YOMEDIA
CHỈ THỰC (Kỳ 3)
Chia sẻ: Tu Tu
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:6
80
lượt xem
4
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Đơn thuốc kinh nghiệm + Trị ngực đau tức, đau cứng dưới tim, đau xóc dưới sườn lên tim: Chỉ thực (lâu năm) 4 trái, Hậu phác 120g, Phỉ bạch 240g, Qua lâu 1 trái, Quế 30g, nước 5 thăng. Trước hết sắc Chỉ thực, Hậu phác, lấy nước bỏ bã, xong cho các
thứ thuốc khác vào sắc, chia làm 3 lần uống (Chỉ Thực Phỉ Bạch Thang - Kim Quỹ Yếu Lược Phương). + Trị đau nhức trong ngực (Hung tý thống): Chỉ thực tán bột uống với nước lần 12g, ngày 3 lần, đêm 1 lần (Trửu...
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: CHỈ THỰC (Kỳ 3)
- CHỈ THỰC
(Kỳ 3)
Đơn thuốc kinh nghiệm
+ Trị ngực đau tức, đau cứng dưới tim, đau xóc dưới sườn lên tim: Chỉ
thực (lâu năm) 4 trái, Hậu phác 120g, Phỉ bạch 240g, Qua lâu 1 trái, Quế 30g,
nước 5 thăng. Trước hết sắc Chỉ thực, Hậu phác, lấy nước bỏ bã, xong cho các
- thứ thuốc khác vào sắc, chia làm 3 lần uống (Chỉ Thực Phỉ Bạch Thang - Kim
Quỹ Yếu Lược Phương).
+ Trị đau nhức trong ngực (Hung tý thống): Chỉ thực tán bột uống với
nước lần 12g, ngày 3 lần, đêm 1 lần (Trửu Hậu Phương).
+ Trị bôn đồn khí thống: Chỉ thực sao, tán bột, mỗi lần uống 12g, ngày
3 lần, đêm 1 lần (Ngoại Đài Bí Yếu).
+ Trị phong chẩn ngoài da: Chỉ thực tẩm giấm, sao, chườm vào (Ngoại
Đài Bí Yếu).
+ Trị sa trực trường do lỵ: Chỉ thực, mài trên đá cho nhẵn, rồi sao với
mật ong cho vàng, chườm vào cho đến khi rút lên (Thiên Kim Phương).
+ Trị trẻ nhỏ lở đầu: Chỉ thực đốt cháy, trộn mỡ heo bôi vào (Thánh
Huệ Phương).
+ Trị ngực đau do thương hàn, sau khi đau bụng hàn giữa ngực bỗng
nhiên đau ngột: Chỉ thực sao với cám, tán bột, mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần (Tế
Sinh Phương).
+ Trị sinh xong bụng đau: Chỉ thực sao cám, Thược dược sao rượu, mỗi
thứ 8g, sắc uống hoặc tán bột uống (Tế Sinh Phương)
- + Trị âm hộ sưng đau cứng: Chỉ thực 240g, gĩa nát, sao, gói trong bao
vải, chườm lên chỗ đau, khi nguội sao chườm tiếp (Tử Mẫu Bí Lục Phương).
+ Trị táo bón: Chỉ thực, Tạo giáp 2 vị bằng nhau, tán bột, trộn với hồ
bột làm thành viên uống (Thế Y Đắc Hiệu Phương).
+ Trị trẻ nhỏ bị các loại trĩ kinh niên: Chỉ thực tán bột, luyện với mật
ong làm viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 30 viên lúc đói (Tập Nghiệm
Phương).
+ Chỉ thực kết hợp với Tam lăng, Nga truật, Thanh bì, Bình lang có tác
dụng mòn tiêu tích khối cứng chắc, nhưng chỉ dùng cho những người tỳ vị
mạnh, ăn được còn sức khỏe (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị trường vị tích nhiệt, bụng căng đầy, táo bón: Chỉ thực, Bạch truật,
Phục linh, Thần khúc, Trạch tả, Đại hoàng mỗi thứ 12g, Hoàng liên 4g, Sinh
khương 8g, Hoàng cầm 8g. Tán bột làm viên hoặc sắc uống (Chỉ Thực Đạo Trệ
Hoàn - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị khí huyết tích trệ sau khi sinh, đau bụng, đầy tức không yên: Chỉ
thực 12g, Bạch thược 12g, tán bột hoặc sắc uống (Chỉ Thực Thược Dược Tán -
Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
- + Trị tức ngực, bụng đầy, tiêu hóa kém: Chỉ thực, Bạch truật, mỗi thứ
12g sắc uống (Chỉ Truật Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ
Sách).
+ Trị đầy tức dưới tim, ăn uống không ngon, tinh thần mệt mỏi, hoặc
tiêu hóa kém, đại tiện không thoải mái: Chỉ thực, Hoàng liên, mỗi thứ 20g, Hậu
phác 16g, Can khương 4g, Chích cam thảo, Mạch nha, Phục linh, Bạch truật,
mỗi thứ 8g, Bán hạ khúc, Nhân sâm, mỗi thứ 12g, tán bột, làm thành viên. Mỗi
lần uống 2-12g, ngày 3 lần (Chỉ Truật Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung
Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
. Cây Trấp còn cho rễ cây gọi là “Chỉ thụ căn bì” dùng ngâm rượu súc
miệng để trị đau răng rất hay, hoặc dùng vỏ rễ nấu nước sắc uống trị chứng tiêu
ra máu (Bản Thảo Thập Di).
. Cạo lấy vỏ rễ cây, vỏ non trong cây, vỏ cành gọi là ‘Chỉ thụ nhự’ thân
cây và vỏ trị thủng húp, bạo phong đau nhức khớp xương. Nó chữa được
chứng trúng phong liệt, méo miệng, trong lúc chưa dùng thuốc gì nên cạo lấy
vỏ da cây ngâm với rượu 1 đêm khi uống hâm nóng (Bản Thảo Đồ Kinh).
- . Muốn khai khí giữa ngực thì dùng Chỉ xác, khai khí ở dưới bụng thì
dùng Chỉ thực. Chữa khí trệ thì dùng Chỉ xác, chữa khí kết thì dùng Chỉ thực.
Duy cổ ngữ có nói Chỉ xác trị khí, Chỉ thực trị huyết, nh ưng xét ra khí hành thì
huyết thông, 2 vị đều là thuốc lợi khí chứ không phải là thuốc thông huyết. Cho
nên dùng Chỉ thực với Bạch truật thì điều hòa được Tỳ mà dùng với Đại hoàng
thì thúc đẩy được khí. Nếu người khí hư trướng mà dùng Chỉ thực thì không
khác gì ôm củi mà chữa cháy (Bản Thảo Cầu Chân).
. Chỉ thực vị đắng, cay, chua, hơi hàn, không độc, nhập vào kinh Túc
dương minh và Túc thái âm. Tính phù mà lại giáng xuống, hoàn toàn là dương
dược, quả nhỏ mà tính mạnh, chữa phần dưới nhanh chóng, chủ về huyết.
Phàm chứng ngực bụng bị đẩy trướng, phiền muộn, chất ăn cũ tích tụ, đờm đặc
tích huyết, thì nó có công khai thông phá kết mau chóng, làm cho đổ vách
xuyên tường. Dùng với Bạch truật trị chứng bỉ thuộc hư, nhưng tính nó dữ tợn,
sức nó mạnh, người không có đình trệ kiêm tích thì chớ có dùng bừa bãi mà hại
tới nguyên khí. Ông Vương Hải Tàng nói: bổ khí thì lấy Sâm, Truật, Can
khương làm tá, để phá khí lấy Khiên ngưu, Mang tiêu, Đại hoàng làm tá (Dược
Phẩm Vựng Yếu).
. Cây còn cho lá non gọi là ‘Chỉ thụ nộn diệp’ sắc uống thay n ước trà trị
các chứng phong, trục phong (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...