được lập dựa trên “Bảng   phân tách khối lượng”. Các khối lượng được nhân với đơn giá chi phí được  lựa chọn hoặc xây dựng nên hình thành tổng số  chi phí trực tiếp của công  trình. Các chi phí này được cộng thêm với chi phí gián tiếp như: chi phí về  thiết bị, nhà xưởng, chi phí văn phòng, lãi ước tính và các khoản chi phí khác  để hình thành dự toán chi phí hoàn chỉnh của mét dự án. Khi dự  án được triển khai, các dự  toán gần đúng lúc đầu ngày càng  được hoàn thiện và chính xác hơn vì đã có thêm những thông tin mới bổ sung,   khi đó mét dự toán cuối cùng được lập để dự báo giá thành cuối cùng của dự  án với một phạm vi sai số rất nhá. dự toán giao khoán do bên giao khoán lập, dùng làm căn cứ giới hạn các  khoản chi phí phát sinh từ bên nhận khoán.
  6. 1.3.2. Các văn bản quản lý có liên quan. Quá trình thực hiện hợp đồng giao khoán thực chất là quá trình sản  xuất theo đơn đặt hàng các sản phẩm đã ký kết với khách hàng. Những vấn  đề phát sinh phải được dựa trên nền tảng những quy định cụ thể của các văn   bản quản lý có liên quan như: những văn bản pháp luật của nhà nước về giao  khoán, những văn bản quản lý của giám đốc doanh nghiệp về  quy chế  giao  khoán, định mức khoán cụ  thể  trong từng thời kỳ, đối với từng công trình,   hạng mục công trình do đặc tính cá biệt của sản phẩm xây dựng. 1.3.3. Hợp đồng giao khoán. Đây là một căn cứ  có tầm quan trọng  đặc biệt trong công tác giao   khoán và thanh toán giao khoán. Hợp đồng giao khoán là bản ký kết giữa   người giao khoán và người nhận khoán về  khối lượng công việc, nội dung  công việc, thời gian làm việc, trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên khi thực   hiện công việc đó, đồng thời là cơ sở  thanh toán tiền công lao động cho bên  nhận khoán.      Hợp đồng giao khoán được lập dựa trên dự toán giao khoán về khối lượng giao  khoán, giá trị mà bên giao khoán phải thanh toán khi công trình, hạng mục công trình  giao khoán hoàn thành bàn giao cho bên nhận khoán. b. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp. Việc thi công các công trình, hạng mục công trình thực chất là hoạt  động sản xuất theo đơn đặt hàng. Vì vậy, phương pháp thích hợp nhất để xác  định giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao chính là phương pháp  tính giá thành theo công việc (phương pháp tính giá thành sản xuất theo đơn   đặt hàng). Theo phương pháp này thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng   công trình, hạng mục công trình giao khoán do đơn vị  nhận khoán thi công.   Còn đối tượng tính giá thành là từng công trình, hạng mục công trình giao,  nhận khoán hoàn thành bàn giao cho bên giao khoán. Nếu vận dụng hệ thống  tài khoản kế  toán hiện hành để  hạch toán thì việc tập hợp chi phí sản xuất  cho các công trình, hạng mục công trình giao khoán, kế toán sử  dụng các chi  tiết mở theo từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất của các tài khoản 621,   622, 623, 627, 154. Mỗi công trình, hạng mục công trình giao khoán được mở  một phiếu tính giá thành từ khi bắt đầu phát lệnh sản xuất cho đến khi hoàn 
  7. thành bàn giao để phản ánh luỹ kế chi phí sản xuất phát sinh theo từng khoản   mục chi phí cho từng công trình, hạng mục công trình liên quan. Việc tập hợp chi phí sản xuất cho từng công trình, hạng mục công  trình giao khoán được thực hiện như sau: ­         Đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực  tiếp: thường liên quan trực tiếp đến từng công trình, hạng mục công   trình cụ  thể  nên sẽ  được tập hợp trực tiếp cho từng công trình, hạng  mục công trình tương ứng. Nếu một đội thi công đảm nhận nhiều đơn  đặt hàng thì chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực   tiếp có thể  tập hợp theo từng đơn vị  thi công, trong đó chi tiết theo   từng công trình, hạng mục công trình do đội đó đảm nhận. ­         Đối với chi phí sản xuất chung: thường liên quan đến từng nơi phát  sinh chi phí và liên quan đến nhiều công trình, hạng mục công trình.  Như vậy có thể dùng phương pháp phân bổ gián tiếp để tính cho từng   công trình, hạng mục công trình.          Có hai cách xác định chi phí sản xuất chung cho từng công trình,  hạng mục công trình giao khoán:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2