intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô hiện nay

Chia sẻ: Đinh Công Thống | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:4

266
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông thường để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng GDP, tạo việc làm mới, ổn định giá cả, tăng xuất khẩu, nhà nước thường sử dụng các nhóm chính sách hay còn gọi là các nhóm công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô hiện nay

  1. Thông thường để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng GDP, t ạo vi ệc làm m ới, ổn đ ịnh giá cả, tăng xuất khẩu, nhà nước thường sử dụng các nhóm chính sách hay còn gọi là các nhóm công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Đổi mới công tác kế hoạch nhằm xác định rõ những n ội dung kinh tế - xã hội mà mỗi cấp chính quyền cần hoạch định; đồng thời tính toán sự cân đối các nguồn lực tương ứng v ới các m ục tiêu đã xác định, nhằm định hướng cho thị trường phát triển. Chuyển từ tính chất pháp lệnh sang tính chất chỉ dẫn Đổi mới công tác kế hoạch và quy hoạch thực chất là xác định vai trò quan trọng c ủa Nhà n ước trong suốt quá trình dẫn dắt thị trường phát triển theo mục tiêu của mình. Do đó, m ột trong các nhi ệm vụ quan trọng của công tác quy hoạch kế hoạch là chỉ dẫn và dự báo các nhân t ố ảnh h ưởng đ ến các mục tiêu phát triển. Cần đổi mới nội dung và phương thức xác định các ch ỉ tiêu kinh t ế - xã h ội hi ện nay theo h ướng chuyển từ tính chất pháp lệnh sang tính chất chỉ dẫn (Indicated plan). Ví d ụ nh ư chuy ển d ịch c ơ c ấu kinh tế, huy động vốn đầu tư, chỉ số tăng giá… mang tính chất d ự báo đ ể đ ịnh h ướng cho nhà đ ầu t ư, không cần xem đó là những ràng buộc trong đi ều hành n ền kinh t ế c ủa Nhà n ước. Tr ọng tâm c ủa công tác kế hoạch là Nhà nước đưa ra những tín hi ệu mang tính ch ỉ d ẫn đ ể d ẫn d ắt th ị tr ường; đ ồng th ời xác định các chính sách, biện pháp, giải pháp nhằm bảo đảm các mục tiêu đề ra. Về các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cần tập trung vào các ch ỉ tiêu phát tri ển b ền v ững nh ư các chỉ tiêu về an sinh xã hội, môi trường… nhằm ràng buộc các c ấp chính quy ền ph ải th ực hi ện nhiệm vụ của mình. Các chỉ tiêu về kinh tế, xét cho cùng, chỉ là ph ương ti ện; còn các ch ỉ tiêu v ề an sinh – xã hội mới là mục tiêu của phát triển. Phân quyền, phân cấp thế nào là hợp lý Thực hiện nguyên tắc phân quyền (deconcentralization) trong quản lý kinh tế c ủa Nhà n ước nhằm bảo đảm tính linh hoạt của thị trường là xu hướng chung của kinh tế thị trường thế giới ngày nay. Xu hướng này ở nước ta thường gọi là mở rộng việc phân cấp của Chính ph ủ cho chính quy ền đ ịa phương. Việc phân cấp cần được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản. Đó là mở rộng phân cấp, nhưng đồng thời phải tạo cơ chế để tăng cường ki ểm tra, thanh tra, giám sát c ủa chính quy ền Trung ương đối với chính quyền địa phương. Cụ thể là Chính phủ tập trung vào 3 nhi ệm v ụ: (1) hoạch định chính sách; (2) ban hành các quy định và (3) kiểm tra giám sát ch ế tài vi ph ạm. Còn các quyết định cụ thể liên quan đến đời sống kinh tế ở mỗi địa phương, nên để địa phương thực hiện. Việc phân cấp cần dựa trên các nguyên tắc của nền hành chính quốc gia, bảo đảm tính chất thống nhất quản lý của Nhà nước ta, nhưng vẫn đề cao tính tự chủ c ủa địa phương trên n ền t ảng l ợi th ế so sánh, năng lực cạnh tranh của các địa phương, các vùng kinh t ế và các đô th ị. Xu h ướng chung c ủa th ế giới là mở rộng quyền tự quản về ngân sách và cung cấp dịch vụ đô thị của chính quyền các đô thị. Việc phân cấp cần được thực hiện theo hướng vi ệc gì c ấp d ưới, đ ịa ph ương làm t ốt thì giao cho cấp đó thực hiện; cấp nào giải quyết sát thực tế hơn, có điều ki ện th ực hi ện và có hiệu quả hơn thì giao nhiệm vụ, thẩm quyền cho cấp đó. Nhiệm vụ của cấp nào thì cấp đó chịu trách nhi ệm toàn b ộ, có th ẩm quy ền đ ầy đ ủ (t ự quy ết, t ự quản đối với công việc được giao; không trùng lắp gi ữa việc do Trung ương làm v ới vi ệc c ủa đ ịa phương làm và công việc giữa các cấp chính quyền trong phạm vi một địa phương với nhau). Từ các nguyên tắc nêu trên, để nâng cao hiệu quả hiệu lực quản lý Nhà n ước c ần ti ến hành nghiên cứu bổ sung hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước. Hình thành tổ chức cung cấp dịch vụ công phi lợi nhuận 1
  2. Xây dựng nền hành chính phục vụ dựa trên cơ sở hình thành các t ổ ch ức cung c ấp d ịch v ụ công, các định chế yểm trợ. Hiện nay luật pháp nước ta chưa xây dựng các đ ịnh ch ế cung c ấp d ịch v ụ công phi lợi nhuận. Cần xác định rõ bản chất của định chế cung c ấp d ịch v ụ công phi l ợi nhu ận là các t ổ chức cung cấp các dịch vụ công cho xã hội như: y t ế, giáo d ục, văn hoá, khoa h ọc, d ịch v ụ đô th ị, h ỗ trợ pháp lý, hỗ trợ thông tin; các tổ chức khuyến nông, khuyến ngư v.v… do các thành ph ần kinh t ế và Nhà nước đầu tư để phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, c ủa c ộng đ ồng, mà nhà đ ầu t ư không thu lợi nhuận về cho mình (nhà đầu tư không thu lợi nhuận không có nghĩa là t ổ ch ức đó không ho ạt đ ộng kinh doanh, mà phải mang tính chất kinh doanh nhằm tích tụ vốn để không ngừng phát triển). Để thực hiện vai trò này của Nhà nước, Nhà nước cần sớm xây dựng một đ ạo lu ật v ề các t ổ ch ức dịch vụ công phi lợi nhuận. Khi có đạo luật này, thì vai trò qu ản lý Nhà n ước chính là giám sát s ự ho ạt động của các tổ chức trên, chứ không phải làm thay việc cung c ấp các d ịch v ụ phi l ợi nhu ận nh ư hi ện nay. Sự phát triển các loại thị trường phản ảnh quá trình chuyển dịch cơ c ấu và l ợi th ế c ủa n ền kinh t ế trong quá trình cạnh tranh. Do đó, vấn đề hoàn thiện các lo ại thị trường ở nước ta c ần xác đ ịnh trên 2 nguyên tắc. Thứ nhất, bảo đảm tính đồng bộ trong mối quan hệ kinh tế gi ữa các th ị tr ường v ới nhau. B ởi vì, không có một loại thị trường nào phát triển riêng rẽ, mà th ị tr ường này luôn luôn là nguyên nhân và k ết quả của thị trường kia. Ví dụ, nếu các ngành kinh tế khác không phát tri ển, thì không có đi ều ki ện đ ể phát triển thị trường tài chính và nếu thị trường tài chính không phát triển, thì không bảo đảm đ ược nguồn vốn cho các ngành kinh tế khác. Thứ hai, sự phát triển các loại thị trường phải thông qua các chính sách c ủa Nhà n ước, đ ược b ảo đảm bằng hệ thống pháp luật có liên quan, hướng tới m ục tiêu phát tri ển kinh t ế - xã h ội cho t ừng giai đoạn của quá trình CNH-HĐH đất nước. Vai trò điều tiết và can thiệp của Nhà nước Sự vận động của tổng cung-tổng cầu trong nền kinh tế thị trường, vai trò đi ều ti ết vĩ mô c ủa Nhà nước nhằm vào 4 mục tiêu kinh tế: Tăng trưởng GDP; tạo vi ệc làm m ới, gi ảm th ất nghi ệp; ổn định giá cả và tăng xuất khẩu ròng. Thông thường để thực hi ện 4 mục tiêu kinh t ế vĩ mô nh ư nêu ở ph ần trên, nhà nước thường sử dụng 4 nhóm chính sách hay còn gọi là các nhóm công c ụ đi ều ti ết kinh t ế vĩ mô. Chính sách tài khoá bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu của chính ph ủ. Nhóm các chính sách tiền tệ được ngân hàng trung ương sử dụng để điều tiết thị trường tài chính, mà trọng tâm là thực hi ện mục tiêu kiểm soát lạm phát ổn định giá cả. Thông thường chính sách tiền tệ có ảnh hưởng mạnh nhất đến điều chỉnh tổng cầu của nền kinh tế thông qua các công cụ như: lãi suất, tín d ụng, các nghi ệp v ụ của thị trường mở .v..v.. Chính sách chi tiêu nhằm điều chỉnh mối quan hệ gi ữa tích lu ỹ và tiêu dùng và đi ều ti ết t ổng c ầu của nền kinh tế. Chính sách ngoại thương nhằm điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu, bảo đảm m ục tiêu tăng xu ất khẩu ròng (xuất trừ nhập khẩu); điều tiết tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế; đồng th ời góp ph ần vào chính sách tỷ giá. Bốn nhóm công cụ chính sách nêu trên tuỳ theo tính ch ất c ủa m ột n ền kinh t ế và trong m ỗi giai đoạn nhất định được điều chỉnh nhằm bảo đảm phục vụ có hiệu quả cho các mục tiêu kinh t ế vĩ mô nói chung và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói riêng. Như đã trình bày ở Bài I, mô hình kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại 3 khuyết t ật c ố h ữu, g ắn li ền với bản chất của nó. Năng lực quản trị có hiệu quả của m ột Nhà n ước th ể hi ện ở kh ả năng s ử d ụng các công cụ để hạn chế những hệ quả tiêu cực do các “ khuyết tật “ đó gây ra. 2
  3. Sử dụng các tổ chức kinh tế của Nhà nước hoặc các tổ chức kinh tế mà Nhà n ước n ắm vai trò chi phối chính là sự can thiệp vào thị trường bằng sức mạnh v ật chất c ủa Nhà n ước. Do đó, v ấn đ ề c ải cách doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) chính là “tái cấu trúc“ lực lượng này đ ể làm t ốt vai trò tham gia điều tiết thị trường, cung cấp tốt hơn các loại “hàng hoá và d ịch v ụ công c ộng” ph ục v ụ m ục tiêu phát triển bền vũng. Tái cấu trúc lực lượng DNNN để lực lượng này thực sự là sức mạnh vật chất, cùng với thể chế kinh tế trở thành công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả. Đây là m ột nội dung r ất quan tr ọng, không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà n ước về kinh tế, mà còn gắn k ết đ ược v ấn đ ề đ ề kinh t ế với tiến bộ và công bằng xã hội trong một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Áp dụng rộng rãi mô hình công - tư hợp tác trong phát triển kinh tế Hiện nay ở nước ta nhiều dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng được thực hiện theo hình thức này, trong đó có các dự án về giao thông, cấp nước, thu hút công nghiệp công nghệ cao.... Với phương thức này, vốn đầu tư của ngân sách Nhà n ước trở thành "vốn m ồi" đ ể thu hút đ ầu t ư của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, hiện nay chưa có khung pháp lý rõ ràng cho hình th ức đầu t ư này, mà còn mang tính tự phát, nên cần được chế định khung pháp lý ở tầm quốc gia. Nếu áp dụng rộng rãi mô hình hợp tác công-tư, thì nhiều lo ại dịch v ụ và hàng hoá công c ộng có th ể thu hút khu vực tư nhân đầu tư, dành tập trung nguồn lực Nhà nước - doanh nghi ệp Nhà n ước vào các khu vực trọng yếu hơn của nền kinh tế. Đây chính là hình th ức đầu t ư mà Nhà n ước b ổ khuy ết cho th ị trường, góp phần thực hiện chức năng của Nhà nước trong quản lý kinh tế và vai trò ch ủ đạo c ủa kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường thông qua vi ệc đ ổi m ới th ể ch ế kinh tế, trong đó Nhà nước đóng vai trò tích cực nhất trong vi ệc kh ắc ph ục, h ạn ch ế 3 khuy ết t ật c ố hữu của thị trường thông qua hệ thống công cụ điều tiết đóng vai trò "người d ẫn đ ường" cho quá trình tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, trong điều kiện toàn cấu hoá và hội nhập kinh tế, vai trò c ủa Nhà n ước càng quan tr ọng hơn trong việc nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, tạo điều ki ện thuận l ợi nâng cao s ức c ạnh tranh doanh nghiệp. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, chính là ti ếp t ục đ ổi mới thể chế kinh tế đáp ứng yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế theo h ướng nâng cao s ức c ạnh tranh, mà nội dung quan trọng nhất và là trước hết phải đổi mới nhận thức về vai trò c ủa Nhà n ước trong qu ản lý nền kinh tế thị trường. • SỰ THAY ĐỔI TRONG PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ Trước kia, nước ta xây dựng thể chế kinh tế kế họach hóa tập trung cao đ ộ, nh ấn m ạnh vai trò chi phối tuyệt đối của chính phủ. Cho nên để điều ti ết nền kinhtế nhà n ước s ử d ụng đ ơn nh ất m ột phương thức điều tiết trực tiếp, can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động kinh tế - xã h ội. M ặc dù v ậy, chúng ta không thể phủ nhận, chối bỏ những tác dụng quan tr ọng c ủa c ơ ch ế này trong th ời kỳ đ ầu, nhưng không thể duy trì mãi vì nó có không ít khuyết t ật k ềm hãm s ự phát tri ển. Do đó, n ước ta chuyển sang cơ chế thị trường là điều tất yếu. Thay đổi cùng với vi ệc xây dựng kinh t ế th ị tr ường, phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng từng bước kết hợp gi ữa đi ều ti ết tr ực ti ếp v ới điều tiết gián tiếp trong đó lấy điều tiết gián tiếp là chính. Vậy có gì khác nhau giữa điều tiết trực ti ếp và điều tiết gián tiếp? Quá trình điều tiết kinh tế vĩ mô là quá trình vận dụng các phương thức và biện pháp điều tiết thích đáng, áp dụng các chính sách kinh tế hữu hiệu để tổng thể kinh tế - xã h ội đ ược vận hành có tr ật t ự, nhịp nhàng và tiến hành điều tiết, dẫn dắt các hoạt động kinh tế vi mô riêng lẻ, thúc đẩy quá trình thực hiện mục tiêu điều tiếtvĩ mô.1 3
  4. Đối với điều tiết trực tiếp, nhà nước chủ yếu vận dụng công c ụ hành chính ho ặc công c ụ k ế hoạch mệnh lệnh tiến hành điều tiết có tính cưỡng chế để buộc các ho ạt đ ộng kinh t ế - xã h ội phù hợp với mục tiêu điều tiết vĩ mô của nhà n ước. Trong khi đó đi ều ti ết gián ti ếp, nhà n ước thông qua các công cụ liên quan đến lợi ích kinh tế để hướng dẫn các hành vi kinh t ế c ủa ch ủ th ể kinh t ế khi ến cho nó phù hợp với mục tiêu vận hành nền kinh tế. Nếu như phương thức điều tiết trực tiếp mang tính cưỡng chế và ràng buộc cao thì phương thức điều tiết gián tiếp lại mang tính đ ịnh h ướng, h ướng dẫn các hành vi kinh tế. Vì mang tính cưỡng chế nên khi sử dụng phương thức đi ều ti ết tr ực ti ếp nhà n ước trực tiếp tác động vào quyết sách của doanh nghiệp, đi ều này ngược v ới ph ương th ức đi ều ti ết gián tiếp. Tuy nhiên, điều tiết gián tiếp có một hạn chế rất lớn đó là hạn chế năng lực t ự ch ủ và coi nh ẹ l ợi ích của chủ thể kinh tế vi mô, bóp chết tính tích cực của hoạt động kinh t ế. Đi ều này d ễ d ẫn đ ến các phản kháng tiêu cực từ phía đối tượng bị điều tiết. Ví dụ như, để đ ối phó v ới lạm phát, nhà n ước quy định lãi suất trần, điều này không phản ánh được nhu c ầu th ực t ế c ủa th ị tr ường v ốn nên ngay l ập t ức các NHTM đưa ra các hình thức khuyến mãi khác nhau: rút thăm trúng thưởng, quà t ặng,… là các hình thức nhằm nâng cao lãi suất thực tế; hoặc khi cho vay vốn thì NHTM thu các phí cho vay cũng là m ột hình thức ngụy trang để nâng cao lãi suất cho vay mà vẫn thực hiện đúng mệnh lệnh của NHNN. Khác với điều tiết trực tiếp, điều tiết gián tiếp thông qua tín hiệu thị trường hướng dẫn các hành vi kinh tế, tức là đối tượng bị điều tiết vẫn có tính tự chủ trong quyết sách c ủa mình nh ưng hành vi c ủa họ vẫn đi theo định hướng của nhà nước. Chẳng hạn như, để tác động lên cán cân th ương m ại, t ức là tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu, một tín hiệu chúng ta dễ nh ận th ấy đó là nhà n ước đi ều ch ỉnh tỉ giá hối đoái. Khi nhà nước tăng tỷ giá hối đoái tức là tỷ giá ti ền đồng/ đô la Mỹ tăng lên (nghĩa là c ần nhiều tiền đồng hơn để mua đô la Mỹ) thì điều này cũng đồng nghĩa v ới vi ệc nhà n ước khuyến khích xuất khẩu vì khi đó doanh nghiệp xuất khẩu thu ngoại tệ về họ sẽ thu l ợi nhuận cao h ơn, và ng ược lại tăng tỷ giá hối đoái sẽ hạn chế nhập khẩu do nhà nhập khẩu và phân ph ối hàng nh ập kh ẩu c ần phải có một lượng tiền lớn hơn để mua ngoại tệ thanh toán cho hàng hóa nhập về. Như vậy, nhà nước thông qua sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái gián tiếp tác động lên lợi ích kinh tế c ủa các doanh nghi ệp xuất nhập khẩu để họ hành động gần với mục tiêu mà nhà nước đề ra. Như vậy, với phương thức điều tiết trực tiếp nhà n ước bi ến ý đồ quản lý c ủa mình thành m ệnh lệnh hành chính; trong khi đó với phương thức đi ều ti ết gián ti ếp nhà n ước bi ến ý đ ồ qu ản lý c ủa mình thành tín hiệu thị trường, điều tiết nền kinh tế thông qua th ị tr ường đi ều ti ết. M ặc dù, n ước ta chuyển sang cơ chế thị trường, việc áp dụng phương thức đi ều ti ết gián ti ếp v ới nh ững ưu th ế v ượt trội so với phương thức điều tiết trực tiếp đã bước đầu góp phần thúc đẩy sự phát tri ển năng đ ộng của nền kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể từ b ỏ ngay ph ương th ức đi ều ti ết tr ực ti ếp này vì nó vẫn có những ưu điểm hỗ trợ trong việc quản ly nhà n ước về kinh tế mà ph ương th ức gián ti ếp không có như: tốc độ điều tiết nhanh, tính rang buộc mạnh, trong thời kỳ ngắn có th ể th ực hi ện đ ược mục tiêu vĩ mô mà nhà nước mong muốn. Chính vì vậy, nhà n ước lựa ch ọn v ận d ụng linh ho ạt c ả hai phươngthức trực tiếp và gián tiếp, trong đó lấy phương thức gián tiếp là chính. 4
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2