intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cảm nhận hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương

Chia sẻ: Vũ Phương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

330
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài thơ "Thương vợ”, Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cảm nhận hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương

VĂN MẪU LỚP 11 CẢM NHẬN VỀ HÌNH TƯỢNG BÀ TÚ TRONG BÀI THƠ THƯƠNG VỢ CỦA TÚ XƯƠNG BÀI MẪU SỐ 1: Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, “Thương vợ” được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất. Cái hay của bài thơ là đã thể hiện được một cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của nhà thơ đối với sự hi sinh, tảo tần của vợ. Quan trọng hơn từ tác phẩm này người ta thấy hiện lên bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất điển hình. Bà Tú tên tật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân dòng dõi nho gia “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”. Bà nhẫn nại, cam phận làm người vợ thảo hiền, làm chỗ dựa tinh thần cho cuộc đời Tú Xương - một trí thức không gặp thời, long đong trên con đường sự nghiệp. Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong thơ của Tú Xương. Những bài thơ của ông viết về vợ thường mang nhiều sắc điệu: có khi là lời thủ thỉ tâm tình, lời bông đùa hóm hỉnh, cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng bao trùm tất cả vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm ơn chân thành. Nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến không gian gia đình, ở đó người vợ có vai trò quan trọng trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của chồng. Bà Tú cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào buổi Tây, Tàu nhốn nháo, không còn đâu cái cảnh thơ mộng “bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”, bà Tú cũng phải cuốn theo guồng quay của cuộc đời phiền tạp, dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua : “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng” Chân dung của bà Tú hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian công việc. “Quanh năm” không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh không có hồi kết thúc. Không gian “mom sông” vừa có giá trị tả thực - là doi đất nhô hẳn ra lòng sông, vừa gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh, chông chênh. Bà Tú phải hằng ngày xuất gia chường mặt ra với đời bởi trên vai bà là cả một gánh nặng gia đình: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Biết bao hàm ý toát lên trong cụm từ “nuôi đủ”, nó vừa thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm chỉ sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị “năm con với một chồng”. Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một thứ con trong gánh nặng của vợ. Ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con cò: “Con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non” Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông” Nhà thơ vừa tiếp thu, vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc đáo. Với việc dùng từ “thân cò”, tác giả vừa thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm nổi rõ số kiếp lận đận của bà Tú. Trong cấu trúc cú pháp của câu thơ, biện pháp đảo ngữ đã được sử dụng nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm nhọc nhằn trong công việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh “đò đông” thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu sinh thì từ láy “eo sèo” đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hằng ngày mà bà Tú phải chịu đựng. Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương chịu khó, bà Tú trong “Thương vợ” của Tú Xương còn là con người bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của mình. Hóa thân vào nhân vật bà Tú, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước gia cảnh. Hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng nổi bật hơn. Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần, hai câu kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi miềm chất chứa: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không” “Thói đời” ở đây phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người chồng hờ hững? để rồi người phụ nữ phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi dằn vặt, thái độ chân thành tự trách mình của nhà thơ đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa ngay trong chính gia đình của mình. Có thể nói với “Thương vợ”, Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền. BÀI MẪU SỐ 2: Trần Tế Xương còn được gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định. Bản thân ông trên con đường hoa cử lại không thành đạt mà chỉ đạt đến bậc Tú tài. Cá tính của ông thì đầy góc cạnh, không chịu gò mình. Về sự nghiệp sáng tác, ông có trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ nôm gồm hai mảng trào phúng và trữ tình. Trong đó tác phẩm "Thương vợ" của ông thuộc đề tài nói về người vợ. Đây là một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại, và đó cũng có thể là điều minh chứng cho tình yêu thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương với vợ của mình. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối, được chia làm bốn phần: đề - thực - luận - kết. phần đầu là hình ảnh của bà Tú dưới cái nhìn của ông Tú. "Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng" Công việc của bà Tú là buôn bán nhưng không phải ở trong chợ mà là ở mom sông, là một nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian mà bà Tú phải làm là quanh năm thời điểm này cho ta thấy công việc của bà phải làm là một công việc liên tục lặp lại khép kín không có thời gian để bà nghỉ ngơi. Câu thứ hai khi đọc người đọc có thể cảm nhận phong cách viết thơ tự trào hóm hỉnh của Tú Xương. Ông không chỉ kể ra rằng bà Tú đã phải nuôi đủ con và chồng cả đủ ăn, đủ mặc, đủ tiêu xài cho những thói chơi tao nhã của nhà nho như Tế Xương. Ông còn kể rất tỉ mỉ 'năm con', 'một chồng' và rồi còn tự tách hạ một mình mình đứng dưới cuối câu tưởng chừng đang tự cho mọi người biết ông như một kẻ ăn bám lấy vợ và cũng cần đến sự chăm lo của vợ giống các con mình. Thật đáng cười cho một nhà nho bám vợ như ông. "Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông" Ở đây ta có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ dùng trong thân cò, một hình ảnh hay được đùng để ví von với người phụ nữ Việt có số phận cực khổ. Trong câu thơ thứ ba tác giả đã đảo ngược từ lặn lội đứng trước danh từ chủ thể thân cò kết hợp với cụm từ quãng vắng, ngoài ra có thể để ý ta sẽ thấy một sự đối lập ở hai câu ba và bốn giữa 'lặn lội' và 'eo sèo'; 'khi quãng vắng' - 'buổi đò đông' cho thấy nỗi vất vả một mình của bà Tú vừa phải gánh vác công việc để kiếm tiền đảm bảo một cuộc sống vừa đủ lại vừa phải lo toan việc gia đình. Bốn câu thơ đầu nói nên cuộc sống bấp bênh của bà Tú nhưng dù vậy bà vẫn chăm lo chu đáo cho gia đình. Nhà thơ thể hiện sự thán phục hình ảnh người phụ nữ tảo tần, nhỏ bé, tiếp tục cực tả nỗi vất vả đơn chiếc nhưng đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là vô tích sự, làm khổ vợ con. "Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công" Ở hai câu năm và sáu đều sử dụng các thành ngữ dân gian như 'một duyên hai nợ' ; 'năm nắng mười mưa' là những câu chữ nói nên sỗ phận cực khổ của một con người. Thành ngữ ở câu năm phiếm chỉ duyên chỉ có một mà nợ đến những hai, gánh nặng thì nhiều mà hạnh phúc và sự may mắn thì lại ít ỏi. Câu sáu với cách kết hợp từ tăng tiến ẩn dụ cho nỗi vất vả nhọc nhằn cùng với nghệ thuật đối 'năm náng mười mưa' với 'dám quản công' thể hiện sự hisinh trầm lặng của bà Tú. Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh người vợ không chỉ vất vả đảm đang nhẫn nại mà còn hi sinh âm thầm. Từ những câu thơ trên đã khắc họa thành công Chân dung bà Tú điển hình cho người phụ nữ Viêt Nam, tảo tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ đến đây không chỉ thương xót, mà còn thương cảm thấm thía. Cuối cùng là hình ảnh của chính Tế Xương qua lời trần thuật về bà Tú. "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không" Hai câu cuối Tế Xương đã tự chửi thói đời sinh ra loại người như ông. Về phần này ông muốn ám chỉ mắng cả những người giống ông trong xã hội thời bấy giờ. Dù là chồng nhưng lại chẳng giúp gì được cho gia đình mà lại còn làm vợ khổ thêm. Mặc dù yêu vợ nhưng lại không thể đỡ đần lo toan giùm vợ dù chỉ một phần nhỏ công việc chỉ vì cái phép tắc lễn giáo đối với những nhà nho thời phong kiến, buộc bà Tú phải chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời. Nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niểm yêu thương, trân trọng của chồng. "Thương vợ" là một trong nhưng bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú, một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của Tú Xương

ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2