intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cảng biển động lực của sự phát triển kinh tế miền trung

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

77
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Biển có một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế, là cánh cửa để mở ra thế giới của các quốc gia. Miền Trung là một vùng đất giàu tiềm năng và lợi thế, là vùng duy nhất của Việt Nam mà tất cả các tỉnh đều giáp với biển Đông. Miền Trung có đầy đủ các yếu tố để phát triển một nền kinh tế biển hoàn chỉnh, đặc biệt là kinh tế cảng. Hiện tại, miền Trung có 17 cảng biển, trong đó có 3 hải cảng tầm quốc gia là Đà Nẵng, Quy Nhơn và Nha Trang. Các cảng biển miền Trung có nhiều tiềm năng để phát triển, chúng đóng vai trò là cửa mở để thu hút đầu tư. Vì vậy, cảng biển giữ vai trò động lực trong phát triển kinh tế miền Trung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cảng biển động lực của sự phát triển kinh tế miền trung

52(4): 13 - 18<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 4 - 2009<br /> <br /> CẢNG BIỂN - ĐỘNG LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ MIỀN TRUNG<br /> Lê Tiến Dũng (Nhà xuất bản - Đại học Thái Nguyên)<br /> Nguyễn Thị Hằng (Khoa Công nghệ thông tin - Đại học Thái Nguyên)<br /> Tóm tắt<br /> Biển có một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế, là cánh cửa để mở ra thế giới của các quốc<br /> gia. Miền Trung là một vùng đất giàu tiềm năng và lợi thế, là vùng duy nhất của Việt Nam mà tất cả các tỉnh đều<br /> giáp với biển Đông. Miền Trung có đầy đủ các yếu tố để phát triển một nền kinh tế biển hoàn chỉnh, đặc biệt là<br /> kinh tế cảng. Hiện tại, miền Trung có 17 cảng biển, trong đó có 3 hải cảng tầm quốc gia là Đà Nẵng, Quy Nhơn và<br /> Nha Trang. Các cảng biển miền Trung có nhiều tiềm năng để phát triển, chúng đóng vai trò là cửa mở để thu hút<br /> đầu tư. Vì vậy, cảng biển giữ vai trò động lực trong phát triển kinh tế miền Trung.<br /> <br /> I. Đặt vấn đề<br /> Ngày nay, khi nền kinh tế đất nước ngày càng<br /> hội nhập sâu với thế giới thì bài toán phát triển<br /> cảng biển càng trở nên cấp bách bởi cảng biển có<br /> một vai trò đặc biệt trong phát triển kinh tế. Trong<br /> chiến lược phát triển của mình, nhiều quốc gia trên<br /> thế giới đã xác định thế kỷ 21 là kỷ nguyên của đại<br /> dương, hướng mạnh sự phát triển ra biển đảo, đặc<br /> biệt chú trọng đến việc khai thác biển (kể cả những<br /> quốc gia không có biển).<br /> Miền Trung được coi là “mặt tiền” của Việt<br /> Nam, của Đông Nam Á và cả châu Á - Thái Bình<br /> Dương. Đây là vùng duy nhất của Việt Nam có tất<br /> cả các tỉnh đều giáp với biển Đông. Một điều khó<br /> khăn đối với vùng đất này là địa hình kéo dài và<br /> hẹp ngang nên rất bất lợi trong việc phát triển<br /> không gian kinh tế trên quy mô rộng. Mặt khác,<br /> đây là vùng phải gánh chịu nhiều thiên tai hơn so<br /> với hai đầu đất nước. Nhưng bù lại, miền Trung<br /> được ban tặng cho một nguồn tài nguyên vô cùng<br /> quý giá là Biển. Biển miền Trung rất giàu tiềm<br /> năng và có nhiều lợi thế. Vì thế, có thể coi nền<br /> kinh tế miền Trung thực chất là kinh tế biển, do<br /> vậy, triển vọng phát triển là vô cùng lớn. Nhưng<br /> Miền Trung lại tương đối nghèo nàn so với hai đầu<br /> đất nước. Không ít người đã lặng lẽ tiến hành<br /> những chuyến khảo sát dọc ven biển miền Trung<br /> với một câu hỏi day dứt: miền Trung sẽ còn loay<br /> hoay với cái nghèo đến bao giờ? Không bó tay<br /> trước những rào cản mang tính tự nhiên, miền<br /> Trung miệt mài đi tìm giải pháp cho việc mở cảng<br /> biển để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế. Sự<br /> ra đời của các cảng biển, trong đó có các cảng<br /> nước sâu là một trong những việc làm thiết yếu<br /> <br /> đầu tiên để vực dậy nền kinh tế của miền đất đầy<br /> tiềm năng này.<br /> II. Điều kiện phát triển kinh tế cảng biển miền<br /> Trung<br /> Miền Trung là một vùng đất giàu tiềm năng và<br /> lợi thế, có đầy đủ các yếu tố để phát triển một nền<br /> kinh tế biển hoàn chỉnh, đặc biệt là kinh tế cảng.<br /> Vùng đất này sở hữu 1.172km bờ biển và có lợi<br /> thế đặc biệt về vị trí địa lý. Miền Trung không chỉ<br /> nằm ở giữa nước Việt Nam mà còn ở vị trí trung<br /> tâm các trục giao lưu quốc tế của các nước<br /> ASEAN. Đây là phần đất vươn ra biển Đông xa<br /> nhất của nước ta; do đó các hải cảng của miền<br /> Trung rất gần với đường hàng hải quốc tế, nối khu<br /> vực Đông Bắc Á với Đông Nam Á và các châu lục<br /> khác. Phía Tây của miền Trung có nhiều cửa khẩu<br /> giao thương với các nước nằm sâu trong lục địa<br /> châu Á như Lào, Myanmar, vùng đông bắc Thái<br /> Lan và đông bắc Campuchia. Do vậy, Hội nghị lần<br /> thứ 8 của Bộ trưởng các nước tiểu vùng sông Mê<br /> kông họp tại Manila (tháng 10-1998) đã đưa ra<br /> khái niệm “Hành lang kinh tế Đông Tây” và quyết<br /> định chọn dự án xây dựng tuyến đường bộ từ<br /> Mukdahan (Thái Lan) qua Nam Lào đến Đà Nẵng<br /> làm dự án đầu tiên trong hợp tác tiểu vùng. Năm<br /> 2000, Myanmar trở thành thành viên ASEAN, qui<br /> mô dự án được mở rộng và khu vực cảng<br /> Maưlamyine gần thủ đô Yangon được chọn làm<br /> cửa ra phía Tây của hành lang. Như vậy, Hành<br /> lang kinh tế Đông Tây có tổng chiều dài 1.450km,<br /> đi qua vùng Nam Myanmar, Bắc Thái Lan, Nam<br /> Lào và ba tỉnh miền Trung Việt Nam. Cửa khẩu<br /> Lao Bảo ở phía tây tỉnh Quảng Trị hiện đang hoạt<br /> động rất nhộn nhịp. Một số cửa khẩu biên giới<br /> khác ở tỉnh Quảng Nam,.. đang được tiếp tục mở<br /> <br /> 1<br /> <br /> 52(4): 13 - 18<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> ra, đã và đang hình thành các tuyến giao thông<br /> đường bộ nối các hải cảng lớn trên vùng duyên hải<br /> miền Trung với các khu vực trong nội địa châu Á.<br /> Vì thế, Miền Trung được coi là cửa ngõ và cầu nối<br /> cho Myanmar, Đông Bắc Thái Lan và Lào qua<br /> Hành lang kinh tế Đông – Tây để kết nối với các<br /> trung tâm kinh tế năng động nhất châu Á là Đông<br /> Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) và<br /> vùng Viễn Đông với vai trò làm dịch vụ cảng, hậu<br /> cần. Hàng hoá từ khu vực trên qua các cảng miền<br /> Trung sẽ không cần qua eo biển Malacca quá đông<br /> đúc và cảng Bangkok đã quá tải, có thể giảm một<br /> ngày đêm vận tải, giảm bớt chi phí về thời gian và<br /> tiền bạc. Rõ ràng phải gắn kinh tế miền Trung với<br /> hai vùng rộng lớn Đông Bắc Á và Tiểu vùng Mê<br /> Kông để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế<br /> miền Trung. Trong thế kỷ 21, Đông Bắc Á sẽ trở<br /> thành trung tâm tăng trưởng của thế giới. Việc<br /> miền Trung trở thành mắt xích nối giữa Đông Nam<br /> Á và Bắc Á sẽ thay đổi vị thế của miền Trung<br /> không chỉ đối với nước ta mà còn trở thành một<br /> khâu quan trọng cho cả khu vực. Nhìn rộng ra,<br /> mức độ hội nhập và toàn cầu hoá của miền Trung<br /> sẽ nhanh chóng được nâng cao và vượt xa mức<br /> bình quân của cả nước. Vị trí đặc biệt này có thể<br /> giúp miền Trung vươn lên đảm nhiệm vai trò trung<br /> tâm thương mại và chế xuất của khu vực Đông<br /> Nam châu Á, nơi giao lưu của các nước vùng nội<br /> địa châu Á với thế giới bên ngoài.<br /> Mặt khác, dọc theo ven biển miền Trung còn<br /> có nhiều vịnh nước sâu, nằm cận kề với đường<br /> hàng hải quốc tế, rất thuận lợi cho việc xây dựng<br /> các cảng nước sâu trong hệ thống cảng biển của cả<br /> nước. Khu vực này đã hình thành hệ thống đô thị<br /> và khu công nghiệp phân bố khá đều trên lãnh thổ.<br /> So với các hải cảng lớn ở miền Nam và miền Bắc,<br /> hải cảng miền Trung không có ưu thế về cơ sở hạ<br /> tầng kĩ thuật nhưng có những ưu thế do thiên<br /> nhiên tạo ra như mực nước sâu, độ kín gió và đặc<br /> biệt là rất gần đường hàng hải quốc tế.<br /> III. Hệ thống các cảng biển miền Trung<br /> Hiện tại, miền Trung có 17 cảng biển, trong đó<br /> có một số hải cảng tầm cỡ quốc gia là Đà Nẵng,<br /> Quy Nhơn, Nha Trang… Các hải cảng này đang<br /> phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại và du lịch<br /> của các tỉnh miền Trung và nước CHDCND Lào với<br /> mức độ hoạt động ngày càng tăng. Ngoài các hải<br /> cảng quốc gia nói trên, hầu như tỉnh duyên hải miền<br /> Trung nào cũng có hải cảng riêng phục vụ cho các<br /> <br /> 4 - 2009<br /> <br /> hoạt động kinh tế của địa phương. Hiện tại, Chính<br /> phủ Việt Nam đã chủ trương cho xây dựng một số<br /> hải cảng quốc tế lớn, nhằm tạo điều kiện phát huy<br /> các lợi thế so sánh về vị trí địa lí và tài nguyên biển<br /> của miền Trung. Đó là Dung Quất - Quảng Ngãi<br /> (gắn với nhà máy lọc dầu đầu tiên ở Việt Nam ),<br /> cảng Chân Mây thuộc Thừa Thiên - Huế (gắn với<br /> khu công nghiệp và dịch vụ du lịch Chân Mây)…<br /> Sở dĩ miền Trung cần nhiều cảng biển, trong<br /> đó có các cảng nước sâu như thế, bởi vì hàng hóa<br /> qua các cảng miền Trung là hàng hóa quốc tế,<br /> hàng trung chuyển, không phải hàng khai thác tại<br /> chỗ. Một lợi thế nữa là trước mặt các tỉnh duyên hải<br /> miền Trung là đại dương nối liền Việt Nam với Nhật<br /> Bản, Hồng Kông, Singapore, Philippines... Còn sau<br /> lưng là một kênh đào trên bộ để dẫn đến Lào,<br /> Myanmar, Ấn Độ, Pakistan. Do đó, việc phát triển<br /> hải cảng sẽ đem lại lợi nhuận lớn lao cho nền kinh tế.<br /> Trong các cảng của miền Trung, Vân Phong<br /> được đánh giá là cảng có nhiều lợi thế. Vịnh có độ<br /> nước sâu hiếm có (từ 20 - 40m), là nơi kín sóng<br /> gió, không bị bồi lấp bởi sông biển, cách hải phận<br /> quốc tế chỉ 14km, gần ngã ba các tuyến hàng hải<br /> quốc tế. Vì vậy, Vân Phong được các chuyên gia<br /> hàng hải nhìn nhận là "nơi duy nhất của Việt Nam<br /> có đủ điều kiện cạnh tranh mạnh trong hệ thống<br /> dịch vụ cảng trung chuyển container quốc tế và là<br /> nơi duy nhất ở Việt Nam có thể biến ước mơ về<br /> một cảng nước sâu thành hiện thực”. Không đâu<br /> khác, Vân Phong sẽ là nơi mở ra cực phát triển<br /> mới của Việt Nam.<br /> Sự phát triển của cảng biển miền Trung trong<br /> tương lai<br /> Theo định hướng phát triển hệ thống cảng biển<br /> miền Trung thì đến năm 2010, hệ thống các cảng ở<br /> đây phải đạt được con số sản lượng hàng hóa<br /> thông qua là từ 40-50 triệu tấn/năm và đến năm<br /> 2020 là 90-110 triệu tấn/năm. Trong đó, "nòng<br /> cốt" vẫn là các cảng Chân Mây, Đà Nẵng, Dung<br /> Quất, Nhơn Hội.<br /> Với tốc độ phát triển như hiện nay, hệ thống<br /> cảng biển khu vực miền Trung hoàn toàn có thể<br /> đảm bảo được năng lực vận tải đó. Trong đó, cảng<br /> Nghi Sơn (trước mắt phục vụ chủ yếu xuất xi<br /> măng, công suất 2 triệu tấn/năm), đến năm 2010<br /> phát triển thành cảng tổng hợp - container công<br /> suất lên 8-10 triệu tấn/năm, có thể đón tàu đến<br /> 30.000DWT; cảng Vũng Áng (Hà Tĩnh) xây dựng<br /> qui mô 10 triệu tấn/năm, gắn với qui hoạch xây<br /> <br /> 14<br /> <br /> 52(4): 13 - 18<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> dựng cơ sở lọc hóa dầu và luyện thép trong khu<br /> vực, về lâu dài là đầu ra cho tuyến đường xuyên Á<br /> phía Bắc. Các cảng Chân Mây (TT-Huế) - Liên<br /> Chiểu - Đà Nẵng sẽ qui hoạch thành cụm cảng<br /> hiện đại, trở thành thương cảng quốc tế lớn ở khu<br /> vực miền Trung, có tổng công suất 12- 15 triệu<br /> tấn/năm. Cảng này vừa có chức năng là cửa mở<br /> lớn cho các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ và Tây<br /> nguyên, vừa tiếp nhận hàng hoá quá cảnh của<br /> tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây (Nam Lào và<br /> Đông Bắc Thái lan). Cảng Chân Mây có thể đón<br /> tàu đến 50.000DWT và tàu khách du lịch cỡ lớn,<br /> công suất cảng đạt 6 - 7 triệu tấn/năm vào năm<br /> 2020. Dung Quất đầu tư xây dựng thành cụm cảng<br /> lớn, qui mô 20 triệu tấn/năm vào 2010 và 45 - 50<br /> triệu tấn/năm vào 2020, phục vụ công nghiệp lọc<br /> hoá dầu, công nghiệp luyện kim và các khu công<br /> nghiệp khác trong vùng. Cảng Qui Nhơn sẽ hoàn<br /> thiện bến cảng đón được tàu trọng tải 30.000DWT,<br /> nâng cấp cầu cảng đạt công suất thông qua cảng<br /> khoảng hơn 4 triệu tấn năm 2010 và 15 triệu<br /> tấn/năm năm 2020. Cảng Nha Trang chuyên khai<br /> thác hàng sạch và vận tải hành khách đến 2015<br /> chuyển hoàn toàn thành cảng du lịch. Cảng Vân<br /> Phong (Khánh Hoà) hiện tại đã được ưu tiên đầu<br /> tư thành cảng trung chuyển container quốc tế, các<br /> dự án công nghiệp công nghệ cao, thành phố thông<br /> minh - đô thị bền vững. Sắp tới, đây sẽ là cảng<br /> trung chuyển container quốc tế, đồng thời là cảng<br /> đầu mối hàng hoá xuất nhập khẩu trong nước, giữ<br /> vai trò động lực trong việc phát triển Vịnh Vân<br /> Phong thành khu kinh tế tổng hợp đa ngành, bao<br /> gồm cảng trung chuyển quốc tế, công nghiệp, dịch<br /> vụ, du lịch, nuôi trồng thuỷ sản… trong đó cảng<br /> trung chuyển quốc tế giữ vai trò chủ đạo… Ngoài<br /> ra, với mục đích biến Duyên hải Nam Trung Bộ<br /> đến năm 2010 thành vùng phát triển các ngành<br /> kinh tế quan trọng gắn với biển, một loạt dự án cải<br /> thiện cơ sở hạ tầng cho vùng này sẽ được thực<br /> hiện trong tương lai như: nâng cấp cảng Vũng Rô<br /> (Phú Yên), xây mới cảng trung chuyển quốc tế<br /> Đầm Môn (Khánh Hòa)…<br /> 4.Vai trò động lực của cảng biển trong phát<br /> triển kinh tế miền Trung<br /> Trên phạm vi thế giới, xu hướng toàn cầu hóa,<br /> hội nhập khu vực đang trở thành một xu thế tất yếu<br /> mang tính thời đại. Bất kỳ nền kinh tế nào, nếu<br /> không vận hành theo xu thế này thì chắc chắn sớm<br /> muộn cũng bị đào thải ra khỏi sự phát triển. Đối<br /> <br /> 4 - 2009<br /> <br /> với lĩnh vực vận tải, do chi phí vận tải rẻ, khối<br /> lượng vận tải lớn, tuyến kết nối trên phạm vi toàn<br /> thế giới,... nên vận tải biển trở thành một cầu nối<br /> quan trọng trong hợp tác song phương và đa<br /> phương. Hệ thống cảng biển ngoài vai trò xếp dỡ<br /> hàng hóa, còn thực hiện hoạt động chuyển tải và<br /> logistic tạo giá trị gia tăng với một khu vực hay cả<br /> một vùng rộng lớn. Trên con đường hội nhập,<br /> miền Trung đã được đặt đúng vị trí của nó, đó là<br /> mặt tiền của đất nước để bước ra thế giới bên<br /> ngoài bằng hệ thống cảng biển làm nòng cốt cho<br /> công cuộc phát triển. Trong điều kiện hội nhập<br /> kinh tế thế giới, toàn cầu hóa sản phẩm đã tạo cơ<br /> hội cho cảng biển trở thành nhân tố làm tăng giá<br /> trị hàng hóa. Việc Phát triển vận tải biển sẽ thúc<br /> đẩy quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá, là động<br /> lực thúc đẩy phát triển công nghiệp. Có thể nói, hệ<br /> thống cảng biển miền Trung đóng vai trò nòng cốt<br /> trong việc hình thành vùng trọng điểm kinh tế<br /> miền Trung cũng như sự hình thành các khu kinh<br /> tế của khu vực này.<br /> Tác động của tương hỗ của hệ thống cảng<br /> biển với sự phát triển các khu công nghiệp và<br /> sự gắn kết giữa các địa phương<br /> Một trong những điều kiện cơ bản để một cảng<br /> hay một khu cảng hoạt động là phải gần nơi phát<br /> sinh nguồn hàng hay gần những khu vực thu hút<br /> hàng hóa. Ngược lại, để giảm chi phí vận tải trên<br /> bộ, qua đó giảm giá thành sản phẩm thì các khu<br /> công nghiệp, khu chế xuất và kèm theo nó là các<br /> trung tâm thương mại tài chính, dịch vụ hàng hải,...<br /> cần được hình thành xung quanh hệ thống cảng.<br /> Hiện tại, ở các khu kinh tế dọc duyên hải miền Trung<br /> cũng như hệ thống cảng biển nước sâu và các dự án<br /> đầu tư cho đại công nghiệp hầu hết đã nhanh chóng<br /> được lấp kín. Rõ ràng một quy luật đang diễn ra tại<br /> các khu kinh tế miền Trung: có cảng biển nước sâu<br /> thì công nghiệp nặng phát triển rất nhanh và luôn đi<br /> trước một bước, sau đó mới kéo theo sự phát triển về<br /> công nghiệp nhẹ - thương mại và dịch vụ - du lịch.<br /> Việc xây dựng cảng biển có một tầm chiến lược<br /> hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã<br /> hội của miền Trung, tạo nên sự liên kết chặt chẽ<br /> giữa Việt Nam và các nước trong khu vực. Có thể<br /> xem đó là bước đi thích hợp trong chiến lược phát<br /> triển kinh tế - xã hội miền Trung để đuổi kịp sự<br /> phát triển của hai đầu đất nước, tạo nên xu thế phát<br /> <br /> 15<br /> <br /> 52(4): 13 - 18<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> triển ổn định trên toàn Việt Nam và thúc đẩy hội<br /> nhập có hiệu quả của nền kinh tế Việt Nam với thế<br /> giới bên ngoài. Có thể lấy cảng nước sâu Dung<br /> Quất làm ví dụ.Vịnh Dung Quất có lợi thế để phát<br /> triển cảng biển và các ngành kinh tế gắn với cảng.<br /> Vịnh Dung Quất có diện tích mặt nước hữu ích trên<br /> 4 km2, có độ sâu trung bình 10m đến 19m, nằm sát<br /> các tuyến hàng hải quan trọng nhất như: cách tuyến<br /> hàng hải quốc tế 90km, cách các tuyến vận tải nội<br /> thuỷ khoảng 30km và là nơi hội tụ đủ các điều kiện<br /> để hình thành cảng biển nước sâu đa chức năng<br /> gồm: cảng chuyên dùng dầu khí và cảng chuyên<br /> dụng cho các ngành công nghiệp nặng (cảng tổng<br /> hợp và cảng trung chuyển quốc tế). Vịnh này cũng<br /> là nơi thuận lợi để hình thành Khu bảo thuế và các<br /> ngành dịch vụ cảng biển. Đây là một trong những<br /> yếu tố có ý nghĩa quyết định để mở cửa thu hút các<br /> nhà đầu tư đến với Khu kinh tế Dung Quất.<br /> Sự ra đời của cảng biển nước sâu và khu công<br /> nghiệp Dung Quất đã đặt nền móng cho sự hình<br /> thành vùng trọng điểm kinh tế miền Trung kéo dài<br /> từ Liên Chiểu (Đà Nẵng) đến Dung Quất (Quảng<br /> Ngãi), sự kiện này đã dẫn đến hình thành khu công<br /> nghiệp tổng hợp kéo dài từ Đà Nẵng đến Dung<br /> Quất theo hướng bố trí các ngành sản xuất, xuất<br /> nhập khẩu có khả năng cạnh tranh, đồng thời hình<br /> thành trục hành lang Đông - Tây thông qua đường<br /> 24 và 14. Sự ra đời của cảng biển nước sâu và khu<br /> công nghiệp thương mại dịch vụ Chân Mây dẫn<br /> đến mở rộng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung<br /> ra đến Thừa Thiên - Huế, tạo điều kiện cho sự hội<br /> nhập giữa Huế - Đà Nẵng và sẽ dẫn đến sự ra đời<br /> thành phố sinh đôi. Đường 9 sẽ tạo nên hành lang<br /> kinh tế Đông - Tây quan trọng nối vùng trọng<br /> điểm kinh tế miền Trung với các nước tiểu vùng<br /> sông Mêkông. Sự ra đời của cảng biển nước sâu và<br /> khu công nghiệp - dịch vụ Nhơn Hội đã dẫn đến<br /> việc mở rộng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung<br /> về phía Nam đến Bình Định (đến đường 19). Trục<br /> kinh tế phát triển đô thị - công nghiệp - thương<br /> mại - du lịch - dịch vụ dọc duyên hải miền Trung<br /> kéo dài từ Chân Mây - Đà Nẵng - Chu Lai - Dung<br /> Quất - Nhơn Hội được hình thành. Đồng thời đóng<br /> vai trò cửa ngõ nối liền miền Trung Việt Nam với<br /> các nước tiểu vùng sông Mêkông, nối Việt Nam với<br /> các nước châu Á -Thái Bình Dương và thế giới. Như<br /> vậy, hệ thống cảng biển miền Trung, đặc biệt là các<br /> cảng nước sâu đã đóng vai trò tiên phong và nòng<br /> <br /> 4 - 2009<br /> <br /> cốt để hình thành vùng trọng điểm kinh tế miền<br /> Trung và hàng loạt các khu kinh tế đô thị dọc duyên<br /> hải để có thể thu hút đầu tư với quy mô lớn.<br /> Vai trò cửa mở để thu hút nhà đầu tư<br /> Theo quy hoạch chi tiết phát triển hệ thống<br /> cảng biển Việt Nam, từ nay đến năm 2010, Việt<br /> Nam sẽ cần khoảng 60.000 tỷ đồng cho việc xây<br /> dựng cảng biển. Trong đó, cụm cảng phía Bắc cần<br /> hơn 20.500 tỷ đồng, miền Trung hơn 14.000 tỷ<br /> đồng; phía Nam hơn 20.100 tỷ đồng và vùng Tây Nam là hơn 2.000 tỷ đồng. Nhìn lại toàn cục các<br /> dự án đầu tư vào các khu kinh tế - cảng biển miền<br /> Trung người ta dễ dàng nhận thấy từ thế mạnh<br /> cảng nước sâu của mình, lĩnh vực ưu tiên hấp dẫn<br /> các nhà đầu tư là công nghiệp nặng bao gồm công<br /> nghiệp năng lượng, công nghiệp luyện cán thép,<br /> công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp chế<br /> tạo máy cái, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu<br /> thủy. Đây là các ngành công nghiệp cực kỳ quan<br /> trọng cho xương sống công nghiệp hóa, hiện đại<br /> hóa đất nước. Số vốn thu hút đầu tư vào lĩnh vực<br /> này thông qua hệ thống cảng biển nước sâu ở miền<br /> Trung hiện có thể lên đến nhiều chục tỉ USD, đang<br /> diễn ra một cách rầm rộ và nóng bỏng trên khắp<br /> các tỉnh duyên hải miền Trung từ Thanh Hóa đến<br /> Bình Thuận.<br /> Từ khi cảng biển được chú trọng, một làn sóng<br /> đầu tư mới đang đổ vào miền Trung. Cụ thể, trong<br /> vòng 10 năm (từ 1988 đến 2008) các tỉnh miền<br /> Trung thu hút được 631 dự án, với tổng vốn trên<br /> 10 tỉ USD. Riêng năm 2007 và 2 tháng đầu năm<br /> 2008, khu vực này đã thu hút 154 dự án (cấp mới<br /> và tăng vốn), với tổng nguồn vốn đăng ký trên 5,3<br /> tỷ USD, chiếm hơn ½ vốn đầu tư cả giai đoạn<br /> 1988- 2006. Trong đó, cảng quốc tế Gemadept<br /> Dung Quất có quy mô lớn nhất miền Trung Trung<br /> bộ hiện nay với tổng vốn đầu tư 575 tỉ đồng. Đây<br /> là cảng nước sâu, có khả năng tiếp nhận tàu hàng<br /> bách hoá và tàu container trọng tải 30.000 tấn. Từ<br /> khi dự án cảng biển nước sâu và Khu Công nghiệp<br /> Dung Quất được hình thành (năm 1992), miền<br /> Trung đã và đang "dấy lên" một "làn sóng" đầu tư<br /> khá mạnh. Tính đến nay, đã có 22 khu công nghiệp<br /> (KCN) được triển khai xây dựng với tổng diện tích<br /> 3.880 ha và 9 khu kinh tế (KKT) được Thủ tướng<br /> Chính phủ ký Quyết định thành lập. Trong số 22<br /> KCN, có 9 KCN dự kiến sẽ thu hút khoảng 95-100<br /> <br /> 16<br /> <br /> 52(4): 13 - 18<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> triệu USD vốn đầu tư phát triển hạ tầng; 1,6-2 tỷ<br /> USD vốn đầu tư sản xuất công nghiệp.<br /> V. Một số hạn chế và giải pháp phát triển cảng<br /> biển miền Trung<br /> Có thể nói, việc quy hoạch hàng loạt cảng biển<br /> tại miền Trung có nhiều bất cập. Trong các cảng<br /> tổng hợp của miền Trung có lẽ chỉ có cảng Quy<br /> Nhơn và Đà Nẵng là tiệm cận tới mức độ hiệu quả,<br /> còn các cảng khác đều rơi vào tình trạng dư thừa<br /> công suất (các cảng miền Trung chỉ chiếm 13%<br /> khối lượng hàng hoá cả nước, đang ở tình trạng<br /> thiếu hàng hóa, chỉ sử dụng một phần công suất).<br /> Nếu ta đặt bút so sánh thì sẽ thấy, trong hệ thống<br /> cảng biển của nước ta, chỉ có Sài Gòn hay Bà Rịa Vũng Tàu mới là nơi có nhiều khả năng nhất để<br /> đón nhận tàu mẹ (mother feeders), và điều này đẩy<br /> các cảng biển miền Trung vào vị thế bất lợi về chi<br /> phí và cạnh tranh. Một điều nữa cần bàn đến đó là<br /> ở miền Trung hầu như tỉnh nào cũng có cảng,<br /> nhưng hầu hết là mang tính địa phương. Xét về<br /> hiệu quả kinh tế, chúng có vai trò nhất định đối<br /> với địa phương. Nhưng về mặt quy hoạch, liệu như<br /> vậy có phải là quá dàn trải và manh mún? Mặt<br /> khác, mật độ cảng biển ở đây phân bố chưa hợp lý,<br /> đầu tư còn manh mún và mang tính dàn trải, dẫn<br /> tới hiệu quả khai thác những năm qua chưa tương<br /> xứng với tiềm năng. Ngoài ra, đa số các cảng hiện<br /> nay đều là cảng nước nông nên các tàu container<br /> lớn không thể cập cảng để lấy hàng vận chuyển đi<br /> Hồng Kông, Đài Loan và Singapore để tiếp tục<br /> chuyển sang tàu lớn hơn, đi xa hơn.<br /> Miền Trung Việt Nam có nhiều cảng biển có<br /> tiềm năng và lợi thế lớn như Vân Phong (Khánh<br /> Hoà)... nhưng tiềm năng sẽ mãi mãi là tiềm năng<br /> khi không có những hành động cụ thể. Với vị trí<br /> đặc biệt quan trọng, cầu nối miền Trung có rất<br /> nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế. Nhưng cơ sở<br /> hạ tầng ở đây còn quá thiếu. Vì vậy, để hoàn thành<br /> các dự án phát triển hạ tầng cảng biển, tăng cường<br /> đầu tư mua sắm thêm nhiều trang thiết bị hiện đại<br /> để đẩy nhanh năng lực làm việc, miền Trung cần<br /> huy động tối đa nguồn vốn như vốn ngân sách, vốn<br /> vay ODA, vốn vay tín dụng, phát hành trái phiếu<br /> Chính phủ… Hiện tại, Chính phủ cũng có nhiều<br /> biện pháp như phát hành trái phiếu (giai đoạn 2003<br /> - 2010 và đang có kế hoạch phát hành Trái phiếu<br /> Chính phủ giai đoạn đến năm 2012). Bên cạnh đó,<br /> <br /> 4 - 2009<br /> <br /> nhiều nguồn lực tài chính cũng đang hướng về miền<br /> Trung. Tuy nhiên, việc còn lại vẫn là sự nỗ lực của<br /> chính miền Trung, có như vậy mới có thể phát triển<br /> miền ngang tầm với hai đầu đất nước.<br /> Mặt khác, muốn đạt được con số sản lượng<br /> hàng hóa thông qua là từ 40 - 50 triệu tấn/năm vào<br /> năm 2010 và đến năm 2020 là 90 - 110 triệu<br /> tấn/năm thì việc xây dựng hoàn thiện các trục giao<br /> thông đường bộ như quốc lộ 1A, đường Hồ Chí<br /> Minh và các trục ngang chiến lược kết nối Đông Tây qua các nước Lào, Campuchia như các tuyến<br /> quốc lộ 7, 8, 12, 9, 49, 14D, 14E, 24, 19, 25, 26,<br /> 27... cần phải được nâng cấp hoàn thiện trước năm<br /> 2010 và sau đó sẽ tiếp tục nâng cấp các tuyến còn<br /> lại. Dự án của Chính phủ về phát triển vùng kinh<br /> tế trọng điểm Trung Trung Bộ cũng xác định việc<br /> nâng cấp cơ sở hạ tầng là nhiệm vụ quan trọng<br /> nhất để thay đổi “diện mạo” khu vực này.<br /> Song song với quá trình đó, miền Trung cần<br /> cải tiến việc quản lý và khai thác cảng nhằm nâng<br /> cao năng lực cạnh tranh. Việc cải tiến đó được tập<br /> trung vào các lĩnh vực nâng cao năng lực của cán<br /> bộ thông qua việc phát triển nguồn nhân lực. Áp<br /> dụng công nghệ thông tin nhằm đảm bảo việc trao<br /> đổi thông tin qua lại một cách chính xác và nhanh<br /> chóng. Tiến hành các nghiên cứu phát triển và<br /> nâng cao năng lực cảng để đưa ra các khuyến nghị<br /> về phát triển, kinh doanh khai thác và quản lý cảng<br /> tối ưu. Có sự phối hợp, hợp tác hữu hiệu giữa các<br /> cảng miền Trung với các cảng trong nước và trong<br /> khu vực. Cải tiến thủ tục hành chính cảng và nâng<br /> cao chất lượng từng dịch vụ của cảng. Xây dựng<br /> các tiêu chuẩn cảng biển tối thiểu, đặc biệt là các<br /> cảng container. Ở đây tôi chỉ xin đi sâu vào giải<br /> pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của cảng<br /> biển miền Trung nói riêng và Việt Nam nói chung<br /> trước xu thế hội nhập và phát triển.<br /> Trong bối cảnh cảng biển khu vực phát triển<br /> nhanh chóng và cạnh tranh gay gắt, vấn đề đặt ra<br /> là các cảng biển Việt Nam phải làm gì để nâng cao<br /> năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu hội nhập<br /> kinh tế quốc tế và khu vực, góp phần vào việc đẩy<br /> mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất<br /> nước. Để làm được điều này, vấn đề khẩn thiết lúc<br /> này là thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch hệ<br /> thống cảng biển, tiến hành lập và quy hoạch thật<br /> chi tiết các nhóm cảng quan trọng như Dung Quất,<br /> <br /> 17<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2