intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính sách điều chỉnh tái cơ cấu nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

36
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nghiên cứu giải pháp chính sách điều chỉnh tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế. Tác giả tập trung nghiên cứu lý thuyết kinh tế trọng cung và một số vấn đề cần lưu ý của kinh tế trọng cung khi áp dụng trong bối cảnh hiện nay. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của bài viết này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính sách điều chỉnh tái cơ cấu nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế

  1. CHÍNH SÁCH ĐIỀU CHỈNH TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ ADJUSTMENT POLICY OF RESTRUCTURING THE ECONOMY IN THE CONTEXT OF ECONOMIC INTEGRATION TS. Nguyễn Hoàng Quy Học viện Tài chính Tóm tắt Bài viết nghiên cứu giải pháp chính sách điều chỉnh tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế. Tác giả tập trung nghiên cứu lý thuyết kinh tế trọng cung và một số vấn đề cần lưu ý của kinh tế trọng cung khi áp dụng trong bối cảnh hiện nay. Thông qua kết quả phỏng vấn 16 chuyên gia về tái cấu trúc kinh tế, bài viết chỉ ra thực trạng tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua, những thành công và hạn chế của quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Từ đó, bài viết đề xuất một số kiến nghị về chính sách điều chỉnh tái cơ cấu nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Từ khóa: Tái cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế, lý thuyết kinh tế trọng cung, Việt Nam. Abstract This paper studies the policy solutions to adjust the economic restructuring of Vietnam in the context of economic integration. The author focuses on supply-side economic theory, and several problems when applying supply-side economics in current situation. Through the interviews with 16 experts on economic restructuring, the article points out the current reality of Vietnam's economic restructuring in recent years, the achievements and the limitations of economic restructuring process. On that basis, the paper suggests some policy recommendations for adjusting Vietnam’s economic restructuring in the context of economic integration. Keywords: Economic restructuring, economic development, economic integration, supply- side Economics, Vietnam. 1. Mở đầu Tái cơ cấu nền kinh tế đang là chủ đề trọng tâm của Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh và bền vững. Tái cơ cấu nền kinh tế là vấn đề cốt lõi cho tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia trong nền kinh tế thị trường hiện đại (Nadia, 2004). Tái cơ cấu kinh tế giúp đáp ứng xu thế toàn cầu hóa, duy trì lợi thế trong thị trường cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, đồng thời góp phần phát triển bền vững nền kinh tế quốc gia. Nhận rõ được điều này, Chính phủ và Quốc hội Việt Nam tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế là định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu này, ngay tại Hội nghị Trung ương 3 khoá XI tháng 10 năm 2011, Đảng và Nhà nước đã quyết định tái cơ cấu kinh tế trong đó tập trung ưu tiên tái cơ cấu 3 lĩnh vực quan trọng, 830
  2. cụ thể (i) tái cơ cấu đầu tư, (ii) tái cơ cấu DNNN và (iii) tái cơ cấu thị trường tài chính. Gần đây, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 339/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020”. Cho đến nay, Việt Nam đã đạt những thành công ban đầu trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Cụ thể, theo báo cáo số 460/BC-CP về Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 tại Kỳ họp Thứ 2, Quốc hội khóa XIV ngày 20/10/2016, Việt Nam đã duy trì được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định trong thời gian dài, tái cơ cấu đầu tư công ngày càng hoàn thiện, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước luôn được chú trọng, và thị trường tài chính được điều chỉnh khá ổn định. Các ngành kinh tế thay đổi theo hướng nâng cao chất lượng cạnh tranh. Tuy nhiên, công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế đến nay vẫn tồn tại nhiều hạn chế khiến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn khá thấp so với các quốc gia trong khu vực. Tái cơ cấu ngành còn chậm, trong khi tái cơ cấu vùng kinh tế đang vẫn chưa đạt được kết quả cao. Để giải quyết những hạn chế trên, trước tiên, Việt Nam cần chú trọng vào các chính sách điều chỉnh tái cơ cấu nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn chủ đề “Giải pháp chính sách điều chỉnh tái cơ cấu nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế”. Bài viết tập trung nghiên cứu lý thuyết kinh tế trọng cung và một số vấn đề cần lưu ý của kinh tế trọng cung khi áp dụng trong bối cảnh hội nhập kinh tế. Trên cơ sở đó, bài viết sơ lược lịch sử tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam và phân tích thực trạng tái cơ cấu của Việt Nam trong thời gian vừa qua. Từ đó, tác giả đề xuất một vài kiến nghị với nhà nước về các chính sách điều chỉnh tái cơ cấu nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. 2. Cơ sở lý luận Bối cảnh lịch sử Khái niệm “tái cơ cấu” bắt đầu được sử dụng từ cuối thập niên 1970. Lý thuyết kinh tế và chính sách tại thời điểm đó bị chi phối bởi lý thuyết Keynes. Thuyết này cho rằng thu nhập quốc gia và việc làm phụ thuộc vào tổng cầu, đồng thời cho rằng việc đảm bảo tín dụng và hạn chế thâm hụt ngân sách thông qua kích cầu có thể gia tăng thu nhập và việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, sau nhiều thập kỷ phát triển, một cuộc suy thoái trầm trọng đã xảy ra từ năm 1973 đến năm 1975 (Nadia, 2004). Sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods làm mất kiểm soát tỷ giá ngoại tệ. Cùng với đó, cú sốc chấn động dầu của OPEC năm 1974 và năm 1975 đã đánh trúng một đòn vào kinh tế Mỹ nói riêng và cho nền kinh tế quốc tế nói chung. Trong thời gian này, lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt. Sự suy thoái này làm cho hoạt động kinh doanh ngưng trệ, các nhà máy sản xuất đóng cửa và sa thải phần lớn lực lượng lao động của mình. Tác động của của suy thoái ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Nhiều nhà kinh tế cho rằng chủ nghĩa tư bản đang trải qua một cuộc khủng hoảng cơ cấu (Nadia, 2004). Vì vậy, mặc dù các khuyến nghị chính sách đưa ra bởi Keynes có thể thích hợp trong những năm khủng hoảng của những năm 1930 khi Keynes phát triển lý thuyết của ông. 831
  3. Tuy nhiên, vào những năm 1960 và 1970, hầu hết các nhà kinh tế học cho rằng chính sách này không còn phù hợp vì chỉ tập trung vào tổng cầu và bỏ qua các yếu tố gia tăng nguồn cung như nguồn vốn tích lũy, tiến bộ kỹ thuật, và cải thiện chất lượng lao động (Feldstein, 2011). Đây là tiền đề cho sự ra đời ý tưởng về lý thuyết kinh tế trọng cung. Lý thuyết kinh tế trọng cung Thatcher Margaret và Reagan Ronald là 2 nhà lãnh tụ đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội phương Tây trong thập kỷ 1980 bằng việc thực hiện hàng loạt chính sách kinh tế trọng cung (Supply-side Economics). Tư tưởng kinh tế chủ đạo của Thatcher và Reagan là giảm thuế thu nhập bao gồm cả thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp, cắt giảm chi tiêu công để giảm thiểu vai trò của nhà nước và để thị trường tự do điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế. Kinh tế trọng cung cũng được đề cập trong Say’s Law of Markets - một cột mốc quan trọng của trường phái kinh tế trọng cung do nhà kinh tế người Pháp đưa ra đầu thế kỷ 19. Say’s Law cho rằng nền kinh tế chỉ bị chi phối bởi cung, trên thực tế cầu chỉ đơn giản là hệ quả của cung. Vì vậy, đối với một nền kinh tế, điều quan trọng là tăng cung tăng và không cần quan tâm đến cầu. Say’s Law cũng khẳng định chính phủ các quốc gia cần kích thích sản xuất và không nên khuyến khích tiêu dùng (Steven, 1998). Về cơ bản, kinh tế trọng cung nhấn mạnh đến các quyết định kinh tế của các cá nhân và chính phủ. Bên cạnh đó, kinh tế trọng cung không cho rằng nhà nước có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nghĩa là kinh tế trọng cung hướng tới một nền kinh tế thị trường tự do tuyệt đối. Trong thực tế, kinh tế trọng cung là biện pháp duy nhất để tăng thu nhập tiềm năng của quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế và vai trò của chính phủ là tạo ra một môi trường kinh doanh tự do, lành mạnh. Kinh tế trọng cung được xây dựng dựa trên hai nguyên lý. Thứ nhất, bản chất tự nhiên của các cá nhân là phản ứng với các kích thích, chẳng hạn như giá cả, chi phí, tiêu dùng, đầu tư, rủi ro, hay sự ảnh hưởng về hành vi của các cá nhân, gia đình và doanh nghiệp. Thứ hai, thị trường tự do cung cấp khuyến khích các tổ chức và cá nhân thông qua tín hiệu giá cả và lợi nhuận. Kinh tế trọng cung nhấn mạnh tầm quan trọng của sản xuất trong bối cảnh thi trường tự do. Để nâng cao giá trị, sản xuất phải đáp ứng hoặc tạo ra nhu cầu tiêu dùng trong xã hội. Điểm kết thúc của toàn bộ quá trình kinh tế là tiêu thụ (Nadia, 2004). Kinh tế trọng cung hướng đến hai chính sách đòn bẩy. Thứ nhất là đòn bẩy tài chính - thuế, pháp lý, và chính sách chi tiêu hướng tới việc thiết lập một môi trường phát triển kinh tế chuyên nghiệp. Thứ hai là đòn bẩy tiền tệ, chính sách tiền tệ hướng tới việc thiết lập mức giá cả ổn định giúp nền kinh tế hoạt động và phát triển mạnh mẽ. Các chính sách tài chính trong kinh tế trọng cung liên quan tới thuế, vai trò của chính phủ trong nền kinh tế và thương mại tự do (Nadia, 2004). Tóm lại, lý thuyết kinh tế trọng cung chủ yếu được coi trọng trong thập niên 1970- 1980 sau cuộc đại suy thoái 1973-1974. Kinh tế trọng cung khuyến khích doanh nghiệp sản xuất nhiều hơn, khi đó cầu về sản phẩm sẽ tự xuất hiện. Thông qua các chính sách miễn giảm thuế, khuyến khích áp dụng khoa học kỹ thuật, cổ phần hoá DNNN, cải thiện môi trường kinh doanh … để kích thích khu vực tư nhân sản xuất nhằm giảm chi phí sản xuất 832
  4. và hạ giá thành sản phẩm, từ đó tạo ra sức mua lớn của khu vực tư nhân và góp phần tăng trưởng kinh tế. Một số vấn đề cần lưu ý của kinh tế trọng cung khi áp dụng trong bối cảnh hội nhập kinh tế Bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay: Hội nhập kinh tế toàn cầu ngày càng sâu rộng nhờ việc tăng cường các mối quan hệ song phương, đa phương ở mọi cấp độ giữa các quốc gia trên thế giới. Điều này khiến cục diện thế giới chuyển biến nhanh chóng và sâu sắc. Thêm vào đó, tình hình khu vực và quốc tế diễn biến rất phức tạp, khó lường do những bất ổn của kinh tế thế giới, cùng với quá trình tái cấu trúc kinh tế thế giới, biến động của hệ thống tài chính tiền tệ thế giới… Vì vậy, nhiều quốc gia có xu hướng hội nhập, liên kết kinh tế nhằm tập hợp các nguồn lực phục vụ cho phát triển kinh tế. Cụ thể, xu thế chính của liên kết kinh tế quốc tế hiện nay là sự phát triển mạnh mẽ của các hiệp định thương mại tự do (FTA). Liên kết kinh tế - thương mại ngày càng sâu rộng, đặc biệt là các quốc gia dẫn dắt các xu hướng liên kết kinh tế quốc tế như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Nga. Bên cạnh đó, cạnh tranh về kinh tế thương mại giữa các nước diễn ra gay gắt và phức tạp hơn. Tình trạng suy thoái, khủng hoảng luôn có nguy cơ xảy ra với bất cứ một nền kinh tế nào trên thế giới. Vì vậy, hội nhập kinh tế toàn cầu sẽ kéo theo tái cấu trúc kinh tế toàn cầu. Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia phải tích cực tái cơ cấu, tái cơ cấu theo hướng hội nhập, bảo đảm tuân thủ các cam kết hội nhập kinh tế toàn cầu (Kathaleeya và Komon, 2015). Các vấn đề cần lưu ý của kinh tế trọng cung khi áp dụng trong bối cảnh hội nhập kinh tế: Trước tình hình hội nhập kinh tế sâu rộng, các quốc gia cần có những chính sách kinh tế hợp lý khi thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế. Việc lựa chọn áp dụng chính sách trọng cung tuỳ thuộc vào tình trạng sức khoẻ nền kinh tế ở mỗi thời điểm nhất định. Tuy nhiên, khi áp dụng chính sách kinh tế trọng cung cần chú ý một số vấn đề sau: Thứ nhất, các quốc gia không nên áp dụng chính sách trọng cung trong khoảng thời gian quá dài để đảm bảo cân bằng ngân sách và điều chỉnh nền kinh tế. Những tác động ngay lập tức của việc cắt giảm thuế khi áp dụng chính sách trọng cung là làm giảm ngân sách chính phủ và tăng thâm hụt ngân sách. Nếu chính phủ cố gắng vay mượn cho những khoản thâm hụt đó từ khu vực tư nhân đồng nghĩa với việc lãi suất sẽ tăng lên. Mặt khác, nếu chính phủ quyết định in thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách sẽ khiến lạm phát tăng cao. Trong thời gian dài, tình trạng này sẽ gây nguy hại cho nền kinh tế (Hoagland và các cộng sự, 2013). Thứ hai, chính sách kinh tế trọng cung làm giảm các chương trình phúc lợi xã hội do chính sách này giảm vai trò của nhà nước trong việc cung cấp một số hàng hóa, dịch vụ công như giáo dục, y tế ... Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công bằng xã hội. Ngoài ra, theo Hoagland và các cộng sự (2013), khi áp dụng chính sách kinh tế trọng cung, nghĩa là ưu tiên cho thương mại tự do, dẫn đến tranh chấp thương mại gia tăng và đa dạng hơn. Đồng thời, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, các biện pháp phòng vệ thương mại trở nên phổ biến trong khi cơ chế pháp lý của các quốc gia cần có thời gian để thay đổi. Vì vậy, chính phủ cần thận trọng khi áp dụng chính sách này đối với từng ngành, từng lĩnh vực phục vụ tái cơ cấu kinh tế hiệu quả. 833
  5. 3. Phương pháp nghiên cứu Để phục vụ đề tài nghiên cứu, tác giả tìm kiếm và thu thập dữ liệu thứ cấp thông qua các báo cáo, nghiên cứu, bài báo trong và ngoài nước liên quan tới chủ đề tái cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Tác giả cũng tìm hiểu, nghiên cứu các lý thuyết kinh tế về chính sách kinh tế trọng cung và trọng cầu qua từng thời kỳ, cũng như những thành tựu và hạn chế của chính sách trọng cung, trọng cầu. Từ đó phát hiện và xây dựng hướng nghiên cứu của đề tài. Bên cạnh những thông tin thứ cấp thu thập được, tác giả tiến hành phỏng vấn 16 chuyên gia về tái cấu trúc kinh tế. Để đảm bảo chất lượng thông tin thu thập được, tác giả quyết định lựa chọn phương pháp phỏng vấn chuyên sâu. Đây là phương pháp nghiên cứu mang tính định tính, giúp tác giả thu thập được những đánh giá của người tham gia về vấn đề tái cấu trúc kinh tế trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, phương pháp này giúp người tham gia phỏng vấn có thời gian để suy ngẫm và đưa ra những câu trả lời khách quan. Để đảm bảo hiệu quả thu thập thông tin, đề tài sử dụng kết hợp hai kỹ thuật phỏng vấn sâu, đó là phỏng vấn không cấu trúc và bán cấu trúc; bao gồm các loại câu hỏi về mô tả, quan điểm/ giá trị, cảm nhận, kiến thức … để thu thập đầy đủ các thông tin liên quan đến chủ đề nghiên cứu. Nội dung phỏng vấn tập trung vào bốn vấn đề chính, cụ thể: (i) thực trạng tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam, (ii) những thuận lợi và khó khăn của tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam, (iii) kinh tế trọng cung và (iv) các giải pháp chính sách điều chỉnh tái cơ cấu nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế tại Việt Nam hiện nay. Trong quá trình phỏng vấn chuyên gia, các thông tin được ghi ấm và ghi chép lại để đảm bảo tính chính xác của dữ liệu thu thập. Sau khi thu thập đầy đủ dữ liệu, tác giả tiến hành xử lý thông tin thứ cấp bằng cách tổng hợp, chọn lọc thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Ngoài ra, các thông tin phỏng vấn chuyên gia tái cấu trúc kinh tế cũng được tác giả tổng hợp, so sánh và chọn lọc để làm nổi bật thực trạng tái cấu trúc kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đề xuất các kiến nghị về chính sách điều chỉnh tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế. 4. Kết quả nghiên cứu Sơ lược lịch sử tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam Công cuộc đổi mới nền kinh tế của Việt Nam bắt đầu từ năm 1986 khi chuyển đổi từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cuộc đổi mới này đã mang lại sự tăng trưởng kinh tế liên tục cho Việt Nam. Từ năm 1986 đến năm 1996, mức tăng trưởng bình quân của nền kinh tế đạt 6,6%/năm; lạm phát từ 12,7% năm 1995 xuống còn 4,5% năm 1996. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng đáng kể, đặc biệt nông nghiệp Việt Nam từ một nước chỉ đủ tiêu dùng đã chuyển sang xuất khẩu. Đạt được những thành tựu này là do Việt Nam đã xóa bỏ hình thức sản xuất tập thể, tự do hóa sản xuất, mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích xuất khẩu. Về cơ bản, các chính sách trong giai đoạn này tập trung vào việc kích cung, tập 834
  6. trung nâng cao năng suất lao động và chất lượng nguồn lực. Nói cách khác, trong giai đoạn này, Việt Nam đã theo đuổi chính sách kinh tế trọng cung. Bước sang giai đoạn 1997- 2006, kinh tế Việt Nam mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1999. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân vẫn đạt 7,1%. Mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô vẫn được duy trì, tình trạng lạm phát vẫn giữ ở mức 4,5%/năm. Cơ cấu kinh tế chủ đạo trong giai đoạn này là sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, Việt Nam tiếp tục triển khai các chính sách tái cơ cấu nền kinh tế. Một trong những chính sách đó là thực hiện cổ phần hóa DNNN. Trong chính sách tài chính, Việt Nam tăng cường huy động vốn, thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển qua việc thành lập Sàn giao dịch chứng khoán (Nguyễn Quang Thái, 2015). Mặc dù đạt được những thành công nhất định trong ổn định kinh tế nhưng từ khi đổi mới đến năm 1998,Việt Nam bắt đầu rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách. Cụ thể, theo số liệu của Bộ Tài chính, mức bội chi từ năm 1998 là 2,49% đến năm 2000 tăng lên 18,5% (Lê Quốc Lý, 2008). Vậy. Để tiếp tục giữ mức tăng trưởng ổn định và phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính, Việt Nam đã áp dụng chính sách kinh tế trọng cầu, có nghĩa là tăng chi tiêu của chính phủ. Trong giai đoạn 2007- 2016, tăng trưởng GDP của Việt Nam bắt đầu giảm do tiếp tục chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ/châu Âu trong những năm 2007- 2009 cùng với cuộc khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu từ 2011 đến nay (Duy Cường và Thái Hà, 2016). Việt Nam tiếp tục thực hiện các gói kích thích tổng cầu để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể, Việt Nam đã thực hiện chính sách kích cầu trị giá 9 tỷ USD chống lại suy giảm kinh tế toàn cầu năm 2009. Thông qua thực hiện các chính sách kích cầu, Việt Nam vẫn giữ vững được mức tăng trưởng khá ổn định. Tăng trưởng GDP lên gần 4,2 triệu tỷ đồng năm 2015, nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng cao, kim ngạch xuất khẩu từ 70 tỷ năm 2006 tăng lên 330 tỷ USD năm 2015. Bên cạnh đó, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam liêu tục giảm từ 14% năm 2006 xuống 5% năm 2015. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng đây chỉ là giải pháp tạm thời và chỉ hiệu quả trong ngắn hạn. Bội chi ngân sách tiếp tục tăng cao, năm 2015 lần đầu chi tiêu ngân sách vượt 1,2 triệu tỷ đồng. Tỷ lệ nợ công tăng ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, đến cuối năm 2016, dư nợ công của Việt Nam khoảng 64,73% GDP và dư nợ Chính Phủ khoảng 53,62%. Vì vậy, trong giai đoạn mới, để tăng trưởng kinh tế bền vững, Việt Nam cần có chính sách tái cơ cấu kinh tế hướng tới nền kinh tế trọng cung. Thực trạng tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, và trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch phù hợp với mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại như thu hút FDI, xuất khẩu, du lịch… được chú trọng phát triển và có đóng góp to lớn vào tăng trưởng GDP quốc gia. Hội nghị Trung ương 3 khoá XI tập trung ưu tiên tái cơ cấu 3 lĩnh vực quan trọng là tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu DNNN và tái cơ cấu thị trường tài chính. Kết quả phỏng vấn đã chỉ ra một số thành công của Việt Nam trong tái cơ cấu kinh tế, cụ thể: 835
  7. Những thành công của tái cơ cấu kinh tế Việt Nam Về ổn định kinh tế vĩ mô: Theo đánh giá của các chuyên gia tái cấu trúc kinh tế, trong thời gian qua, Việt Nam đã bảo đảm duy trì được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Cụ thể, giai đoạn 2011 -2016, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định với 6,24% năm 2011 đến năm 2016 đạt 6,21%. GDP bình quân đầu người cũng tăng theo, từ 1.543 USD năm 2011 tăng lên 2.200 USD năm 2016. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm 2016 tăng 4,74% so tháng 12 năm 2015. Theo các chuyên gia, bất ổn vĩ mô trước năm 2011 dẫn đến nền kinh tế rơi vào trạng thái lạm phát trì trệ; điều này khiến Việt Nam một mặt phải đối phó với lạm phát, một mặt phải tìm cách cắt giảm lãi suất. Thông qua tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, lãi suất bình quân năm 2014 phổ biến ở mức 3,8-4,5%/năm, giảm rõ rệt so với năm năm 2011 dao động mạnh ở mức 13-15%. Hiệu quả đầu tư của nền kinh tế được thể hiện qua hệ số hiệu quả vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (ICOR - Incremental Capital output Ratio). Hệ số này giảm từ 5,3 năm 2011 xuống còn 5,1 năm 2015, cho thấy việc triển khai nguồn vốn đầu tư của nhà nước ngày càng tập trung và hiệu quả hơn. Ngoài ra, năng suất lao động toàn nền kinh tế Việt Nam năm 2016 ước tăng 5,31% so với năm 2015 (Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2016). Cụ thể, năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế năm 2016 theo giá hiện hành ước đạt 84,5 triệu đồng/người. Về tái cơ cấu đầu tư công: Theo các chuyên gia, tái cơ cấu đầu tư công nhằm khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, ưu tiên xử lý nợ xây dựng cơ bản. Thời gian qua, các chuyên gia cho rằng tái cơ cấu đầu tư công ở Việt Nam đang dần chuyển sang đầu tư công áp dụng quy trình đầu tư công chuẩn tắc qua việc ban hành nguyên tắc, tiêu chí, định mức và phân bổ vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn, tập trung cho các dự án quan trọng. Việt Nam đã siết chặt kỷ luật đầu tư công thông qua Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn NSNN và vốn trái phiếu Chính phủ. Cũng theo các chuyên gia, thành công trong tái cơ cấu đầu tư công còn thể hiện qua việc xây dựng Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Nhằm chia sẻ gánh nặng đầu tư từ nhà nước sang tư nhân, Việt Nam thực hiện thí điểm hợp tác công tư thông qua Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP đối với phát triển một số công trình. Ngoài ra, Việt Nam cũng thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư thông qua ban hành ban hành Chỉ thị 32/CT-TTg về xóa bỏ rào cản nâng cao hiệu quả đầu tư. Theo kết quả phỏng vấn, qua thực hiện các chính sách trên, hoạt động tái cơ cấu đầu tư công đã đạt được những thành công nhất định. Thứ nhất, hệ số ICOR của Việt Nam có xu hướng giảm cho thấy hiệu quả đầu tư của cả nền kinh tế đang dần được cải thiện. Điều này cũng phản ánh việc phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước tập trung hơn, đầu tư công tập trung cho các dự án cần thiết và cấp bách. Thứ hai, tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN đã giảm mạnh so với các năm trước, bình quân giai đoạn 2011-2014 là 18,73% trong khi giai đoạn 2006-2010 là 28%. Việc huy động vốn đầu tư từ khu vực tư nhân đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, trong đó huy động xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông thu hút gần 117.000 tỷ đồng. Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội đã chuyển dịch tích 836
  8. cực, trong đó đầu tư công giảm từ 35,5% năm 2010 xuống còn khoảng 30% năm 2015, đầu tư ngoài nhà nước tăng từ 36,1% lên 42% (Nguyễn Thị Tuệ Anh, 2014). Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước: Theo đánh giá của các chuyên gia, tái cơ cấu DNNN thời gian qua đã và đang được chú trọng trong đó tập trung vào cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Để đạt được kết quả đó, chính phủ đã từng bước thực hiện tái cơ cấu thông qua việc ban hành nhiều chính sách như Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu DNNN. Nhằm quản lý thoái vốn đầu tư ngoài ngành, chính phủ đã ban hành Nghị định 128/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014; Nghị định số 71/2013/NĐ-CP ngày 11/7/2013 của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN. Nhằm đẩy mạnh cổ phần hóa, ngày 06/3/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết số 15/NQ-CP về một số giải pháp đẩy mạnh CPH, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nhằm thực thi minh bạch hóa các hoạt động quản lý doanh nghiệp nhà nước Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 36/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 và có hiệu lực kể từ ngày 05/8/2015, ban hành Quy chế công bố thông tin hoạt động của công ty công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Thực hiện đổi mới quản trị doanh nghiệp Chính phủ đã ban hành Quyết định số 704/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 phê duyệt Đề án đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường. Theo các chuyên gia, những chính sách này đã mang lại sự chuyển biến trong công tác tái cơ cấu DNNN thời gian qua. Kết quả phỏng vấn đã chỉ ra rằng hệ thống DNNN đã và đang được đổi mới, và thu gọn. Năm 2001, Việt Nam có khoảng 6.000 DNNN, đến năm 2016, số lượng DNNN giảm chỉ còn 718. Về thoái vốn DNNN, năm 2016, các doanh nghiệp thoái được hơn 3.600 tỷ đồng, giúp ngân sách nhà nước thu về hơn 6.800 tỷ đồng. Về tình hình tài chính, DNNN tiếp tục nắm thị phần lớn, tập trung vào ngành, nghề kinh doanh chính. Tỷ trọng đóng góp vào GDP của các DNNN là lớn nhất, đạt 28,8% năm 2016. Ngoài ra, các chuyên gia cho rằng hầu hết các DNNN đều đã triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu được Thủ tướng Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương phê duyệt, cho thấy quá trình cổ phẩn hóa DNNN đã được chú trọng và đã đạt được một số kết quả khả quan (Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2016). Về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng: Các chuyên gia tái cấu trúc kinh tế nhận định trong thời gian qua, Việt Nam đã hoàn thành cơ bản phê duyệt các phương án cơ cấu lại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng yếu kém thông qua các chính sách như hoạt động xử lý nợ xấu. Ngày 18/5/2013, Chính phủ đã có Nghị định số 53/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC). Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến đầu năm 2016, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đã được đưa về mức 2,72%. Kết quả phỏng vấn cho thấy hệ thống ngân hàng đang dần trở nên ổn định, nợ xấu cơ bản đã được kiềm chế, các ngân hàng yếu kém được sáp nhập vào các ngân hàng khác mạnh hơn, một số ngân hàng yếu kém khác được NHNN mua lại với giá trị 0 đồng như GPBank, OceanBank và Ngân hàng Xây dựng. Cho đến nay, 837
  9. hệ thống các NHTM đã thu hẹp lại chỉ còn 35 ngân hàng sau khi đã xử lý 9 ngân hàng yếu kém năm 2014. Những hạn chế của tái cơ cấu kinh tế Việt Nam Bên cạnh những thành công đạt được trong thời gian qua, kết quả phỏng vấn cho thấy quá trình tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam vẫn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế. Cụ thể: Về tái cơ cấu đầu tư công: Các chuyên gia cho rằng hạn chế lớn nhất về tái cơ cấu đầu tư công chính là sự gia tăng chóng mặt của nợ công, thể hiện từ năm 2008 đến nay, nợ Chính phủ liên tục tăng cao và đặc biệt trong thời kỳ tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm năm 2011-2012. Điều này chỉ rõ nhu cầu tài trợ từ ngân sách nhà nước rất lớn và sự sụt giảm đầu tư đáng kể của khu vực tư nhân. Các chuyên gia nhận định nền kinh tế nhà nước vẫn nắm vai trò chủ đạo, chưa tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia cạnh tranh đầu tư. Bên cạnh đó, theo kết quả phỏng vấn, thu hút đầu tư tư nhân qua hình thức PPP (Public Private Partnership) chưa đạt hiệu quả do còn hạn chế về cơ sở pháp lý. Tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội vẫn chiếm tỷ trọng cao. Ngoài ra, trong khi chi ngân sách không giảm, kỷ luật đầu tư công lỏng lẻo, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều địa phương cố tình vi phạm trong quản lý đầu tư công. Điều này dẫn tới nợ công của Việt Nam ngày càng tăng cao. Các chuyên gia cho rằng nếu vẫn tiếp tục duy trì sự lấn át của nhà nước trong hoạt động kinh tế và hiệu quả đầu tư công không được cải thiện, chắc chắn nợ công sẽ tăng cao và sẽ vượt qua ngưỡng mà Quốc hội đặt ra khiến kinh tế vĩ mô gặp nhiều bất ổn trong thời gian tới. Về tái cơ cấu DNNN: Theo đánh giá của các chuyên gia, công cuộc tái cơ cấu DNNN thời gian qua còn chậm chạp và chưa cương quyết thực hiện. Tiến độ sắp xếp, cổ phần hoá ở các Bộ, địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu và kế hoạch đề ra. Tỷ lệ vốn Nhà nước ở các công ty cổ phần còn cao, thể hiện qua báo cáo số 436/CP tỷ lệ nắm giữ phần vốn nhà nước tại 426 doanh nghiệp thực hiện bán cổ phần lần đầu như sau: 70 doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ trên 90% vốn điều lệ, 82 doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ trên 65% vốn điều lệ; 96 doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ; 156 doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ. Điều này cho thấy việc cổ phần hóa còn mang nhiều tính hình thức do lợi ích nhóm trong các doanh nghiệp nhà nước thao túng. Bên cạnh đó, nhận thức của một bộ phận cán bộ ở các DNNN về chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp tuy đã có chuyển biến nhưng vẫn còn tư tưởng lo lắng về vị trí và vai trò lãnh đạo của mình sau cổ phần hóa, làm ảnh hưởng đến tiến độ của quá trình cổ phần hóa. Điều này chỉ rõ hạn chế, yếu kém lớn nhất của DNNN hiện nay đó là kém về năng lực quản lý, sợ ra thị trường, không giám cạnh tranh công bằng với khu vực tư nhân, ỷ vào Nhà nước. Về tái cơ cấu hệ thống tài chính tập trung vào NHTM: Theo đánh giá của các chuyên gia tái cơ cấu, hệ thống ngân hàng thương mại đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, do xu hướng đầu tư dịch chuyển sang đầu tư công nên nguồn vốn trên thị trường ngân hàng đang dịch chuyển mạnh sang thị trường trái phiếu chính phủ. Điều này dẫn tới hậu quả là lãi suất cho vay thực quá cao, hạn chế tiếp cận vốn của doanh nghiệp làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, do Nhà nước tập trung xử lý nợ xấu cho các ngân hàng nên nhiều ngân hàng không phải trả chi phí nào cho quá trình xử lý nợ 838
  10. xấu. Vì vậy, mặc dù nợ xấu còn rất cao nhưng lợi nhuận của các ngân hàng lại liên tục tăng. Tổng hợp những hạn chế trong tái cơ cấu kinh tế thời gian qua của Việt Nam, các chuyên gia cho rằng tái cơ cấu nền kinh tế chưa tạo ra sự thay đổi sâu rộng đồng thời chưa tạo ra động lực khuyến khích mới theo chuẩn mực kinh tế thị trường trong xu thế hội nhập. Kinh tế Nhà nước vẫn nắm chủ đạo, chưa có môi trường khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển cạnh tranh công bằng. Kinh tế Việt Nam thời gian qua vẫn thiên về các chính sách kinh tế trọng cầu trong khi các chính sách này chỉ hợp lý khi áp dụng trong thời gian ngắn. Vì vậy, theo các chuyên gia, Việt Nam cần quan tâm hơn đến các chính sách kinh tế trọng cung, đồng thời chỉ chú trọng đến các chính sách kinh tế trọng cầu ngắn hạn nhằm bảo đảm kinh tế phát triển bền vững. 5. Giải pháp Từ kết quả đánh giá, phân tích thực trạng về tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, tác giả đề xuất một vài kiến nghị về các chính sách tái cơ cấu kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể, Việt Nam cần triển khai các giải pháp chính sách tái cơ cấu kinh tế theo hướng trọng cung như sau: Thứ nhất, các chính sách của nhà nước cần tập trung cắt giảm chi tiêu chính phủ; giảm thuế, phí. Trong bối cảnh nợ công tăng nhanh và đầu tư công kém hiệu quả như hiện nay, việc cắt giảm thuế thu nhập DN và cắt giảm chi tiêu chính phủ là những giải pháp chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển trong dài hạn. Để làm được điều này, Chính phủ cần thực hiện một số chính sách cụ thể sau: Thứ nhất, các chính sách cần linh hoạt cắt giảm thuế cho khu vực tư nhân để tạo ra sự khuyến khích giúp doanh nghiệp tăng chi tiêu đầu tư, từ đó nâng cao nguồn cung, thu hút được vốn đầu tư từ bên ngoài giúp kinh tế hồi phục và duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Thứ hai, các chính sách cần tập trung cắt giảm chi tiêu chính phủ, giảm đầu tư công và giảm kích cầu, hướng tới nền kinh tế tăng trưởng bền vững, giảm tỷ lệ thất nghiệp, và ổn định đời sống xã hội. Thứ hai, các chính sách của nhà nước cần tập trung đẩy mạnh cổ phần hóa các DNNN. Nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, chính phủ cần tập trung vào đổi mới thể chế và cách thức quản trị DNNN thông qua xây dựng thể chế hướng tới thị trường tự do và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Để làm được điều này, các chính sách đưa ra trong thời gian tới cần hướng đến hoạt động cổ phần hóa thực chất, công khai, minh bạch các DNNN với sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân và nhà đầu khác. Chính phủ cũng cần xây dựng chính sách hướng đến vai trò của các DNNN trong việc là công cụ khắc phục những thất bại của thị trường, đồng thời giảm vai trò của DNNN trong việc là công cụ điều tiết nền kinh tế như thời gian vừa qua. Thứ ba, các chính sách của nhà nước cần tập trung thúc đẩy cạnh tranh và tự do thương mại. Các chính sách thúc đẩy cạnh tranh và tự do thương mại góp phần tăng cung thị trường, ổn định giá cả và mở rộng sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp trong nền kinh tế phải sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Bên cạnh đó, tự do 839
  11. thương mại thúc đẩy doanh nghiệp áp dụng phương pháp sản xuất mới như ứng dụng công nghệ mới, phương pháp quản trị mới ... Nhờ đó, chi phí sản xuất sẽ giảm, hàng hóa đa dạng và giá thành rẻ hơn. Để làm được điều này, trong thời gian tới, nhà nước cần đẩy mạnh một số chính sách hỗ trợ cạnh tranh và tự do thương mại. Cụ thể, thứ nhất, chính phủ nên đưa ra các quy định cụ thể hơn về chống độc quyền, chống lạm dụng vị thế chi phối thị trường của các tập đoàn nhà nước. Thứ hai, chính phủ cần tiếp tục thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các tập đoàn lớn và các tổng công ty nhà nước. Thứ ba, chính phủ cần ban hành thêm các chính sách tiếp tục cắt giảm thuế quan nhằm thúc đẩy tự do thương mại, tạo ra sự cạnh tranh và mở rộng quy mô thị trường. Thứ tư, các chính sách của nhà nước cần hướng đến cải thiện môi trường kinh doanh. Việt Nam đang hội nhập sâu rộng và thực hiện cơ chế thị trường ngày càng đầy đủ, vì vậy, vấn đề môi trường kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Môi trường kinh doanh tốt góp phần thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài, nhờ đó sản lượng nền kinh tế tăng cao giúp tăng trưởng kinh tế bền vững. Hiện nay, kinh tế tư nhân đang còn bị kinh tế nhà nước lấn át. Việc quản lý lạm dụng quyền lực, độc quyền cùng với vấn nạn tham nhũng và lợi ích nhóm còn phổ biến. Bên cạnh đó, các cơ chế chính sách chưa được thông thoáng gây phiền hà cho doanh nghiệp. Vì vậy, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, xây dựng thể chế kinh tế thị trường thu hút khu vực tư nhân là giải pháp chính sách cấp bách của chính phủ Việt Nam trong thời gian tới. Thứ năm, các chính sách của nhà nước cần tập trung cải thiện năng suất lao động xã hội. Tái cơ cấu kinh tế trong khi năng suất, chất lượng lao động còn kém sẽ không đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Vì vậy, triển khai chính sách kinh tế trọng cung trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động trong tái cơ cấu kinh tế trong thời gian tới ở Việt Nam là rất phù hợp. Chính vì vậy, Việt Nam cần chú trọng xây dựng và hỗ trợ phát triển các trường đại học nhằm đào tạo đầu ra chất lượng cao. Trong nghiên cứu áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, Việt Nam cần xây dựng các chính sách, biện pháp miễn giảm thuế cho đầu tư phát triển công nghệ. Đồng thời, nhà nước cần chú trọng xây dựng các chính sách hợp tác, liên kết với các quốc gia phát triển trong lĩnh vực khoa học công nghệ nhằm cải thiện năng suất lao động xã hội trong nền kinh tế. 6. Kết luận Tái cơ cấu nền kinh tế để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững là nội dung luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm trong nhiều năm qua. Thông qua phân tích, đánh giá thực trạng tái cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam những năm qua, bài viết đã tổng hợp và nêu ra những thành công và hạn chế trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam. Cho đến nay, tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam luôn đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Trong đó, Việt Nam tái cơ cấu ba nội dung chính trong giai đoạn 2011-2015, gồm: tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu DNNN và tái cơ cấu tài chính. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào, hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản xuất kém so với các quốc gia trong khu vực. Bên cạnh đó, tái cơ cấu kinh tế ngành và vùng kinh tế còn chậm. 840
  12. Trên cơ sở kết quả phân tích, đánh giá thực trạng tái cấu trúc kinh tế của Việt Nam và cơ sở lý thuyết về chính sách kinh tế trọng cung, bài viết đã đề xuất một số kiến nghị về giải pháp chính sách cho tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Nhà nước cần chú trọng vào các chính sách (i) cắt giảm chi tiêu chính phủ, cắt giảm thuế; (ii) đẩy mạnh tăng cường cổ phần hóa các DNNN; (iii) tăng cường cạnh tranh và tự do thương mại, (iv) cải thiện môi trường kinh doanh và (v) cải thiện năng suất lao động. Qua đó, góp phần xây dựng thành công công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Tái cơ cấu nền kinh tế là nội dung khá phức tạp bao trùm toàn bộ các lĩnh vực của nền kinh tế; vì vậy, nghiên cứu không thể đưa ra hết những nội dung từ thực tiễn cho đến giải pháp liên quan đến vấn đề này. Tác giả rất mong được sự góp ý của các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước để nghiên cứu được hoàn thiện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo số 460/BC-CP về Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 tại Kỳ họp Thứ 2, Quốc hội khóa XIV ngày 20/10/2016. Duy Cường, Thái Hà (2016), “Kinh tế Việt Nam dưới thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng”, VnEconomy ngày 29/3/2016. Feldstein Martin S. (2011), “The Tax Reform Act of 1986: Comment on the 25th Anniversary”, NBER Working Papers No. 17531. Kathaleeya Chanda, Komon Paisal (2015), “Development of Numerical Intergration Program”, Procedia - Social and Behavioral Sciences Volume 197, 25 July 2015, Pages 1736-1739. Lê Quốc Lý (2008), Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát ở Việt Nam Hiện Nay, Tiền phong tháng 5/2008. Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13. Nadia Farrugia (2004), Economic restructuring and supply-side policies: Some lessons for Malta, Bank of Valletta Review No. 24, 2004. Nghị định số 71/2013/NĐ-CP ngày 11/7/2013 của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Nghị Quyết số 15/NQ-CP về một số giải pháp đẩy mạnh CPH, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nguyễn Quang Thái (2015), “Tái cơ cấu nền kinh tế - thành tựu, vấn đề và triển vọng”, Tạp chí Nhịp cầu tri thức tháng 2 năm 2015. Nguyễn Thị Tuệ Anh (2014), Chuyển dịch cơ cấu ngành và đóng góp của chuyển dịch cơ cấu ngành vào chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. P. Hoagland, Kite-Powell, D. Jin, A.R. Solow (2013), “Supply-side approaches to the economic valuation of coastal and marine habitat in the Red Sea”, Journal of King Saud University - Science Volume 25, Issue 3, July 2013, Pages 217-228. 841
  13. Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức PPP đối với phát triển một số công trình. Quyết định số 339/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án “Tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020. Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN. Quyết định số 704/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 phê duyệt Đề án đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường. Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu DNNN. Steven Kate (1998), Say’s Law and the Keynesian Revolution: How Macroeconomic Theory Lost its Way, Edward Elgar Publisher (May 1998). Tổng cục Thống kê Việt Nam: www. gso.gov.vn. 842
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2