Caåm nang<br />
<br />
phöông phaùp phaân tích chuoãi giaù trò haøng noâng saûn<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP<br />
PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ HÀNG NÔNG SẢN<br />
Phần 1:<br />
<br />
GIỚI THIỆU<br />
1. Giới thiệu<br />
Phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị (CGT) được các nước phát triển áp dụng trong nhiều thập<br />
niên qua nhằm đưa sản phẩm ra thị trường một cách hiệu quả, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp.<br />
Riêng ở Việt Nam, cách tiếp cận này được biết đến và sử dụng rộng rãi từ sau năm 2000. Phương<br />
pháp tiếp cận CGT được đề cập bởi nhiều tác giả khác nhau như Kaplinsky (1999), Kaplinsky<br />
và Morris (2001), Porter (1985), Gereffi (1994, 1999), Gereffi G. và J. Humphrey, et al. (2003)<br />
và cách tiếp cận liên kết chuỗi giá trị “ValueLinks” của GTZ (2007) - (Deutsche Gesellschaft<br />
für Technische Zusammenarbeit – Đức). Nếu những sản phẩm có liên quan đến người nghèo thì<br />
“Nâng cao hiệu quả thị trường cho người nghèo” (M4P, 2008) là sự kết hợp tốt với phương pháp<br />
tiếp cận CGT trong nghiên cứu và kết nối thị trường các sản phẩm. Hiện tại có nhiều chuyên gia<br />
quốc tế đang làm việc tại các tổ chức quốc tế trên thế giới và Việt Nam có liên quan đến việc thực<br />
hiện và tư vấn phát triển phương pháp CGT như Michael van den Berg, Marije Boomsma, Ivan<br />
Cucco, Luigi Cuna, Nico Janssen, Paule Moustier, Laura Prota, Tim Purcell, Dominic Smith và<br />
Siebe Van Wijk (phụ lục 1).<br />
2. Định nghĩa chuỗi giá trị<br />
Định nghĩa CGT có thể được giải thích theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng.<br />
Chuỗi giá trị theo nghĩa hẹp là một loạt các hoạt động thực hiện trong một công ty để<br />
sản xuất ra một sản phẩm nhất định. Các hoạt động này có thể bao gồm giai đoạn xây dựng<br />
khái niệm và thiết kế, quá trình mua vật tư đầu vào, sản xuất, tiếp thị và phân phối, thực hiện<br />
các dịch vụ hậu mãi đến người tiêu thụ sản phẩm cuối cùng v.v...Tất cả những hoạt động này<br />
trở thành một chuỗi kết nối người sản xuất với người tiêu dùng. Mặt khác, mỗi hoạt động lại<br />
bổ sung giá trị cho thành phẩm cuối cùng. Nói cách khác, CGT theo nghĩa hẹp là các hoạt động<br />
trong cùng một tổ chức hay một công ty theo khung phân tích của Porter (1985).<br />
Chuỗi giá trị theo nghĩa rộng là một tập hợp những hoạt động do nhiều người khác nhau<br />
tham gia thực hiện (nhà cung cấp đầu vào, người thu gom, nhà chế biến, công ty, người bán sỉ,<br />
người bán lẻ...) để sản xuất ra một sản phẩm sau đó bán cho người tiêu dùng trong nước và xuất<br />
khẩu (phương pháp tiếp cận toàn cầu).<br />
Nói cách khác, CGT theo nghĩa rộng là<br />
• <br />
<br />
một chuỗi các quá trình sản xuất từ đầu vào đến đầu ra;<br />
<br />
• <br />
một sự sắp xếp có tổ chức, kết nối và điều phối người sản xuất, nhóm sản xuất,<br />
doanh nghiệp và nhà phân phối liên quan đến một sản phẩm cụ thể;<br />
<br />
1<br />
<br />
DÖÏ AÙN “HOÃ TRÔÏ XUAÁT KHAÅU TRAÙI CAÂY TAÏI CAÙC TÆNH ÑBSCL - MOÂ HÌNH THÍ ÑIEÅM TAÏI TÆNH TIEÀN GIANG”<br />
<br />
• một mô hình kinh tế trong đó kết nối việc lựa chọn sản phẩm và công nghệ thích hợp<br />
với cách thức tổ chức các tác nhân liên quan để tiếp cận thị trường.<br />
3. Ý nghĩa của phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị trong phát triển bền vững sản<br />
phẩm<br />
Phương pháp tiếp cận CGT có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển bền vững sản phẩm/<br />
ngành hàng, nhất là sản phẩm nông nghiệp bởi vì:<br />
• Phân tích CGT được xem như là công cụ đắc lực giúp cho những nhà quản trị, người giữ<br />
vai trò quản lý trong tổ chức, doanh nghiệp xác định đâu là những hoạt động chính của một tổ<br />
chức, một ngành hàng, và xác định xem mỗi hoạt động đã góp phần vào chiến lược cạnh tranh<br />
cũng như sự phát triển của tổ chức, của ngành hàng như thế nào.<br />
• Phân tích CGT là một công cụ mô tả nhằm giúp cho nhà quản trị kiểm soát được sự<br />
tương tác giữa những người tham gia khác nhau trong chuỗi. Là một công cụ có tính mô tả nên<br />
nó có lợi thế ở chỗ buộc người phân tích phải xem xét cả các khía cạnh vi mô và vĩ mô trong<br />
các hoạt động sản xuất và trao đổi, nhằm chỉ ra được năng lực cạnh tranh của một công ty, một<br />
ngành hàng… có thể bị ảnh hưởng do tính không hiệu quả ở một khâu nào đó trong CGT.<br />
• Giúp cho nhà quản trị đo lường được hiệu quả chung của sản phẩm, của ngành hàng và<br />
xác định được mức đóng góp cụ thể của từng tác nhân tham gia chuỗi để có cơ sở đưa ra những<br />
quyết định phù hợp.<br />
• Phân tích CGT có vai trò trung tâm trong việc xác định phân phối lợi ích – chi phí của<br />
những người tham gia trong chuỗi, từ đó khuyến khích sự hợp tác giữa các khâu trong chuỗi<br />
để việc phân phối lợi ích vươn tới sự công bằng, tạo ra nhiều hơn giá trị tăng thêm và nâng cao<br />
lợi thế cạnh tranh.<br />
• Giúp cho các nhà tạo lập chính sách có nguồn thông tin cần thiết để có những giải pháp<br />
phù hợp và không ngừng hoàn thiện chính sách vĩ mô và vi mô.<br />
• Giúp hình thành và phát triển các liên kết sản xuất dọc (hợp tác giữa các tác nhân tham<br />
gia chuỗi) và liên kết ngang (giữa từng khâu trong chuỗi) là cơ sở chính để sản phẩm tiếp cận<br />
thị trường một cách bền vững.<br />
• Giúp cho quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả (chi phí sản xuất thấp) từ đầu vào đến đầu ra<br />
và quản lý chất lượng tốt (từ đầu ra trở về đầu vào) nhằm nâng cao giá trị gia tăng của ngành<br />
hàng (giá thành cạnh tranh, chất lượng tốt).<br />
• Giúp quản lý rủi ro dọc theo chuỗi tốt hơn và tổ chức hậu cần (logistics) hiệu quả.<br />
• Giúp cho các tác nhân tham gia chuỗi có nhận thức, năng động và trách nhiệm đến sản<br />
phẩm cuối cùng.<br />
• Giúp cho việc nâng cấp chuỗi giá trị kịp thời, hiệu quả từ việc nâng cao trách nhiệm từng<br />
tác nhân và nhà hỗ trợ chuỗi.<br />
4. Phương pháp luận trong cách tiếp cận chuỗi giá trị<br />
4.1 Phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị<br />
<br />
2<br />
<br />
Caåm nang<br />
<br />
phöông phaùp phaân tích chuoãi giaù trò haøng noâng saûn<br />
<br />
Có nhiều định nghĩa cách tiếp cận khác nhau về CGT nhưng nhìn chung CGT có ba cách<br />
tiếp cận chính đó là phương pháp Filière (phương pháp chuỗi), khung phân tích của Porter và<br />
cách tiếp cận toàn cầu.<br />
4.1.1 Phương pháp Filière (chuỗi, mạch)<br />
Phương pháp Filière gồm có nhiều trường phái tư duy và truyền thống nghiên cứu khác<br />
nhau. Khởi đầu, phương pháp này được dùng để phân tích hệ thống nông nghiệp của các nước<br />
đang phát triển trong hệ thống thuộc địa của Pháp. Phân tích chuỗi, chủ yếu là làm công cụ<br />
để nghiên cứu cách thức mà các hệ thống sản xuất nông nghiệp (cao su, bông, cà phê, dừa…)<br />
được tổ chức trong bối cảnh của các nước đang phát triển. Trong bối cảnh này, khung filière<br />
chú trọng đặc biệt đến cách các hệ thống sản xuất địa phương được kết nối với công nghiệp chế<br />
biến, thương mại, xuất khẩu và khâu tiêu dùng cuối cùng.<br />
Do đó, khái niệm chuỗi (Filière) được nhận thức chủ yếu bằng kinh nghiệm thực tế và<br />
được sử dụng để lập sơ đồ dòng chuyển động của hàng hóa và xác định những người tham gia<br />
vào các hoạt động. Tính hợp lý của chuỗi cũng tương tự như khái niệm rộng về CGT (đã trình<br />
bày ở trên). Tuy nhiên, khái niệm chuỗi chủ yếu tập trung vào các vấn đề của các mối quan hệ<br />
vật chất và kỹ thuật được tóm tắt trong sơ đồ dòng chảy của các hàng hóa và sơ đồ mối quan<br />
hệ chuyển đổi thông qua những người tham gia chuỗi (hình 1).<br />
Nhà cung<br />
ứng đầu vào<br />
<br />
Nhà<br />
sản xuất<br />
<br />
Nhà<br />
chế biến<br />
<br />
Nhà<br />
phân phối<br />
<br />
Người<br />
tiêu dùng<br />
<br />
Hình 1: Khái niệm chuỗi theo phương pháp Filière<br />
<br />
CGT:<br />
<br />
Phương pháp chuỗi (Filière) có hai lĩnh vực và có một số điểm chung so với phân tích<br />
<br />
• Việc đánh giá chuỗi về mặt kinh tế và tài chính chú trọng vào vấn đề tạo thu nhập và<br />
phân phối trong chuỗi hàng hóa và phân biệt các khoản chi phí, thu nhập giữa kinh doanh nội<br />
địa và quốc tế nhằm phân tích sự ảnh hưởng của chuỗi đến nền kinh tế quốc dân và sự đóng<br />
góp của nó vào GDP.<br />
• Phân tích chú trọng vào chiến lược của phương pháp chuỗi được sử dụng nhiều nhất ở<br />
trường Đại học Paris – Nanterre, một số viện nghiên cứu như Viện Nghiên cứu và Phát triển<br />
của Pháp (CIRAD), các tổ chức phi chính phủ như IRAM (về phát triển nông nghiệp), nghiên<br />
cứu một cách có hệ thống sự tác động lẫn nhau của các mục tiêu, các cản trở và kết quả của mỗi<br />
bên có liên quan trong chuỗi; các chiến lược cá nhân và tập thể cũng như các hình thái qui định<br />
mà Hugon (1985) đã xác định là có bốn loại liên quan đến chuỗi hàng hóa ở Châu Phi được<br />
phân tích gồm qui định trong nước, qui định về thị trường, qui định của nhà nước và qui định<br />
kinh doanh nông nghiệp quốc tế. Moustier và Leplaideur (1989) đã đưa ra một khung phân tích<br />
về tổ chức chuỗi hàng hóa (lập sơ đồ, các chiến lược cá nhân và tập thể, hiệu suất về mặt giá<br />
cả và tạo thu nhập, vấn đề chuyên môn hóa của nông dân, thương nhân ngành thực phẩm so<br />
với chiến lược đa dạng hóa).<br />
<br />
3<br />
<br />
DÖÏ AÙN “HOÃ TRÔÏ XUAÁT KHAÅU TRAÙI CAÂY TAÏI CAÙC TÆNH ÑBSCL - MOÂ HÌNH THÍ ÑIEÅM TAÏI TÆNH TIEÀN GIANG”<br />
<br />
4.1.2 Khung phân tích của Porter<br />
Cách tiếp cận thứ hai có liên quan đến công trình của Michael Porter (1985) về các lợi<br />
thế cạnh tranh. Michael Porter đã dùng khung phân tích CGT để đánh giá xem một công ty<br />
nên tự định vị mình như thế nào trên thị trường và trong mối quan hệ với các nhà cung cấp,<br />
khách hàng và các đối thủ cạnh tranh khác (cách tiếp cận CGT theo nghĩa hẹp). Trong đó, ý<br />
tưởng về lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp được ông tóm tắt như sau: Một công ty có<br />
thể cung cấp cho khách hàng một mặt hàng (hoặc dịch vụ) có giá trị tương đương với đối thủ<br />
cạnh tranh của mình nhưng với chi phí thấp hơn (chiến lược giảm chi phí). Hoặc, làm thế nào<br />
để một doanh nghiệp có thể sản xuất một mặt hàng mà khách hàng chấp nhận mua với giá cao<br />
hơn (chiến lược tạo sự khác biệt).<br />
Trong bối cảnh này, khái niệm CGT được sử dụng như một khung khái niệm mà các doanh<br />
nghiệp có thể dùng để tìm ra các nguồn lợi thế cạnh tranh (thực tế và tiềm năng) của mình. Đặc<br />
biệt, Porter còn lập luận rằng các nguồn lợi thế cạnh tranh không thể tìm ra nếu nhìn vào công<br />
ty như một tổng thể. Một công ty cần được phân tách thành một loạt các hoạt động và có thể tìm<br />
thấy lợi thế cạnh tranh trong một (hoặc nhiều hơn) ở các hoạt động đó. Porter phân biệt giữa các<br />
hoạt động sơ cấp, trực tiếp góp phần tăng thêm cho giá trị sản xuất hàng hoá (dịch vụ) và các hoạt<br />
động hỗ trợ có ảnh hưởng gián tiếp đến giá trị cuối cùng của sản phẩm (Hình 2).<br />
<br />
Hình 2: Khung phân tích chuỗi giá trị của Porter (1985)<br />
<br />
Trong khung phân tích của Porter, khái niệm CGT không trùng với ý tưởng về chuyển<br />
đổi vật chất. Porter giới thiệu ý tưởng, theo đó tính cạnh tranh của một công ty không chỉ liên<br />
quan đến qui trình sản xuất. Tính cạnh tranh của doanh nghiệp có thể phân tích bằng cách xem<br />
xét CGT bao gồm thiết kế sản phẩm, mua vật tư đầu vào, hậu cần (bên trong và bên ngoài),<br />
tiếp thị, bán hàng, các dịch vụ hậu mãi và dịch vụ hỗ trợ (lập chiến lược, quản lý nguồn nhân<br />
lực, hoạt động nghiên cứu…). Do vậy, trong khung phân tích của Porter, khái niệm CGT chỉ áp<br />
dụng trong kinh doanh. Phân tích CGT chủ yếu nhằm hỗ trợ các hoạt động quản lý, điều hành<br />
đưa ra các quyết định mang tính chiến lược.<br />
4.1.3 Phương pháp tiếp cận toàn cầu<br />
Khái niệm CGT còn được áp dụng để phân tích vấn đề toàn cầu hóa (Gereffi and<br />
Kozeniewicz 1994, Kaplinsky 1999, Kaplinsky and Morris 2001). Theo đó, các nhà nghiên<br />
cứu dùng khung phân tích CGT để tìm hiểu cách thức mà các công ty, các quốc gia hội nhập<br />
<br />
4<br />
<br />
Caåm nang<br />
<br />
phöông phaùp phaân tích chuoãi giaù trò haøng noâng saûn<br />
<br />
toàn cầu đánh giá về các yếu tố quyết định liên quan đến việc phân phối và thu nhập toàn cầu.<br />
Phân tích CGT còn giúp làm sáng tỏ việc các công ty, quốc gia và vùng lãnh thổ được kết nối<br />
với nền kinh tế toàn cầu như thế nào. Tương tự, theo cách tiếp cận liên kết chuỗi giá trị (GTZ<br />
Eschborn, 2007) của GTZ (Deutsche Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit – Đức) thì<br />
CGT là một loạt các hoạt động kinh doanh (hay chức năng) có quan hệ với nhau, từ việc cung<br />
cấp các giá trị đầu vào cụ thể cho một sản phẩm nào đó, đến sơ chế, chuyển đổi, marketing,<br />
cuối cùng là bán sản phẩm đó cho người tiêu dùng. Hay CGT là một loạt quá trình mà các<br />
doanh nghiệp (nhà vận hành) thực hiện các chức năng chủ yếu của mình để sản xuất, chế biến,<br />
và phân phối một sản phẩm cụ thể nào đó. Các doanh nghiệp kết nối với nhau bằng một loạt<br />
các giao dịch sản xuất và kinh doanh, trong đó sản phẩm được chuyển từ tay nhà sản xuất, sơ<br />
chế ban đầu đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Theo thứ tự các chức năng và các nhà vận hành,<br />
CGT sẽ bao gồm một loạt các khâu trong chuỗi (hay còn gọi là các chức năng chuỗi).<br />
Kết hợp với cách tiếp cận CGT của GTZ, phòng Phát triển Quốc tế của Anh còn giới<br />
thiệu cuốn sổ tay thực hành phân tích CGT có liên quan đến người nghèo với tựa đề “Để chuỗi<br />
giá trị hiệu quả hơn cho người nghèo” hay “Nâng cao hiệu quả thị trường cho người nghèo”<br />
(M4P, 2008). Đây là cách tiếp cận rất phù hợp để nghiên cứu các sản phẩm nông nghiệp, nhất<br />
là những sản phẩm có liên quan đến người nghèo.<br />
<br />
Hình 3: Sơ đồ chuỗi giá trị (GTZ Eschborn, 2007)<br />
Trong phần còn lại của quyển sách này, tác giả sẽ đề cập CGT theo nghĩa rộng, nghĩa là<br />
CGT là một hoạt động kinh doanh có quan hệ với nhau, từ việc cung cấp các đầu vào để sản<br />
xuất một sản phẩm, đến sơ chế, vận chuyển, tiếp thị đến việc cuối cùng là bán sản phẩm đó cho<br />
người tiêu dùng (GTZ Eschborn, 2007).<br />
4.2 Những hạn chế của phân tích chuỗi giá trị<br />
Vào năm 2006, các học giả và những người thực hành đã lên tiếng phê bình về mô<br />
hình chuỗi giá trị và sự ứng dụng của nó vào các tổ chức dịch vụ. Họ cho rằng phân tích<br />
<br />
5<br />
<br />