intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cấy chỉ vào huyệt châm cứu: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:115

56
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nối tiếp phần 1 của cuốn "Cấy chỉ (Chôn chỉ Catgut vào huyệt châm cứu)" phần 2 tiếp tục trình bày các nội dung chính sau: Một số phương pháp tác động lên huyệt, một số dụng cụ cấy chỉ đã được sử dụng trong và ngoài nước, kỹ thuật cấy chỉ, bí quyết của cấy chỉ, phác đồ cấy chỉ, những loại bệnh chữa bằng cấy chỉ. Mời các bạn cùng tham khảo để nắm nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cấy chỉ vào huyệt châm cứu: Phần 2

  1. Phẩn bôn Một số phưtrng pháp tác aộng lên huyệt I. Sự PHÁT TRIỂN CỦA CHÂM cứu VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁC ĐỘNG LÊN HUYỆT Ngoài châm cứu ở thân thể (hào châm) (là hình thức châm cứu cổ điển và cơ bản nhất), các thầy thuôc cổ xưa dựa trên cơ sở học thuyết kinh lạc đã phát triển nhiều phương pháp tác động lên huyệt như bấm huyệt, xoa bóp, chích huyệt, gõ kim mai hoa, giác hút, vi châm V .V .. Từ những năm 50 của th ế kỷ này, dựa trên thành tựu của khoa học kỹ th u ật và y học hiện đại, nhiều hình thức châm cứu cổ điển được chỉnh lý và nâng cao. Hàng trăm huyệt mới được đề xuất, nhiều phương tiện tinh xảo, hiện đại đi sâu vào nghiên cứu kinh lạc, huyệt, cơ chế tác dụng của châm cứu góp phần nâng cao khả năng phòng, chữa bệnh của châm cứu. Châm cứu hiện đại được hỗ trợ bằng nhiều phương tiện: máy điện châm, máy dò loa tai, máy đo lượng thông điện trên da, máy cứu điện, máy châm lade, máy đo hô hâp trên huyệt, máy chẩn đoán hàn nhiệt, máy quan sát khí chuyển động trên kinh,... Một đỉnh cao của kết hợp y học hiện đại và y học cô truyền là châm tê. Châm tê là phương pháp vô cảm có tác dụng nâng cao ngưỡng đau giúp người bệnh qua các cuộc mổ an toàn, khác-với gây tê là cắt đứt dẫn truyền thần kinh và gây mê là làm liệt tạm thời các tế bào thần kinh. Ngoài ra còn có nhiều phương pháp mới tác động lên huyệt như : gài kim dưới da, châm xuyên, châm màng xương, giác hút, vi châm (châm loa tai, châm mặt, châm vùng mũi, châm bàn tay . châm khớp cô tay, cổ chân, châm vùng đầu,...), thuỷ châm (tiêm thuốc vào huyệt), ôn châm (kết hợp châm và cứu), cứu điện, phương pháp Akaben (Nhật Bản dò huyệt và chẩn trị bằng nhiệt vùng huyệt), phương pháp Yamamoto (Nhật Bản - chẩn đoán điểm đau), hàn châm (châm kim lạnh), lade châm, siêu âm châm, điện châm, từ châm, cấy chỉ (chôn chỉ, vùi chỉ cagut, lưu kích thích bằng đưa protein lạ vào huyệt,) V .V ..
  2. Ị|ế CÂY CHỈ - MỘT PHƯƠNG PHÁP CHÂM cứu ĐẶC BIỆT - Sự PHÁT TRIỂN CỦA KỸ THUẬT CHÂM c ứ u Cây chỉ (còn gọi là chôn chỉ, vùi chỉ, xuyên chỉ hay th ắ t buộc chỉ - như đã giới thiệu ở phần một) là đưa chỉ tự tiêu vào huyệt của kinh lạc để duy trì sự kích thích lâu dài mà tạo nên tác dụng như châm cứu. Như vậy, cây chỉ là một phương pháp châm cứu đặc biệt, là một bước tiến, sự phát triển của kỹ th u ật châm cứu và là sự kết hợp giữa y học cổ truyền với y học hiện đại. Bằng các thiết bị đo và kiểm nghiệm sinh hoá hiện đại, việc dùng chi catgut cấy vào h u y ệt vị có tác dụng làm tăn g protein, hydratcarbon và tăng chuyển hoá dinh dưỡng của cơ. Bên cạnh đó, nhờ sự kích thích ở huyệt vị mà cải thiện tuần hoàn máu cho vùng cây chỉ hoặc vùng bị liệt của bệnh nhân, đổng thời sợi cơ tăng nhiều tạo thành bó, đôi với sợi cơ lỏng lẻo thì kết chặt lại. Bên trong lớp cơ còn có thể phát sinh những sợi thần kinh mới. Nước ta bắt đầu ứng dụng phương pháp cây chỉ từ năm 1971. Các cơ sở đã áp dụng phương pháp này là Viện quân y 103, Viện quân y 108, Viện quân y 91 (quân khu 1), Bệnh viện y học dân tộc Hà Nội... Năm 1882, Viện châm cứu dưới sự chỉ đạo của giáo sư Nguyễn Tài Thu đã cấy chỉ cho những trẻ em bị bại liệt nằm nội trú. Những năm 1988 - 1989, Quân y Tổng cục chính trị đã cấy chỉ cho các thể bệnh như hen phế quản, chân tay tê bì, đau nhức, đau cứng khớp vai, các dạng liệt, các bệnh dị ứng, di chứng câm, điếc, lác, động kinh ở trẻ em và đều đạt được những kết quả nhất định. Trong thời gian (từ tháng 4-1990 đến nay) làm việc tại Hungary chúng tôi đã giới thiệu phương pháp cấy chỉ của Việt Nam ở các cơ sở y tế của bạn : Hội điều trị bằng các phương pháp tự nhiên, Viện châm cứu và phục hổi chức năng Yamamoto Budapest, Viện nuôi dưỡng và phục hồi chức năng trẻ em Debrecen và một sô' cơ sở điều trị khác.ễ. Tại các cơ sở này cấy chỉ của Việt Nam đã có sức thuyết phục cao do đã chữa được nhiều trường hợp bệnh hiểm nghèo. Vì vậy, ngoài bệnh nhân của Hungary còn có những^bệnh nhân từ các 173
  3. nước tới chữa bệnh bằng phương pháp này. Từ tháng 8-1998 hàng thậng chúng tôi còn sang Pháp chữa cho hàng chục trẻ em bị câm, điếc hoặc liệt 'bẩm sinh. Có thể nói Hungary là nước châu Âu đầu tiên ứng dụng cây chỉ. Ở đây cũng có nhiều tài liệu về châm cứu được xuất bản nhưng chủ yếu về lý thuyết thuần tuý mà chưa có tài liệu thực hành. Từ một biện pháp của châm cứu truyền thông, ngày nay cây chỉ đá được cải tiến, mở rộng phạm vi điều trị và trở thành một phương pháp châm cứu đặc biệt. Từ năm 1989, chúng tôi đã tự cải tiến một dụng cụ cấy chỉ đặc biệt nhờ vậy ít gây chảy máu, ít đau và vô trùng. Trong thực tế gặp những bệnh khó, nặng, việc cấy chỉ phải thực hiện trong thời gian dài; nhiều trường hợp còn thực hiện được với cả trẻ nhỏ (nhỏ nhất 1,5 tháng tuổi) và những bệnh nhân trong trạng thái hôn mê liệt hoàn toàn. Trong gần 20 năm qua, cả ờ trong và ngoài nước, chúng tôi đã điều trị cho hàng nghìn bệnh nhân bằng phương pháp cấy chỉ dùng dụng cụ cải tiến này và nhìn chung đã cho những kết quả khả quan. III. MỘT SỐ DỤNG CỤ CẤY CHỈ ĐÃ ĐƯỢC s ử DỤNG TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 1. Kim cong (kim khâu da ba cạnh trong phẫu thuật) Dụng cụ này được sử dụng từ khi bắt đầu ứng dụng cấy chỉ (1960), cách làm như th ắt buộc chỉ trong ngoại khoa, ứng dụng trong những bệnh hen phế quản, các vùng cơ bị teo. 174
  4. Đầu những năm 1980 cho đến 1984, chúng tôi đã dùng kim cong để chôn chỉ, luồn chỉ cầtgut qua hai huyệt ở hai bên cột sông đi dưới dây chằng liên gai cột sông. Dùng phương pháp này phải gây tê nằng novocain 1% trước khi cấy chỉ từ 5-10 phút và đặc biệt có hiệu quả cao trong điều trị hen phế quản, viêm phế quản. Nhược điểm : đau nhiều, khó làm cho trẻ em, không thể làm nhiều huyệt cho một bệnh nhân. Thường chỉ cấy chỉ từ 4-6 huyệt, do vậy khó có thể điều trị phối hợp nhiều bệnh cùng một lúc cho một bệnh nhân. Kim cong còn được áp dụng trong phương pháp th ắ t buộc chỉ cho các huyệt ở vùng cơ (nút buộc sô' 3 và nút buộc sô' 8) điều trị các trường hợp liệt, teo cơ. Phương pháp này được ứng dụng nhiều ở Trung Quốc trong những năm 1970Ể Nhược điểm của phương pháp thắt buộc chỉ là phải thực hiện trong phòng mổ như một ca tiểu phẫu thuật. Mặc dù hiệu quả tốt nhưng tiến hành phức tạp và khó có thể ứng dụng rộng rãi. Cần phải gây tê tại chỗ>cần phải rạch da để lộ cơ cần th ắ t buộc chỉ vùng cần cấy chỉ hoặc tủy sông . Phương pháp này chỉ dùng từ 1-3 vị trí khác nhau trên một bệnh nhân cho một lần điều trị. 2. Kim có thông nòng to : như kim chọc dò ổ bụng trong ngoại khoa, dài từ 7-10cm, đường kính 2mm. Kim này được-dùng ở Viện châm cứu từ những năm 1982. Ưu điểm hơn kim cong là có thể không cần phải gây tê trước khi cây chỉ. ứ n g dụng nhiều trong điều trị liệt, hen... Nhược điểm : gây đau nhiều cho bệnh nhân, có thể gây chảy máu nhiềuỗKhông thể làm quá 12 huyệt đôi với người lớn, 8-10 huyệt đối với trẻ em. Không thể dùng kim này cấy cho các trẻ nhỏ dưới 3,5 tuổi và những người quá già yếu vì gây đau, có bệnh nhân không chịu đựng nổi. Nguy hiểm khi cấy ở những vùng nhạy cảm như mặt, mắt, gần tai, họng vì dễ gây máu tụ. 175
  5. 3. Kim truyền máu của Pháp Trong quá trình điều trị chúng tôi đã dùng kim truyền máu của Pháp có cải tiến thông nòng để thay th ế cho kim chọc dò đã giới thiệu ở trên. Từ 1983 đến 1988, chúng tôi đã dùng kim này để điều trị cho bệnh nhân tại khoa AI Viện quân y 91 (QK1) và quân y Tổng cục chính trị. Kim cấy chỉ của BS. Oanh làm dựa theo mẫu kim truyền máu của Pháp 1982 ưu điểm : kim rấ t sắc, không quá to, ít gây đau cho bệnh nhân, ít chảy máu. Sử dụng cấy chỉ cho trẻ em từ một tuổi trở lên. Kim có phần đế cầm bảo đảm vô trùng hơn. Tay của người làm cấy chỉ không phải cầm vào thân kim như kim chọc dò. Nhược điểm : kim có độ dài hạn chế nên chưa tốt cho cấy chỉ các huyệt ở vùng mông, bệnh nhân quá béo. 176
  6. 4ẳKim cả i tiến Từ năm 1989 chúng tôi đã tự cải tiến một loại kim mới trên cơ sở kêt hợp các ưu điểm và hạn chế các nhược điểm của các loại kim hiện có ở trên. Đầu năm 1990 chúng tôi được Viện khớp và vật lý trị liệu Hungary mời sang hợp tác khoa học kỹ th u ật về y tế. Kim cải tiến được sử dụng và sản xuất tại Hungary với nhiều kích cỡ khác nhau. Đường kính : 0,5 - l,2mm Dài : 3-7cm. Để có thể dùng phù hợp với các đôi tượng bệnh nhân khác nhau, loại kim này được làm bằng hợp kim đặc biệt, chịu nhiệt tốt (hấp vô trùng 160 - 200 độ C). Kim cải tiến này khắc phục được những nhược điểm của các loại kim trước đây. Chúng tôi đã gửi đăng ký bản quyền đỘG quyền sáng chế năm 2000 ở Việt Nam. Kim sử dụng được cho nhiều loại chỉ khác nhau. Có thể điều trị được cho các cháụ rấ t nhỏ (trên 1 tháng tuổi), dùng được cho cả các vùng nhạy cảm như vùng mặt, quanh mắt, tai. Rất hiếm khi gây chảy m áuỗ ít gây đau và không phải gây tê trước, ngay cả với các cháu nhỏ. Cho phép một lần cáy chỉ có thể làm tôi đa đến 30 huyệt (trường hợp liệt toàn thân hay một người có nhiều bệnh). Một lần thông thường cấy chỉ 10 - 20 huyệt cho một bệnh nhân. Trẻ nhỏ 4-8 huyệt. Từ 1990 đến nay chúng tôi đã sử dụng kim này tại các cơ sở điều trị có ứng dụng cấy chỉ của Hungary, Pháp và Việt Nam. 177
  7. Kim cấy chỉ Lê Thúy Oanh 1992 sản xuất tại Hungary. Đã đăng ký bản quyền Quốc tế - Hiện vẫn đang sử dụng IV. KỸ THUẬT CẤY CHỈ A. Phương tiện cấy chỉ Một phòng vô trùng và những dụng cụ cần thiết sau đây : 1. Máy tiệt trùng dụng cụ. 2. Khay men, khay quả đậuử 3. Panh Kocher không mâu 4. Chỉ catgut 5. Lọ thủy tinh nút mài (dùng đựng chỉ catgut đá được cắt đoạn theo kích thước cần thiết). 6. Kim cấy chỉ : loại vừa với chỉ catgut. 7. Găng tay vô trùng. 8. Băng dính. 9. Bông tiệt trùng. 10. Cồn iod 1%, 5%. 11. Kéo cắt băng dínhỗ 12. Kéo vô trùng để cắt chỉ. 13. Nồi hấp hoặc xoong chuyên dụng để hấp, luộc dụng cụ (Tindan). 14. Giường y tế (loại di động được càng tốt), ga, khăn trả i bàn, khăn nhỏ 60x80cm. 15. Dung dịch sát khuẩn và một sô' thiết bị khác. 178
  8. B. Tập cấy chỉ Một điều quan trọng chúng ta nên nhớ : với các thầy thuốc chưa học kỷ th u ật châm cứu tuyệt đôi không nên học cây chỉ để tránh xảy ra những hậu quả đáng tiếc cho bệnh nhân. Thực tê cho thây chỉ những thầy thuốc chuyên khoa châm cứu đã thành thạo các thao tác mới có thể thực hành cây chỉ có hiệu quả. Tập cấy chỉ trên các gối vải nhỏ (mỏng và xốp nhiều lớp) hoặc gối bông. Tập đưa chỉ vào kim Tay trái cầm chắc đế kim bằng 3 ngón (ngón cái, trỏ, giữa). Kéo lùi thông nòng lại phía sau tương ứng với độ dài chỉ cần cấy. Tay phải dùng panh không mấu vô trùng gắp chỉ catgut đã được cắt theo kích thước qui định, đưa vào đầu kim và đẩy sâu vào trong thân kim. Chuyển kim sang tay phải cầm ở đế chú ý không cầm vào thân kim, đõc kim. An kim vào gối bông (huyệt) và đổng thời đẩy thông nòng xuống để đưa chỉ vào huyệt và rú t kim ra. Phải thực hành nhiều lần cho thành thạo tránh khi rú t kim ra chỉ cũng ra theo. c. Tiến hành cấy chỉ Chuẩn bị dụng cụ Kiểm tra phương tiện, dụng cụ, làm công tác vô trùng Chuẩn bị bệnh nhân Chuẩn bị tư tưởng cho bệnh nhân : giải thích cho bệnh nhân biết về phương pháp cây chỉ, tác dụng và những ưu điểm so với châm cứu. Yêu cầu bệnh nhân phôi hợp với thầy thuôc trong khi tiến hành cây chỉ. Cụ thể là : Phải được tắm gội sạch sẽ trước khi cấy chỉ. Tư th ế thông thường là nằm sấp và ngửa, phải thả lỏng người, thở đều cho mềm các cơ trong khi cấy chỉ (tránh đau do cơ co thắt). 179
  9. Sau khi cấy chỉ 1-2 ngày không được để nước dính vào vị trí vừa cấy chỉ (tránh nhiễm trùng). Sau 2 ngày bóc băng dính và tắm gội bình thường. Một - hai ngày sau khi cấy chỉ thậm chí 4-5 ngày sau đó có thể đau và cảm giác khó chịu ở một vài vị trí cấy chỉ. hiện tượng này là bình thường nghỉ ngơi sẽ hết. Nên nghỉ 2 ngày sau khi cấy chỉ và không được làm việc nặngề Nếu có gì bất thường phải đến gặp y, bác sĩ điều trị (đau, nhiễm trùng, chảy máu). D. Một sô thao tác cơ bản (xem ảnh minh hoạ phần đầu sách) 1. Châm kim kèm theo bấm huyệt Ngón tay cái hoặc trỏ của bàn tay trái bấm vào vùng huyệt cần châm, 3 ngón (1,2,3) là ngón cái, ngón trỏ và ngón đeo nhẫn tay phải cầm đế của kim đã luồn chỉ châm kim dọc theo móng tay qua da vào huyệt, đẩy thông nòng; rút kim ra và dán băng dính có đặt gạc vô trùng mỏng vào nơi vừa cấy chi (dùng kim dài 3-5cm). 2ẵ Cấy chỉ kim dài trên 5-7cm Dùng ngón (1,2) cái và trỏ giữ đế kim, ngón 3 (đeo nhẫn) đỡ thân kim châm kim nhanh qua da sâu chừng 2mm sau đó đẩy sâu kim tuỳ inục đích điều trị. Đẩy thông nòng và rú t kim (thường châm vùng mông, đùi, bụng). 3. Cấy chỉ kết hợp vói cảng da Dùng ngón cái và trỏ (1,2) của tay trái căng da vùng huyệt, tay phải cầm kim xuyên sâu vào huyệt. Dùng cách này trong trường hợp bệnh nhân là người già, da nhăn nheo, vùng có nhiều nếp gấp da, vùng m ặt để giảm đau cho bệnh nhân. 4. Kỹ th u ậ t bổ tả Bổ tả trong cấy chỉ khác với bổ tả trong châm cứu. Chúng ta không vê kim mà cũng không rung kim. Tác dụng bổ tả trong cây chỉ hầu như phụ thuộc vào hướng đặt chỉ (hướng kim) và hơi thở, cũng như vào việc chọn huyệt. Sau khi chẩn đoán bệnh chính xác; xác định bệnh qua các huyệt chẩn đoán với năm chức năng chính : hấp thu, tiết xuâ't, tàng trử, phát động, phát nhiệt của các tạng phủ. 180
  10. Theo hơi thở Bô : bệnh nhân thở ra châm kim vào, khi hít vào rú t kim ra. Tả : bệnh nhân hít vào châm kim, thở ra rú t kim ra. Bình bổ bình tả như châm cứu. 5. Hướng kim, độ sâu của kim và độ dài của chỉ Trong cấy chỉ ngoài hướng và độ sâu của kim thì vị trí đặt chỉ và độ dài của chỉ cũng T ấ t quan trọng. Tủy vị trí của huyệt, độ dài của chỉ tử 0,5-3cm, trung bình là lcm. 6. Rút kim Tay phải cầm chắc vành kim và rú t kim ra. 7. Những điểm cần chú ý Khi cấy những vùng như hõm cổ, ngực, quanh mắt, quanh tai phải hết sức chú ý vì chỉ là một dị vật phải được đưa vào vị trí thật chính xác. Sai vị trí có thể : gây tắc mạnh (nếu vào mạch máu) với các huyệt thuộc kinh phế vùng cổ tay. gây tràn khí phổi (các huyệt vùng lưng trên), gây liệt mặt, cứng hàm (huyệt ế phong X-17). bại chân (huyệt vùng mông). 8. Xử trí và đề phòng tai biến khi cấy chỉ Giông như châm cứu - với các thầy thuốc thành thạo râ't hiếm khi xảy ra tai biến. Tuy vậy chúng ta củng cần biết cách đề phòng và xử trí tai biến. Cần chú ý : Muốn hạn chế tai biến, công tác chuẩn bị bệnh nhân phải th ật tốt đặc biệt là những bệnh nhân mới cấy chỉ lần đầu. Với bệnh nhân có bệnh tim mạch, huyết áp... nhất là vói các trẻ nhỏ đã biết nó và hiểu (trên 3 tuổi) giải thích rõ cảm giác đau khi châm qua da, khuyên họ thật bình tĩnh, thở đều và sâu tránh co thắt cơ trong khi châm. Trước khi cấy chỉ không ăn quá no hay để quá đói. Với bệnh nhân quá nhạy cảm, yếu mệt động viên và châm kim th ật nhẹ nhàng, sô' lượng huyệt cấy chỉ ít và tăng dần cho các lần cay chỉ sau. 181
  11. V ựng ch âm Là hiện tượng bệnh nhân vã mồ hôi, chóng m ặt hoa mắt, choáng váng, mặt xanh tái, nhịp tim nhanh... có thể do quá căng thăng, do đói, mệt trước và trong khi cấy chỉ. Xử trí : rú t kim cho bệnh nhân uống một cốc nước đường ấm (có thể là nước hoa quả), đặt bệnh nhân nằm xuống, động viên bệnh nhân bình tĩnh thở sâu đồng thời thầy thuốc ấn các huyệt nội quan (X-6), thái dương (0-5), tam âm giao (IV-6) của bệnh nhân. Sau ỗ đến 10 phút bệnh nhân sẽ trở lại bình thường. Chúng ta có thể cấy tiếp tục hay để chờ lần tiếp theo tuỳ tình trạng của bệnh nhân. M ắc k im Kim không thể đâm tiếp vào hoặc không thể rú t ra được. Nguyên nhân do bệnh nhân quá sợ hãi nín thở, cơ co th ắt đột ngột. Đừng cố gắng đâm vào hoặc rút ra, phải nói với bệnh nhân thả lỏng cơ, thở sâu thì cơ lập tức mềm ra và chúng ta tiếp tục thao tác. Không bao giờ châm ngập kim tới đế cầm tay để trán h gãy kim ở môi hàn... Nếu chẳng may có gãy kim thì vẫn còn phần phía trên da để có thể dùng panh lây ra được. 9ẵLiệu trình điều trị Từ 3 tuần đến 4 tuần thì cấy chỉ lại một lần. Căn cứ vào thể chất của người bệnh mà rú t ngắn hay kéo dài thời gian giữa hai lần cấy chỉ một cách thích hợp. Cơ thể yếu hoặc người có nhiều bệnh thì hoặc luân phiên giữa các nhóm huyệt cho từng bệnh, hoặc thời gian giữa hai lần cấy chỉ có thể dài hơn khi bệnh đã ổn định 5-6 tuần một lần. 10ẵPhản ứng sau khi cấy chỉ Sau khi điều trị bằng cây chỉ, xuyên chỉ, vùi chỉ, th ắ t buộc chỉ, cơ thể có thể phát sinh những thay đổi như sau : 182
  12. Ph ản ứ n g b ìn h th ư ờ n g Phản ứng tại chỗ Do vêt thương kích thích và do sự kích thích của chỉ catgut (một loại protein lạ) trong thời gian từ 1-5 ngày tại chỗ có thể xuất hiện phản ứng viêm vô trùng có sưng đau và nóngẾCó trường hợp phản ứng tại chỗ khá nặng (trầm trọng) là do chỉ catgut kích thích vào mô gây dịch hoá thành một chất dịch thấm có màu trắng sữa đều là những hiện tượng bình thường, nói chung không cần phải xử trí gì. Nếu dịch thâm khá nhiều và lồi ra ngoài bề m ặt da thì dùng cồn 75 độ lau sạch đi và bằng lại bằng gạc vô trùng. Sau khi tiến hành thủ thuật, nhiệt độ tại chỗ có thể tăng lên và có thể kéo dài 5-7 ngày. Những phản ứng trên là dâ'u hiệu điều trị tốt. Phản ứng toàn thân Nhìn nhưng đại đa số' bệnh nhân không có phản ứng gì trong và sau khi cấy chỉ. Trừ rấ t ít bệnh nhân đặc biệt có thể sô't đến 38-39 độ c . Phản ứ ng b ấ t th ư ờ n g Đâu chỉ lộ ra ngoài, đau nhức Đầu chỉ có thể thò ra ngoài da, khi đó dùng panh vô trùng rú t chỉ ra, sát trùng rồi băng lại. Sau điều trị có thể thấy đau tê ở vùng cấy chỉ, nguyên nhân do phôi hợp thở không đúng trong khi cấy chỉ gây co cơ, đau sẽ giảm dần và hết sau 1-2 ngày. Đôi khi có huyệt bệnh nhân có cảm giác đau sau một tuần mới hêt. Nhiễm trùng Là khả năng có thể xảy ra ở một vài huyệt nếu thầy thuốc không vô trùng nghiêm túc trước khi cấy chỉ và bệnh nhân để nước làm ướt huyệt cấy chỉ (trong một vài ngày đầu). Vận động, làm việc, lao động nhiều sau khi cây chỉ, có thể có phản 183
  13. ứng viêm vô trùng (sưng tấy đỏ không có mủ), nghỉ vài ngày sẽ hết. Nói chung sau khi cấy chỉ thầy thuốc nên yêu cầu bệnh nhân nghỉ vài ngày, chỗ đau nhiều có thể xoa cồn, cao xoa. Chảy máu Trong quá trình cấy chỉ có thể bị chảy máu do kim chạm vào các mao mạch nhỏ dưới da. Cầm máu bằng bông và lây băng dính băng chặt lại, có huyệt có thể tím từ một vài ngày đến 1 tuần, xoa cồn m ật gấu hay cao xoa. Có bệnh nhân cá biệt dị ứng với chỉ catgut hay cồn sát trùng có iod. Sau cấy chỉ xuâ't hiện các phản ứng như : ngứa tại chỗ, sưng đỏ hoặc phát sô't toàn thân, cá biệt có trường hợp tại chỗ có sự dịch hoá tổ chức mỡ tiếp đến là chi catgut bị đẩy ra ngoài. Đõi với những bệnh nhân này thì có thể kết hợp dùng thuôc giải dị ứng. Trước khi điều trị hỏi kỹ bệnh nhân có dị ứng với chỉ catgut và cồn sát trùng có pha iod hay không ? Nếu có thì dùng cồn thường. Trường hợp người bệnh có trạng thái dị ứng nghiêm trọng thì cần thay đổi phương pháp điều trị khác. Tổn thương thần kinh Nếu có tổn thương thần kinh cảm giác sẽ xuất hiện rối loạn cảm giác vùng da do thần kinh chi phôi. Tổn thương th ần kinh vận động thì xuất hiện tình trạng liệt rõ ràng nhóm cơ do thần kinh ấy chi phôi. Nguyên nhân là do châm không đúng huyệt gây ra hoặc đặt chỉ vào chính các dây thần kinh lớn như dây thần kinh hông to. V. BÍ QUYẾT CẤY CHỈ Học cấy chỉ khó nhâ't là về kỹ th u ật cây. Nhiều người đơn giản chi xem qua cho là dễ - tự làm không hiệu quả, thậm chí phản tác dụng điều trị; nhưng ngược lại cũng có nhiều người không can đảm thực hành kỹ th u ật này. Cấy chỉ có hiệu quả cao là cả một vân đề khó trong nghệ thuật chữa bệnh. Nhiều người chỉ chú ý xác định vị trí huyệt mà không chú ý tới thủ pháp nên có khi châm đúng huyệt mà bệnh vẫn không 184
  14. khỏi. Phần thực hành của cuốn sách cáy chỉ này giành cho những thầy thuôc châm cứu đã thành thạo tay nghề. Vì vậy phần xác định huyệt chúng tôi không nhắc lại nửa. Khác với châm cứu là khi châm chúng ta có thể chỉnh lại độ nông, sâu, ngoài hướng kim châm theo ý muôn, nhưng với cấy chỉ chúng ta chỉ có thể chỉnh kim khi chưa đẩy chỉ vào huyệt. Chính vì vậy, ngoài việc chẩn đoán, chọn huyệt, phôi hợp huyệt và xác định huyệt chính xác chúng ta còn cần phải đưa chỉ vào huyệt một cách chính xác. Muôn như vậy sau khi xác định huyệt chính xác lây đầu móng tay ấn vào huyệt và hỏi bệnh nhân có cảm giác tê là đúng huyệt. Châm kim vào và đẩy kim theo hướng cần thiết (bổ hoặc tả) hỏi bệnh nhân có cảm giác tê là đúng, nếu như không tê hoặc đau là không đúng huyệt cần chỉnh lại kim rú t ra nông hơn hoặc đưa vào sâu hơn. Khi đã chắc chắn đưa kim đúng vị trí chúng ta mới đẩy thông nòng đưa chỉ vào huyệt và rú t kim ra. Sau đó tiếp tục làm các huyệt khác cho tới khi xong. Chú ý khi hỏi cảm giác tê của bệnh nhân sau khi châm, bệnh nhân không chi có cảm giác tê tại chỗ mà có thể còn lan toả. Nếu có như vậy thì hiệu quả cấy chỉ của huyệt đó sẽ rấ t caoửChúng tôi xin giới thiệu một vài ví dụ sau : 1. Vùng đầu m ặ t : cấy chỉ đúng những huyệt Toản trúc(VII-2); tinh minh (VII-1); ty trúc không (X-23), bệnh nhân sẽ có cảm giác tê từ huyệt lan tới mắt Huyệt thính hội (XI-2); ế phong (X-17), cấy chỉ đúng bệnh nhân sẽ có cảm giác tê lan tới trong tai, và mặt. Huyệt thượng tinh (XII-24), thần đình (XIII-24),cây chỉ đúng tê tới mũi. Khi cấy chỉ những huyệt phần đầu mặt cần phải thật thận trọng vì là vùng rất nhạy cảm và dễ gây đau, gây chảy máu nhiều cho bệnh nhân, góc châm kim thường từ 15-30 độ, độ dài của chỉ là 0,5 -lcm. 2. Vùng bụng Trung quản (XIV-12), hạ quản (XIV-10), cấy chỉ đúng có cảm giác tê đến bụng, dạ dàyỂ 185
  15. Huyệt quan nguyên (XIV4) ; khí hải (XIV-6), trung cực (XIV-3), khúc cốt (XIV-2) cấy chỉ đúng bệnh nhân có cảm giác tê tới bụng dưới, bộ phận sinh dục. Như vậy chữa bệnh về sinh dục, dạ dày mới có kết quảỗ 3. Vùng lưng Là vùng khó cấy chi, khôi cơ lưng bệnh nhân dễ co cứng vì sợ. Nhắc bệnh nhân thả lỏng người, thở sâu và đều khi cây chỉ. Các huyệt đại chuỳ (XIII-14), đào đạo (XIII-13), phong môn (VII- 12), phê du (VII-13), tâm du (VII-15), cấy chỉ đúng bệnh nhân có cảm giác tê vùng trước ngực. Các huyệt mệnh môn (XIII-4), thận du (VII-23), chí th ấ t (VII-52), cấy chỉ đúng có cảm giác tê trước xương chậu. 4ế Vùng tay : cấy chỉ đúng các h u y ệ t: Hợp cốc (II-4) có thể tê lan đến vai, hoặc họng. Khúc trì (11-11), kiên ngung (11-15) tê cả cánh tay. 5. Vùng chân Hoàn khiêu (XI-30) cấy chỉ đúng tê lan xuông bàn chân. Phong thị (XI-29), dương lăng tuyền (XI-34), côn lôn (VII-60), huyết hải (IV-10), tê đến bụng dưới. Túc tam lý (111-36) tê đến dạ dày (tả), tê cả cẳng chân (bổ). Nếu sau khi cấy chỉ xong mà bệnh nhân vẫn còn cảm giác tê lan toả như trên thì kết quả huyền diệu không ngờ. Nhưng để có kết quả đó chúng ta phải có quá trình thao tác, học hỏi thường xuyên. Nếu chỉ tê tại chỗ thì kết quả chỉ chậm hơn mà thôi. Để ngày càng có nhiều kinh nghiệm chúng ta nên chú ý khi cấy xong một huyệt thì cần hỏi cảm giác của bệnh nhân. Sau nhiều lần cấy huyệt đó trên các bệnh nhân khác nhau hoặc trên cùng một bệnh nhân và dựa vào kết quả điều trị của mình sẽ tự rú t ra kinh nghiệm. Các cụ thường dạy “trăm nghe không bằng thây, trăm thây không- bằng một làm”. Đê thực hành cấy chỉ có kết quả các thầy thuôc châm 186
  16. cứu nên nghiên cứu thực hành chữa trị một vài thể bệnh thường gặp. Khi đã khá thành thạo thì chuyển sang các thể loại bệnh khó hơn. Làm như vậy vừa đảm bảo an toàn, hiệu quả mà tay nghề lại được nâng cao. Chú ý ở vùng bụng chỉ châm khi bệnh nhân thở ra để tránh mũi kim sâu quá tới ruột. Những vùng gần mạch máu, gân, dây chằng, các huyệt thái uyên (1-9), nội quan (IX-6) khi cấy chỉ phải hết sức thận trọng. Đặc biệt các huyệt tứ bạch (III-2), ế phong (X-17), thượng liêm tuyền (XIV-23), á môn (XIII-15) khi chưa tự tin tuyệt đối không nên cấy chỉ. Với các bệnh nhi dưới 2 tuổi, đặc biệt dưới 1 tuổi, nếu chưa làm thành thạo tuyệt đôi không nên cáy chỉ, vì các cháu không nghe hướng dẫn của thầy thuốc mà giãy giụa nhiều. Khi cấy vùng bụng phải có trợ lý giữ chắc phần xương chậu, tay chân và tiến hành cấy chỉ khi bệnh nhân thở ra. Cấy chỉ ở vùng tay, chân của trẻ em phải giữ chặt các khớp (ví dụ : vai, gối, khuỷu tay...) không giứ phần ống xương hoặc nắm bàn tay, bàn chân trẻ vì nếu trẻ dùng sức giãy mạnh có thể sai khớp, gãy xương kiểu cành tươi. Cấy vùng lưng, cột sông trợ lý phải giữ chắc phần xương chậu và hai vai. Để bệnh nhân nằm tư thế ngay ngắn mới có thể xác định huyệt và cây chỉ chính xác được. Phải hết sức thận trọng với các cháu quá gầy khi cấy chỉ vùng phổi (các du huyệt), nhớ châm khi thở ra. Lúc đầu châm kim nhanh qua da sâu 2mm xong chuyển hướng kim 10-20 độ so với mặt da. Thông thường các cháu chỉ khóc khi cấy chỉ và sau đó 2-10 phút, nhiều cháu ngừng khóc ngay sau khi cấy chỉ. Nếu sau khi cấy chỉ các cháu còn khóc lâu quá 20-30 phút hay có biểu hiện bất thường thì phải kiểm tra lại tìm nguyên nhân để xử trí Bắt buộc phải theo dõi các cháu sau khi cấy chỉ 30 phút, nếu không có điều gì xảy ra mới cho bố mẹ đưa về nhà. 187
  17. Tuy nhiên, từ năm 1982 đến nay chúng tôi tiến hành cấy chỉ rất nhiều bệnh nhân mà chưa gặp một tai biến nào xảy ra ngoài vựng châm ở một sô' người lớn, thường là thanh niên. Cây chỉ cho các cháu 3-12 tuổi, cần giải thích cho các cháu trước, làm công tác tư tưởng tranh thủ sự hợp tác của các cháu. Nếu các cháu vui vẻ tự giác không cần giữ, là chúng tôi đả thành công một nửa. Nói các cháu hít vào thở ra sâu theo chỉ đạo của thầy thuốc. Râ't nhiều cháu 3-7 tuổi không hề khóc khi cấy chỉ. Dĩ nhiên các cháu câm, điếc hoặc những bệnh nhân về não, ý thức kém không thể giải thích được chúng ta cần phải điều trị bắt buộc. Nhưng nếu chúng ta theo dõi sau các lần điều trị tiếp theo thấy ngoài các tiến bộ thì khác mức độ phản kháng, giãy giụa của bệnh nhân ngày càng ít đi, biết nghe lời hơn tức là chúng ta điều trị có kết quả. 188
  18. Phẩn năm Phác đô' cấy chỉ I. NHỮNG LOẠI BỆNH CHỮA BANG cấ y chỉ Các cách lên phương huyệt sử dụng cách chọn huyệt, phôi hợp huyệt theo học thuyết kinh lạc. Các phác đồ này đã được ứng dụng thành công ở trong và ngoài nước. Tùy theo mức độ nặng, nhẹ của bệnh nhân mà vận dụng chọn huyệt điều trị theo liệu trình hoặd luân lưu huyệt. Có thể cấy chỉ tối đa đến 30 huyệt cho một bệnh nhân có nhiều bệnh cần phải chữa cùng một lúc. 1. Hen phế quản (asthma) VII-13 : Phế du (Feishu) v n - l l : Đại trữ (Dashu) VII-43 :Cao hoang du (Gaohuangshu) II-4 :Hợp cốc (Hegu) II-11 : Khúc trì (Quchi) 0-8 : Định suyễn XIV-22:Thiên đột (Tientu) 1-9 : Thái uyên (Taiyuan) III-36 :TÚC tam lý (Zusanli) IV-6 :Tam âm giao (Sanyirỹiao) 1-6 : Khổng tối (Kongzui) II-6 :Thiên lịch (Pianli) 2ữĐau dạ dày - hành tá tràng (stomach cramps) VII-20 : Tỳ du (Pishu) VII-21: Vị du (Weishu) XIII-20 : Bách hội (Baihui) V-7 :Thần môn (shenmen) 111-36 : Túc tam lý (Zusanli) 111-25 : Thiên khu (Tianshu) XIV-12 : Trung quản (Zhongwan) XIV-6 : Khí hải (Qihai) 111-34 : Lương khâu (Liangqiu) IV-4 : Công tôn (Gongsun) 3. Đau lưng dưới (lumbago) VII-23 : Thận du (Shenshu) VII-25 :Đạdtmcngdu(Dachaiigshu) XIII-3 : Dương quan (Yaoyangguan) XIII-4 : Mệnh môn (Mingmen) VII-40 : ủ y trung (Weizhong) VIII-3 : Thái khê (Taixi) VII-32 : Thứ liêu (Ciliao) VIII-5 :Thủy tuyền (Shuiquan) Giáp tích L2L5 189
  19. 4. Đau dây thần kỉnh hông (sciatica) Vn-23 : Thận du (Shenshu) VH-25 :Đạitrưmgdu(Dachangshu) VII-54 : Trật biên (Zhibian) XI-30 : Hoàn khiêu (Huantiao) XI-34 : Dương lăng tuyền (Yanglingquan) 111-36 : Túc tam lý (Zusanli) IV-6 : Tam âm giao (Sanyinjiao) VIII-5 : Thuỷ tuyền (Shuiquan) 5. Đau dây thần kỉnh liên sườn (ỉnterseatỉcal neuralgia) XIII-4: Dương quan (Yaoyangguan) XIII-14 : Đại chuỳ (Dazhui) XI-34: Dương lăng tuyền (Yanglingquan) XII-3 : Thái xung (Taichong) X-6 : Chi câu (Zhigou) Á thị huyệt (Yashi point) Giáp tích vùng tương đương liên sườn đau. 6. Hội chứng đau và hạn chế vận động cổ, vai, cánh tay XI-20 : Phong trì (Fengchi) XI-21 : Kiên tih (Jangjing) VII-11 : Đại trữ (Dashu) VII-12 : Phong môn (Fengmen) II-4 Hợp cốc (Hegu) 11-11 : Khúc trì (Quchi) 11-15 : Kiên ngung (Jianyu) X-4 : Dương trì (Yangchi) X-5 : Ngoại quan (Waiguan) IV-6 :Tam âm giao (Sunyiiỹiao) IV-8 : Địa cơ (Diji) VIII-5 : Thuỷ tuyền (Shuiquan) Giáp tích C7-D1 cùng bên. Đau nhức xương, khó p Chung VII-12 : Phong môn (Fengmen) VII-23 : Thận du (Shenshu) XIII-20 :Bách hội (Baihui) XIII-14: Đại chuỳ (Dazhui) XIII-3 : Dương quan (Yaoyangguan) IV-6 :Tam âm giao (Sunyinjiao) IV-10 : Huyết hải (Xuehai) VII-34 : Hạ liêu (Xialiao) VII-5 : Thuỷ tuyền (Shuiquan) XII-6 :Trung đô (Zhongdu) 190
  20. Khớp vai (thêm các huyệt) I-2 : Vân môn (Yunmen) II-4 :Hợp cốc (Hegu) II-15 : Kiên ngung (Jianyu) 11-16 :Cựcốt(Jugu) XI-4 : Hàm yên (Hanyan) VI-19 :Kiên trinh (Jianzhen) VI-10 : Nhu du (Naoshu) Khớp gối (thêm các huyệt) III-36 : Túc tam lý (Zusanli) III 11-35 :Độc ty (Dubi) XI-34 iDưong lăng tuyầi (Yanglingquạn) IV-10: Huyết hải (Xuehai) IV-9 : Âm lăng tuyền (Yinlingquan) Khớp hảng (thêm các huyệt) VTI-54 : Trật biên (Zhibian) VTI-32 :Thứ liêu (Ciliao) VII-33 :Trung liêu (Zhongliao) XI-30 : Hoàn khiêu (Hoantiao) XI-29 :Cự liêu (Juliao) Khớp cổ tay (thêm các huyệt) X-4 :Dương trì (Yangchi) X-5 : Ngoại quan (Waiquan) I-9 :Thái uyên (Taiyuan) II-5 : Dương khê (Yangxi) II-4 :Hợp cốc (Hegu) VI-5 : Dương cốc (Yanggu) Khớp cổ chân (thêm các huyệt) III-41 : Giải khê (Jiexi) VII-62 : Thân mạch (Shenmai) VII-60 : Côn lôn (Kunlun) XI-40 : Khâu khư (Qiuxu) 8. Suy nhược thần kinh (neurasthenia) XIII-20: Bách hội (Baihui) 0-4 : Ân đường (Yintang) VII-15 : Tâm du (Xinshu) VII-17: Cách du (Geshu) VII-23 : Thận du (Shenshu) V-7 :Thần môn (Shenmen) IV-6 : Tam âm giao (Sanjinjiao) VIII-3 : Thái khê (Taixi) 9ẳĐau đầu (headaches) 0-4 : Ấn đường (Yintang) XIII-30: Bách hội (baihui) II-4 : Họp cốc (Hegu) 11-11 : Khúc trì (Quchi) 191
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2