intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Chia sẻ: Lan Zhan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:7

38
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nói về các tác phẩm: Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, có nhà nghiên cứu văn học đã nhận định rằng: Có thể coi đây là những bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Đề  bài: Cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung <br /> Thành<br /> <br /> Bài làm<br /> <br /> Nói về  các tác phẩm: Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, có nhà nghiên cứu văn học đã <br /> nhận định rằng: Có thể  coi đây là những bản anh hùng ca mang đậm tính sử  thi và cảm <br /> hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên , nói rộng ra là về hai cuộc <br /> chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) <br /> thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể  anh hùng  <br /> vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên.<br /> <br /> Ta hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nổi bật lên trong bối cảnh hùng vĩ <br /> của Rừng xà nu: Tnú, cụ Mết, Dít và bé Heng.<br /> <br /> Nhân vật trung tâm của truyện là nhân vật Tnú được tác giả  khắc họa bằng những nét <br /> tính cách anh hùng, giàu chất sử  thi. Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ  nhỏ <br /> Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ  và hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Khi bị  giặc bắt,  <br /> Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết <br /> tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo mài rựa chiến đấu chống lại kẻ thù.<br /> <br /> Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở  về  làng, anh nhớ  rõ từng <br /> hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bổi hổi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên <br /> cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ  anh ngày xa xưa, của <br /> Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi. Anh yêu thương vợ con tha  <br /> thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng cây sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương  <br /> của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với một tiếng thét dữ  dội và anh dang hai <br /> cánh tay trông như hai cánh lim chắc của anh Ôm chặt lấy mẹ con Mai. Càng đau thương, <br /> Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa  <br /> lớn. Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào <br /> (…). Răng anh đã cắn nát môi anh rồi.<br /> Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng. Chỉ  một tiếng thôi. <br /> Những tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ  dội hơn. Thế  là cơn <br /> giông bão nổi lên. Cả làng Xô Man vùng dậy suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung  <br /> động và lửa cháy khắp rừng… Nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh <br /> dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả  một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú đi “lực lượng” để <br /> quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong <br /> thực tế  chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó hiểu biết sâu sắc về  kẻ  thù và <br /> nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của dân tộc.<br /> <br /> Nhân vật tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man là nhân vật cụ Mết. Lịch sử chiến  <br /> đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thâm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa  <br /> quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng. Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước  <br /> sau như  một. Cụ  đã từng nói: “Cán bộ  là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong  <br /> những năm đen tối cụ Mết cùng dân làng Xô Man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ,  <br /> đi nuôi và gác cho cán bộ  và năm năm chưa hề có một cán bộ  bị  giặc bắt hay giết trong  <br /> rừng làng này.<br /> <br /> Cụ Mết còn là linh hồn làng Xô Man. Chính cụ đã tìm ra chân lý dùng bạo lực để  chiến  <br /> đấu: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Chinh cụ đã lãnh đạo dân làng đồng <br /> khởi. Hình  ảnh ông cụ  mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như  một cây xà nu lớn, cất <br /> tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực <br /> rỡ  như  trong một trang sử thi anh hùng: “Thế  là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả  người  <br /> già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mối người phải tìm lấy một cây giáo, một  <br /> cây mác, một cây dụ, một cây rựa.<br /> <br /> Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên”. Từ ngày ấy làng Xô Man trở <br /> thành thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ  của cụ  Mết vào công cuộc <br /> giải phóng quê hương bản làng.<br /> <br /> Nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ  những  <br /> đau thương và quật khởi của dân làng là nhân vật Dít. Trong thời gian dân làng Xô Man  <br /> chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đánh thanh niên vào rừng. Chỉ <br /> có con Đít nhỏ, lanh lẹ, cứ sẫm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết,  <br /> Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắt dọa, đạn chỉ sượt qua tai xém tóc, cày  <br /> đất quanh hai chân nhỏ… thì Dít vẫn đứng lặng giữa bọn lính, cứ  mỗi viên đạn nổ, cái <br /> thân hình mảnh, dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc <br /> bình thản… Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều <br /> khóc vì cái chết của Mai thì Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh.<br /> <br /> Dít cũng giàu tình cảm thương yêu, khi Tnú về  thăm làng, Dít đã là bí thư  chi bộ  vừa là  <br /> chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp  <br /> lại Tnú. Dù trong lòng rất vui: Dít vẫn nghiêm chỉnh thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy  <br /> về  phép của anh. Rồi từ  chỗ  gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi anh là anh, xưng <br /> em thật tự  nhiên, như  người em gái nhỏ  của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ  bày tình thân  <br /> thiết: “Sao anh về có một đêm thôi… Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.<br /> <br /> Cuối cùng tiêu biểu cho thế  hệ trẻ  tuổi nhất của dân làng Xô Man là nhân vật bé Heng.  <br /> Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ <br /> mới đeo cái xà­lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng lớn lên, cũng <br /> ít nói như  những người dân làng Xô Man này, với cách ăn mặc và trang bị  ra vẻ  một  <br /> người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng. Làng Xô Man giờ đây trở thành làng chiến  <br /> đấu và con đường vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố  chông ngăn  <br /> chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng những công sự này, nên tỏ <br /> ra rất hãnh diện. Sự trưởng thành của nhân vật còn thể hiện trong một cử chỉ nhỏ nhưng  <br /> toát lên ý thức trách nhiệm và sự tiến bộ về’ sinh hoạt đời sống: Khi đưa Tnú ngang một <br /> con suối nhỏ bé Heng bảo Tnú rửa chân, nhưng đừng uống nước lạnh. Uống nước lạnh <br /> về chị Dít phê bình đó.<br /> <br /> Nếu cụ  Mết xứng đáng với hình  ảnh cây xà nu đại thụ  giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh <br /> thẫm thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao  <br /> thẳng lên bầu trời sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được.<br /> Nghệ  thuật miêu tả  nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm <br /> khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho con người Tây Nguyên kiên  <br /> cường, thi các nhân vật cụ  Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình  ảnh những lớp cây xà nu đại  <br /> diện cho thế hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô Man, được khắc họa bằng những nét tính <br /> cách cụ thể và sinh động. Qua rừng xà nu ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước và con  <br /> người Tây Nguyên. Họ  đã đóng góp không nhỏ  vào sự  nghiệp chiến đấu chung để  giải  <br /> phóng dân tộc.<br /> <br /> Bài làm 2<br /> <br /> Tây Nguyên ­ mảnh đất hùng vĩ và thơ mộng, với những con người nồng hậu yêu thương  <br /> mà kiên cường bất khuất, từ  lâu đã là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nhân nghệ  sĩ.  <br /> Mỗi người đều tìm thấy ở mảnh đất này một biểu tượng đẹp cho tâm hồn cất cánh, ngòi  <br /> bút thăng hoa. Ngọc Anh có Bóng cây Kơnia như nỗi lòng thổn thức thiết tha của tình yêu  <br /> thủy chung son sắt, Thu Bồn có Bài ca chim Chơ­rao, ngân vang khúc hát trong trẻo nồng <br /> đượm tình người chiến thắng... Còn Nguyễn Trung Thành lại đem đến cho ta hình tượng <br /> những Rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời như  sức sống bền và bất diệt của nhân  <br /> dân Tây Nguyên trong công cuộc chống Mỹ cứu nước<br /> <br /> Đọc Rừng xà nu, không chỉ những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai tạo nên ấn tượng <br /> sâu sắc trong chúng ta, mà còn là cây xà nu ­ một hình đặc sắc bao trùm toàn bộ  thiên  <br /> truyện ngắn này. Chính hình tượng cây xà nu tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi lãng <br /> mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất, kiên cường. Đó là hình tượng hàm chứa  <br /> nhiều ý nghĩa tượng trưng. Qua hình tượng này, người đọc có thể  thấy rõ sức sống kiên <br /> cường, sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên nói riêng, của con người Việt nói  <br /> chung trong những ngày đánh Mỹ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trung Thành lại <br /> miêu tả thật cụ thể, thật chi tiết rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng <br /> những “lời có cánh” với một cảm xúc say mê mãnh liệt như đã thấy trong tác phẩm. Gần <br /> hai mươi lần nhà văn đã viết về xà nu, dường như  cây xà nu tham dự  vào tất cả  những  <br /> sinh hoạt, những tâm tình, những buồn vui của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến  <br /> đấu anh dũng của họ.<br /> Cả  một câu chuyện dài, đau thương, bất khuất như  một bản anh hùng ca về  cuộc đời  <br /> Tnú, cuộc đời dân làng Xô Man được kể trên nền chính của hình tượng cây xà nu. Cây xà  <br /> nu, rừng xà nu như  những con người, những tâm hồn, vừa là nhân chứng, vừa tham gia  <br /> vào bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi gian nan, vất vả, đau thương do tội ác của <br /> kẻ  thù, nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn vươn mình cường tráng, vẫn tồn tại bất  <br /> chấp mọi đau thương: nó tượng trưng cho khát vọng tự  do, khát vọng giải phóng, cho  <br /> phẩm chất anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây  <br /> Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.<br /> <br /> Hình tượng cây xà nu hiện lên trong tác phẩm đầy chất thơ  hùng tráng. Mở  đầu và kết  <br /> thúc câu chuyện là hình ảnh “hàng vạn cây xà nu” “sinh sôi nảy nở”,“rừng xà nu ưỡn tấm <br /> ngực lớn của mình ra, che chở  cho làng”... “đến hết tầm mắt cùng không thấy gì khác <br /> ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời". Rừng xà nu là biểu tượng cho con người.  <br /> Cây được miêu tả  như  con người trong sự  ứng chiếu với con người, g ợi ra nh ững bi ểu  <br /> tượng về đời sống, số  phận và phẩm cách của con người ­ các thế  hệ  dân làng Xô Man <br /> đánh Mỹ.<br /> <br /> Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”, cũng <br /> như Tnú, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man, chịu nhiều  <br /> đau thương bởi sự tàn ác của giặc: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không  <br /> bị thương. Có những cây bị chặt đúng ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở <br /> chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần  <br /> dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Nhưng xà nu có sức sống thật <br /> mãnh liệt, không gì tàn phá nổi: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con  <br /> mọc lên, ngọn cây xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng trên bầu trời”, cũng như các thế <br /> hệ làng Xô Man, lớp này tiếp lớp khác đứng lên. Anh Quyết hy sinh thì có Tnú, Mai: Mai <br /> ngã xuống giữa tuổi tràn đầy sức sống, thì Dít lớn lên rất nhanh đến không ngờ, trở thành  <br /> bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội: rồi những bé Heng, thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang  <br /> lớn lên, tiếp tục cuộc chiến đấu. Đồng thời, ngược lại, nhiều chỗ miêu tả con người, nhà  <br /> văn đã so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì “ngực căng như một cây xà nu lớn”, vết thương <br /> trên lưng Tnú do giặc tra tấn thì “ứa ra một giọt máu đậm, từ  sáng đến chiều thì đặc <br /> quyện lại, tím thâm như  nhựa xà nu”. Thủ  pháp  ấy trong miêu tả  tạo nên một sự  hòa  <br /> nhập, tương ứng giữa con người và thiên nhiên trong một chất thơ hào hùng, tráng lệ. Nhà  <br /> văn đã ví cụ Mết “như một cây xà nu lớn” bởi cụ là người hơn ai hết hiểu sự gắn bó của <br /> cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng cây <br /> cũng như dân làng Xô Man: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ  ngã,  <br /> cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!...”.<br /> <br /> Cây xà nu gắn bó với con người và cuộc sống dân làng. Xà nu không chỉ  có mặt trong <br /> đoạn mở đầu và kết thúc, nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man  <br /> của anh. Xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày như  đã tự  ngàn đời nay của dân làng: <br /> Ngọn lửa xà nu trong mối bếp; đống lửa ở nhà rông tập hợp cả dân làng, ngọn đuốc xà nu  <br /> cháy sáng soi những đoạn rừng đêm; khói xà nu hun tấm bảng đen cho anh Quyết đạt Tnú  <br /> và Mai học chữ..; xà nu cũng tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống chống  <br /> Mĩ: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và tất cả dân làng vào rừng lấy dao, mác, <br /> dụ, rựa đã giấu kĩ, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy, và đêm đêm làng Xô Man thức, dưới ánh  <br /> đuốc xà nu, mài vũ khí; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu...; cũng ngọn <br /> lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cái đêm cả làng nổi dậy, soi rõ xác mười tên lính giặc <br /> bị giết ngổn ngang quanh đống lửa lớn giữa sân làng...<br /> <br /> Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ, sự hy sinh thầm lặng, lòng dũng cảm, ý  <br /> chí quật cường của dân làng Xô Man: “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm  <br /> nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng.”. Ánh lửa xà nu soi sáng  <br /> lời căn dặn của anh Quyết: “Người còn sống phải chuyển dáo, mác, dụ. rựa, tên, ná... Sẽ <br /> có ngày dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú: “không có  <br /> gì đượm bằng nhựa xà nu.. Mười đầu ngón tay đã thành mười ngọn đuốc... Máu anh mặn <br /> chát  ở  đầu lưỡi.. ”. Căm thù trong anh cháy giần giật như  nhựa xà nu bén nhạy để  “bàn  <br /> tay hận thù” thành “bàn tay trả thù” bóp chết tên ác ôn dưới ngách hầm.<br /> <br /> Câu chuyện cụ Mết kể  phảng phất phong vị anh hùng ca. Đêm kể  chuyện dưới ánh lửa <br /> xà nu chắc cũng giống như đêm già làng thường kể về các bài: anh hùng ca truyền thống <br /> của Tây Nguyên. Giọng điệu sử thi của Rừng xà nu bắt nguồn từ đó. Cây xà nu gắn với  <br /> quá khứ, hiện tại anh hùng, gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục và đời sống văn hóa của  <br /> dân tộc Tây Nguyên, khiến cho câu chuyện làng Xô Man đánh Mỹ  lung linh sắc màu <br /> huyền thoại như Đam San, Xinh Nhã thuở nào...<br /> <br /> Có thể nói hình tượng xà nu là mô típ chủ đạo của tác phẩm. Xà nu trở thành biểu tượng <br /> cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man. Đó là một sáng tạo nghệ  thuật đặc <br /> sắc của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó <br /> những ý nghĩa mới, những vẻ đẹp mới để dựng lên bức tranh sử thi chống Mĩ của những  <br /> con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng hùng vĩ Tây Nguyên.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2