intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

42
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay, Quốc hội nước ta đang xem xét sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS). Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) trong BLHS để thấy được ý nghĩa quan trọng của nó về mặt xã hội và pháp lý, đồng thời làm rõ những bất cập và đưa ra một số đề xuất để hoàn thiện, góp phần phục vụ thực tiễn giải quyết vụ án hình sự.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015

  1. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT CAÁC TÒNH TIÏËT GIAÃM NHEÅ TRAÁCH NHIÏÅM HÒNH SÛÅ QUY ÀÕNH TAÅI ÀIÏÌU 51 BÖÅ LUÊÅT HÒNH SÛÅ NÙM 2015 Nguyễn Ngọc Kiện* * TS. Phó Trưởng khoa, Khoa Luật hình sự, Trường Đại học Luật Huế. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khoá: tình tiết giảm nhẹ, Hiện nay, Quốc hội nước ta đang xem xét sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự trách nhiệm hình sự năm 2015 (BLHS). Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) trong BLHS để thấy được ý nghĩa Lịch sử bài viết: quan trọng của nó về mặt xã hội và pháp lý, đồng thời làm rõ những bất Nhận bài: 15/12/2016 cập và đưa ra một số đề xuất để hoàn thiện, góp phần phục vụ thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Biên tập: 13/01/2017 Duyệt bài: 06/02/2017 Article Infomation: Abstract: Keywords: Extenuating Currently, the National Assembly of Vietnam is reviewing the Penal Code circumstances, criminal of 2015 for its amendments and supplements. Under this article, the author liability. provides the analysis of the extenuating circumstances for criminal liability under the Penal Code of 2015 to understand its significance in terms of Article History: social and legal aspects, as well as addresses the shortcomings and proposes some suggestions for improvements to solve the criminal cases in Received: 15 Dec. 2016 practices. Edited: 13 Jan. 2017 Approved: 02 Feb. 2017 1. Ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ ra yêu cầu khách quan phải nâng cao hiệu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình quả vận dụng chế định các tình tiết giảm nhẹ sự Việt Nam TNHS”2. Chính các tình tiết giảm nhẹ được 1.1 Ý nghĩa xã hội: Trong việc cụ thể quy định giúp Nhà nước xác định một cách hóa chính sách hình sự1 của Nhà nước ta, khách quan, công bằng hơn hành vi phạm xác định các nguyên tắc nhân đạo trong tội, nhân thân, hoàn cảnh và thái độ của pháp luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa vô người phạm tội, kiểm chứng việc thực hiện cùng quan trọng. Chế định các tình tiết giảm nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự, nhẹ TNHS “có ý nghĩa lớn cả về mặt xã hội để thực hiện đúng đắn mục đích của hình cũng như pháp lý…, nên thực tiễn luôn đặt phạt là không chỉ trừng trị người phạm tội 1 Không nên nhầm lẫn giữa chính sách hình sự với chính sách pháp luật hình sự. Vì chính sách pháp luật hình sự là một bộ phận cấu thành của chính sách hình sự... Về vấn đề này, xem thêm: Phạm Văn Lợi (chủ biên), (2007), Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội. 2 Trần Thị Quang Vinh (2005), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 57. NGHIÏN CÛÁU Söë 04(332) T2/2017 LÊÅP PHAÁP 31
  2. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT mà còn giáo dục họ hướng thiện và có tác TTHS: Đó là biện pháp ngăn chặn tạm giam dụng phòng ngừa tội phạm trong cộng đồng quy định tại Điều 119 Bộ luật TTHS năm dân cư. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS hướng 2015. Theo đó, không áp dụng biện pháp đến sự khoan hồng của Nhà nước; hướng ngăn chặn này đối với bị can, bị cáo là phụ đến sự công bằng căn cứ vào mức độ nguy nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng hiểm của hành vi cũng như hậu quả mà tội tuổi, người bị bệnh nặng, trừ trường hợp đặc phạm gây ra cho xã hội để truy cứu hoặc biệt. Quy định này phù hợp với các tình tiết miễn TNHS cho hợp lý. Chính các tình tiết giảm nhẹ ở trường hợp người phạm tội là giảm nhẹ sẽ cân bằng được giữa một bên là phụ nữ có thai, hoặc người mắc bệnh nặng thái độ của Nhà nước (nói riêng về biện bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển pháp cưỡng chế hình sự) đối với tội phạm hành vi quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. (thường là rất nghiêm khắc), một bên là (2) Xem xét quyết định các loại hình quyền và lợi ích của công dân và xã hội. Ở phạt trong khi hội đồng xét xử nghị án, đó đây muốn nói đến sự điều tiết của các tình là ngoài các yếu tố khác phải xem xét, hội tiết giảm nhẹ TNHS là làm giảm nhẹ sự đồng xét xử phải cân nhắc đến tình tiết giảm nghiêm khắc của hình phạt nói riêng, TNHS nhẹ, tăng nặng TNHS để áp đặt mức độ, tần nói chung và cân bằng giữa mục đích trừng suất của hình phạt chính và hình phạt bổ trị tội phạm với mục đích giáo dục người sung - nếu có -trọng tâm nhất là: phạm tội. Nó còn giảm thiểu hoặc tránh + Vận dụng chế định án treo: Đó là được sự lạm quyền của cơ quan có thẩm khi xử phạt tù không quá 3 năm, Tòa án căn quyền trong việc thực hiện quyền lực công cứ vào nhân thân của người phạm tội và các khi tiến hành tố tụng hình sự (TTHS). tình tiết giảm nhẹ, nếu thấy không cần phải 1.2 Ý nghĩa pháp lý: Các tình tiết bắt chấp hành hình phạt tù, Tòa án cho giảm nhẹ TNHS tác động đến việc cân nhắc hưởng án treo. Trong các điều kiện cần và quyết định hình phạt của Tòa án. Tác dụng đủ vừa nêu để bị cáo được hưởng án treo thì phân hóa TNHS của các tình tiết giảm nhẹ điều kiện về các tình tiết giảm nhẹ (phải có TNHS làm cho nó trở thành một công cụ đắc 2 tình tiết trở lên) có tính tiên quyết; lực để Tòa án coi là cơ sở của quyết định + Quyết định hình phạt dưới mức thấp hình phạt. Đó là mức độ nặng hay nhẹ của nhất của khung hình phạt (còn được gọi là hình phạt được vận dụng theo tình tiết giảm hạ khung hình phạt): Tòa án có thể quyết nhẹ TNHS nào sau khi đã đối trừ với các định một hình phạt dưới mức thấp nhất của tình tiết tăng nặng TNHS, cũng như phải khung hình phạt được áp dụng, nhưng phải xem xét áp dụng hình phạt chính hay hình trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của phạt bổ sung. điều luật khi người phạm tội có ít nhất 2 tình Với đặc thù của quan hệ pháp luật tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 TTHS đa số phải dựa vào quan hệ pháp luật của BLHS. Trong trường hợp hội đủ các điều hình sự, nên việc thiết lập các tình tiết giảm kiện quy định tại Điều 51 BLHS nhưng điều nhẹ đồng nghĩa với hoạt động của các cơ luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung quan tiến hành tố tụng phải chứng minh các hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì tình tiết giảm nhẹ trong khi giải quyết vụ án Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình sự. Hay nói cách khác, tình tiết giảm hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn và ghi rõ nhẹ là một trong những vấn đề cần phải lý do của việc giảm nhẹ trong bản án. chứng minh trong vụ án do cơ quan tiến + Quyết định hình phạt trong trường hành tố tụng đảm trách. Xây dựng và vận hợp đồng phạm: Khi quyết định hình phạt dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS còn chi đối với những người đồng phạm, Tòa án phối đến một số thủ tục TTHS, cụ thể: phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính (1) Áp dụng biện pháp cưỡng chế chất và mức độ tham gia phạm tội của từng NGHIÏN CÛÁU 32 LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
  3. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT người đồng phạm. Trong đó, Tòa án phải xét mở ra ý nghĩa to lớn về việc thực hiện chính đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta, loại trừ TNHS thuộc người đồng phạm nào, cũng như chính sách phòng ngừa, xử lý tội thì chỉ áp dụng đối với người đó. phạm trong thời kỳ đổi mới đất nước; trong (3) Hội đồng xét xử xem xét miễn việc tiết giảm sự nghiêm khắc của hình phạt; hình phạt: Người phạm tội có thể được miễn và tạo ra sự bình đẳng, công bằng đáng kể hình phạt nếu thuộc trường hợp được hạ cho người tham gia tố tụng nói chung và cho khung hình phạt quy định tại khoản 1 và xã hội; góp phần khôi phục quyền và lợi ích khoản 2 Điều 54 BLHS mà đáng được hợp pháp của công dân và xã hội. khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức Các tình tiết giảm nhẹ TNHS chi phối được miễn TNHS. Như vậy, miễn hình phạt đến các quan hệ pháp luật TTHS đã dẫn là trường hợp đặc biệt áp dụng cho người chứng ở trên yêu cầu phải có từ hai tình tiết phạm tội và người này phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ trở lên, chính vì vậy, việc xác lập giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS là điều tình tiết giảm nhẹ phải tránh dễ dãi, tùy nghi kiện cần; điều kiện đủ là họ thuộc trường và bảo đảm sự hợp lý. hợp đáng được khoan hồng đặc biệt. Điều Trên thực tế, còn có trường hợp Tòa kiện đủ này cũng là tiêu chí mà tình tiết án tùy nghi, dễ dãi trong việc áp dụng hình giảm nhẹ TNHS được xác lập để hướng tới. phạt tù nhưng cho hưởng án treo, trong việc (4) Hội đồng xét xử xem xét miễn quyết định mức án nặng, nhẹ không công TNHS cho người phạm tội là người dưới 18 bằng, thiếu nhất quán. Nguyên nhân đó là tuổi: Người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng có do BLHS năm 1999 và các văn bản hướng nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc dẫn thi hành quy định nhiều tình tiết giảm phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc nhẹ chưa hợp lý, cũng như cho phép Tòa án trường hợp quy định tại Điều 29 BLHS, thì tùy nghi lựa chọn áp dụng các tình tiết giảm có thể được miễn TNHS và áp dụng các biện nhẹ quá mức cần thiết. Những bất cập về pháp theo quy định của pháp luật. Như vậy, mặt quy phạm đó vẫn chưa được BLHS năm khi xem xét miễn TNHS cho người phạm tội 2015 khắc phục. dưới 18 tuổi thì tùy tội phạm cụ thể, họ có 2. Bất cập cụ thể tại Điều 51 Bộ luật Hình thể được miễn TNHS, nhưng họ phải có sự năm 2015 về các tình tiết giảm nhẹ nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều trách nhiệm hình sự 51 BLHS, trong đó tình tiết giảm nhẹ bắt 2.1 BLHS năm 2015 có 22 tình tiết buộc là tự nguyện khắc phục hậu quả (khắc giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51, phục phần lớn) - đó là điều kiện tiên quyết. ngoài ra khoản 2 Điều luật này còn quy định Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ có khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi khả năng biểu đạt rất cụ thể cấu thành tội đầu thú và các tình tiết khác là tình tiết giảm phạm trên cơ sở hành vi phạm tội của cá nhẹ nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ vào nhân hoặc pháp nhân. Sự biểu đạt ấy diễn ra bản án. Vấn đề đặt ra là, Tòa án có quyền trong các tội phạm cụ thể, trong từng trường tùy nghi lựa chọn các tình tiết khác là tình hợp cụ thể của từng vụ án hình sự, cho thấy tiết giảm nhẹ và có thể coi hoặc không coi ý nghĩa lớn lao về mặt thực tiễn cũng như tình tiết nào đó là tình tiết giảm nhẹ đối với pháp lý. Tuy nhiên, không phải nó luôn phụ bị cáo hay không? Tòa án có thể thiên vị khi thuộc vào hành vi phạm tội cho dù hành vi quyết định hình phạt, đặc biệt là chấp nhận phạm tội chi phối đến nó, và không phải lúc tình tiết giảm nhẹ để cho bị cáo hưởng án nào nó cũng chỉ có mục đích, ý nghĩa để treo, giảm nhẹ hình phạt hay không? định tội và định khung hình phạt. Các tình Về vấn đề này, Nghị quyết số tiết giảm nhẹ TNHS không chỉ biện chứng 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của Hội với hoạt động tiến hành TTHS, mà nó còn đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã NGHIÏN CÛÁU Söë 04(332) T2/2017 LÊÅP PHAÁP 33
  4. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT liệt kê các tình tiết khác được coi là tình tiết tụng, mà trong những vụ này, dù có khuyến giảm nhẹ (các tình tiết này đã được BLHS khích họ khai báo thành khẩn thì cũng rất năm 2015 pháp điển hóa). Tuy nhiên, điều khó vì với thái độ chống đối của họ, đòi hỏi đáng quan tâm là Nghị quyết số 01 nêu trên cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh dù đã liệt kê các tình tiết khác là tình tiết giảm để buộc tội. Mục đích cơ bản của quy định nhẹ, nhưng lại hướng dẫn thêm là: ngoài ra, tình tiết giảm nhẹ này là để khuyến khích bị khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và cáo thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải. hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn Tuy nhiên, với đa số các vụ án bị can, bị cáo có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm đã thành khẩn khai báo thì không cần thiết nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án. Như vậy, phải quy định để đạt mục đích như đã nêu. BLHS năm 1999 đã có quy định tùy nghi cho Mặt khác, người phạm tội dù có khai báo Tòa án áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, thì hay không là quyền của họ, trách nhiệm Nghị quyết số 01 của Hội đồng Thẩm phán chứng minh sự thật vụ án thuộc về Nhà Tòa án nhân dân tối cao làm tăng khả năng nước. Ở đây muốn hướng đến sự bảo đảm tùy nghi trong việc áp dụng pháp luật. Vì thế, quyền được im lặng của bị can, bị cáo. trên thực tế có rất nhiều tình tiết khác không 2.2.2 Về tình tiết “Người phạm tội tích nằm trong số đã liệt kê của Nghị quyết số 01 cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát vẫn được Tòa án áp dụng. Ví dụ, các tình tiết hiện hoặc điều tra tội phạm” quy định tại như gia đình nghèo (có sổ hộ nghèo hoặc gia điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS và tình tiết đình hoàn cảnh khó khăn bị cáo làm đơn “Người phạm tội đã lập công chuộc tội” quy được chính quyền địa phương xác nhận); ông định tại điểm u khoản 1 Điều 51 BLHS: bà nội, ngoại, người thân thích khác của bị Trong hai tình tiết giảm nhẹ này thì thừa cáo được tặng thưởng huân, huy chương, một. Vì tình tiết giảm nhẹ “Đã lập công bằng khen, v.v.. chuộc tội” là trường hợp sau khi thực hiện 2.2 BLHS năm 2015 quy định nhiều tội phạm cho đến trước khi bị xét xử, người tình tiết giảm nhẹ không bảo đảm cơ sở lý phạm tội không những ăn năn hối cải, tích luận và thực tiễn; cũng như vẫn tạo khả năng cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát cho Tòa án duy trì sự tùy nghi, thậm chí là hiện, điều tra tội phạm do họ thực hiện, mà tùy tiện trong việc coi các tình tiết khác là họ còn có những hành động giúp đỡ các cơ tình tiết giảm nhẹ TNHS trong việc quyết quan có thẩm quyền phát hiện, ngăn chặn định hình phạt. Điều này dẫn đến hệ quả là các tội phạm khác, tham gia phát hiện tội bản án được tuyên thiếu nghiêm minh, thiếu phạm, bắt người phạm tội, có hành động thể công bằng do lỗi khách quan hoặc phần lớn hiện sự quên mình vì lợi ích của Nhà nước, là do lỗi chủ quan của Thẩm phán, trong đó của tập thể, quyền và lợi ích chính đáng của không loại trừ khả năng nảy sinh yếu tố tiêu người khác... Như vậy, chỉ cần quy định tình cực, tạo khe hở cho việc “chạy án”. Ví dụ: tiết giảm nhẹ “Đã lập công chuộc tội” là đủ. 2.2.1 Về tình tiết “Người phạm tội 2.2.3 Tình tiết “Người phạm tội là thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải” người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS: chiến đấu, học tập hoặc công tác” quy định Thực tế cho thấy, án thụ lý điều tra ở cấp tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS: Có thể huyện đa số là án phạm tội quả tang. Các vụ nói, tình tiết giảm nhẹ này được áp dụng chủ phạm tội quả tang hoặc các vụ hình sự khác yếu cho đối tượng là cán bộ, công chức, viên người phạm tội hầu hết nhận tội, khai báo rõ chức nhà nước. Xác định tình tiết người ràng, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết phạm tội là người có thành tích xuất sắc giảm nhẹ này chiếm đa số. Chỉ một số ít vụ trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công án phức tạp thì bị can, bị cáo không nhận tội, tác là tình tiết giảm nhẹ sẽ không bảo đảm quanh co đối phó với cơ quan tiến hành tố tính công bằng. Bởi vì, với chế độ khen NGHIÏN CÛÁU 34 LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
  5. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT thưởng hiện nay, cán bộ, công chức, viên Tuy nhiên, quy định này sẽ không đạt được chức nhà nước hầu như ai cũng được khen mục đích phòng ngừa và xử lý tội phạm, bởi thưởng hoặc luân phiên được khen thưởng vì ngay bản thân người phạm tội trong với các hình thức khen thưởng như chiến sĩ trường hợp như đã đề cập, khung trách thi đua, bằng khen, huân, huy chương v.v.., nhiệm pháp lý của họ đã nhẹ hơn các trường Thậm chí là chỉ được giấy khen thì Tòa án hợp phạm tội khác, nếu tiếp tục giảm nhẹ cũng coi là tình tiết giảm nhẹ. Cán bộ, công nữa thì hiệu quả công bằng của hình phạt sẽ chức nhà nước (đây là các chủ thể giữ chức không đạt được. Việc thiết lập các tình tiết vụ, quyền hạn) được khen thưởng trong thời giảm nhẹ phải thực sự đạt được tiêu chí về gian công tác, học tập, sản xuất được tặng chính sách pháp luật hình sự, tạo ra sự bình thưởng, nhưng sau này bị phát hiện có các đẳng trong quan hệ pháp luật TTHS; khuyến hành vi tham nhũng (tội phạm tham nhũng) khích người phạm tội lập công chuộc tội, ăn hoặc tội phạm khác lại được giảm nhẹ năn hối cải và có tác dụng phòng ngừa, xử TNHS là mâu thuẫn với chính sách hình sự lý tội phạm. của Đảng và Nhà nước ta là luôn quy TNHS 2.2.5 Tình tiết “Phạm tội trong trường nghiêm khắc hơn đối với người có chức vụ, hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không quyền hạn, người đứng đầu cơ quan, tổ phải do lỗi của mình gây ra” quy định tại chức, và đối với người lợi dụng danh nghĩa điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS: Tình tiết cơ quan, tổ chức để phạm tội. Mặt khác, đối giảm nhẹ này rất khó xác định. Bởi vì, bị hạn tượng được hưởng tình tiết giảm nhẹ này, chế khả năng nhận thức xảy ra đối với người nếu họ khi trong thời gian công tác, học tập, bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác, người sản xuất, chiến đấu đã có thành tích xuất sắc phạm tội trong hoàn cảnh lạc hậu hoặc bị đe thì họ đã được Nhà nước ưu ái, như nâng dọa, cưỡng bức, hoặc do bị kích động về tinh lương, nâng bậc, nâng ngạch trước thời hạn, thần do hành vi trái pháp luật của bị hại hoặc được bổ nhiệm, quy hoạch... rồi; các đối của người khác gây ra. Còn người bình tượng này còn là người hiểu biết pháp luật, thường, không phải các trường hợp như đã có trình độ văn hóa cao, đáng lẽ phải nêu nêu thì rất khó xác định trường hợp nào bị gương cho người khác, nếu phạm tội thì phải hạn chế khả năng nhận thức mà không phải trừng trị nghiêm khắc hơn người khác chứ do lỗi của họ. Đã là tội phạm thì phải xác không phải tìm cách giảm nhẹ tội cho họ. định được lỗi của người phạm tội, nếu không Đặc biệt là loại tội phạm lợi dụng chức vụ có lỗi thì không thể cấu thành tội phạm cụ để tham nhũng, nếu áp dụng nhiều tình tiết thể và không phải chịu TNHS, kể cả vai trò giảm nhẹ cho họ dẫn đến hình phạt sẽ nhẹ, của người phạm tội ở dạng đồng phạm. thì hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội phạm 2.2.6 Tình tiết “Người phạm tội là cha, tham nhũng bị giảm sút. mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công 2.2.4 Tình tiết “Phạm tội lần đầu và với cách mạng” quy định tại khoản 1 Điều 51 thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định BLHS: Quy định này không bảo đảm nguyên tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS: Tình tiết tắc công bằng và nguyên tắc pháp chế xã hội giảm nhẹ này được quy định với mục đích chủ nghĩa - đây là một trong những nguyên khoan hồng đối với người lần đầu thực hiện tắc được hầu hết các ngành luật đặt lên hàng một tội phạm và tội phạm đó thuộc trường đầu. Theo đó, yêu cầu phải tuân thủ, chấp hợp ít nghiêm trọng. Có thể thấy, theo quy hành pháp luật triệt để và việc xử lý tội phạm định này thì bất cứ tội phạm nào thuộc phải công bằng. Trên thực tế, quy định tình trường hợp nêu trên đương nhiên được tiết giảm nhẹ này ảnh hưởng đến chính sách hưởng một tình tiết giảm nhẹ TNHS. Quy phòng ngừa tội phạm trong xã hội, đặc biệt định này cho thấy BLHS phân biệt phạm tội là việc xử lý tội phạm tham nhũng sẽ không lần đầu với các trường hợp phạm tội khác. nghiêm minh. Trong những năm qua, đối với NGHIÏN CÛÁU Söë 04(332) T2/2017 LÊÅP PHAÁP 35
  6. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT người thân thích của người có công với cách đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm mạng phạm tội, họ thường được tuyên án ở nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong mức nhẹ, như được hưởng án treo. bản án” là không bảo đảm kỹ thuật lập pháp 2.2.7 Ngoài ra: và chưa dựa vào cơ sở thực tiễn. Bởi vì, quy (i) Khoản 1 Điều 51 BLHS chưa pháp định này sẽ tạo ra sự tùy nghi trong việc áp điển hóa các tình tiết giảm nhẹ được hướng dụng khi Tòa án có thể coi hoặc không coi dẫn tại Nghị quyết số 01 nêu trên, đó là tình “đầu thú” là tình tiết giảm nhẹ. Đầu thú cần tiết “Người bị hại cũng có lỗi”, tình tiết phải được khẳng định là một tình tiết giảm “Thiệt hại do lỗi của người thứ ba”, tình tiết nhẹ chính thức, cho dù tính chất của tình tiết “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt “đầu thú” khác với tính chất của tình tiết “tự hại thay cho bị cáo”, tình tiết “Bị hại hoặc thú” nhưng không vì thế mà không coi tình đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ tiết đầu thú là tình tiết giảm nhẹ. Không nên hình phạt cho bị cáo”. Các tình tiết này có ý máy móc chỉ coi người phạm tội “tự thú” nghĩa rất quan trọng vì nó xác định được mới được hưởng tình tiết giảm nhẹ do thái tính chất của vụ phạm tội, lỗi, nguyên nhân độ tự nguyện của người phạm tội, mà cần và hậu quả, ý chí và thái độ của nạn nhân phải dựa vào hiệu quả trong công tác phòng trong vụ án hình sự. Trong đó tình tiết “Gia ngừa, xử lý tội phạm. Ở tình tiết đầu thú là đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại trường hợp người phạm tội đã bị phát hiện, thay cho bị cáo” cũng là một hình thức khắc bị truy nã nhưng sau đó tự mình hoặc được phục hậu quả mang tính chất phổ biến, bù người khác vận động đã ra đầu thú. Để bắt đắp kịp thời thiệt hại cho phía bị hại. Vì giữ một người phạm tội bị truy nã là vô cùng trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam (ở khó khăn, phức tạp, nguy hiểm, có thể kéo nước ta có khoảng 80% bị can, bị cáo bị tạm dài đến nhiều năm. Đối tượng bị truy nã giam trước khi xét xử) thì không có điều thường là người phạm tội gây nguy hại rất kiện để sửa chữa, bồi thường, khắc phục hậu lớn, đặc biệt lớn cho xã hội; để họ ra đầu thú, quả để được hưởng tình tiết giảm nhẹ này. cơ quan có trách nhiệm phải thực hiện rất Trên thực tế, do không thỏa thuận được mức nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau, cần bồi thường trách nhiệm dân sự giữa bị can, đến sự phối hợp của gia đình, cơ quan, tổ bị cáo hoặc gia đình của họ đối với bị hại, chức vận động thuyết phục họ. Do vậy, cần nguyên nhân là do lỗi của bị hại không chấp phải khuyến khích người phạm tội ra đầu thú nhận vì cho rằng không thỏa đáng hoặc và khuyến khích gia đình, cộng đồng xã hội chính phía bị hại không có thiện chí. Trong phối hợp để người phạm tội ra đầu thú, làm khi đó phía bị cáo rất mong muốn được giảm bớt gánh nặng trong việc truy bắt tội hưởng tình tiết giảm nhẹ như vừa nêu. Thế phạm truy nã. nhưng BLHS năm 1999 cũng như Bộ luật 3. Đề xuất một số quy định về các tình tiết TTHS hiện hành chưa quy định cách thức giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để phía bị cáo thực hiện trách nhiệm bồi Một là, bỏ đi những tình tiết giảm nhẹ thường, khắc phục hậu quả. không cần thiết tại khoản 1 Điều 51 BLHS, Bên cạnh đó, có nhiều vụ án hình sự cụ thể là các tình tiết: “Người phạm tội mà nguyên nhân là do bị hại có lỗi trước; thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải”, hoặc có trường hợp thiệt hại do lỗi của tình tiết “Người phạm tội tích cực giúp đỡ người thứ ba. Để bảo đảm công bằng và các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc phòng ngừa tội phạm thì cần thiết phải điều tra tội phạm”, tình tiết “Người phạm tội quy định các trường hợp này là tình tiết là người có thành tích xuất sắc trong sản giảm nhẹ. xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác”, tình (ii) Khoản 2 Điều 51 BLHS quy định: tiết “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi ít nghiêm trọng”, tình tiết “Phạm tội trong NGHIÏN CÛÁU 36 LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
  7. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức g) Thiệt hại do lỗi của người thứ ba; mà không phải do lỗi của mình gây ra”, và h) Bị hại hoặc đại diện hợp pháp của tình tiết “Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; chồng, con của liệt sĩ, người có công với i) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại cách mạng”. hoặc gây thiệt hại không lớn; Hai là, bỏ quy định tại khoản 2 Điều k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa 51 BLHS - vốn được duy trì từ BLHS năm hoặc cưỡng bức; 1985 đến nay - Tòa án được lựa chọn các l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ. chế khả năng nhận thức mà không phải do Ba là, bổ sung một số tình tiết giảm lỗi của mình gây ra; nhẹ bằng việc quy định chính thức tình tiết m) Phạm tội do lạc hậu; giảm nhẹ “đầu thú”, tình tiết “Người bị hại n) Người phạm tội là phụ nữ có thai; cũng có lỗi”, tình tiết “Thiệt hại do lỗi của o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi người thứ ba”, tình tiết “Gia đình bị cáo trở lên; sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị ơ) Người phạm tội là người khuyết tật cáo”, tình tiết “Bị hại hoặc đại diện hợp nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho p) Người phạm tội là người có bệnh bị bị cáo”. Cụ thể, Điều 51 BLHS được thiết hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng kế như sau: điều khiển hành vi của mình; “Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ q) Người phạm tội tự thú hoặc đầu TNHS thú; 1. Các tình tiết sau đây là tình tiết r) Người phạm tội đã lập công chuộc giảm nhẹ TNHS: tội; a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc 2. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ làm giảm bớt tác hại của tội phạm; luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc ă) Người phạm tội tự nguyện sửa định khung thì không được coi là tình tiết chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt”. hậu quả; Bốn là, để thực hiện tình tiết “Người â) Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thường thiệt hại thay cho bị cáo; thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” và tình b) Phạm tội trong trường hợp vượt quá tiết “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường giới hạn phòng vệ chính đáng; thiệt hại thay cho bị cáo”, đề xuất cơ quan c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện, theo yêu cầu của tình thế cấp thiết; đó trường hợp bị cáo hoặc gia đình bị cáo d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; quả nhưng bị hại không chấp nhận thì vẫn đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Về mặt pháp động về tinh thần do hành vi trái pháp luật luật TTHS, cần đưa ra cách thức để cho của nạn nhân gây ra; phía bị cáo nộp tiền, tài sản bồi thường tại e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình khăn mà không phải do mình tự gây ra; điều tra, truy tố và xét xử trong trường hợp ê) Người bị hại cũng có lỗi; đã đặt ra n TÀI LIỆU THAM KHẢO: - Phạm Văn Lợi (chủ biên), (2007), Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội. - Trần Thị Quang Vinh (2005), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. NGHIÏN CÛÁU Söë 04(332) T2/2017 LÊÅP PHAÁP 37
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2